Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

đề tài tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

---TIỂU LUẬN

MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI Đề tài: Tăng cường vai trò quản lý hoạt động nhà nước đối

với hoạt động văn hóa trong thời đại hiện nay Họ và tên : Lê Minh Ngọc

Giảng viên : TS. Dương Thị Thục Anh

HÀ NỘI –2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>A. MỞ ĐẦU</b>

<i>1.Tính cấp thiết</i>

Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và nhân loại.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã chứng minh: nhờ có nền tảng văn hóa, hịa nhập và phát triển, nên nhân dân ta đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức sáng tạo to lớn để thắng “thiên tai, địch họa”, giữ vững nền độc lập và bản sắc văn hóa. Ngày nay, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, thì vai trị của văn hóa càng được khẳng định, nhất là trong điều tiết, cân bằng sự phát triển của đất nước, khơng để sự phát triển nhanh, nóng, dẫn tới những hệ lụy khó lường cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v.

Trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa thì quản lý văn hóa đóng vai trị rất quan trọng. Trên phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý văn hóa sẽ góp phần định hướng, điều chỉnh sự phát triển của văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa dân tộc. Trên phương diện vi mô, hoạt động quản lý văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, nhóm dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Những năm qua, quán triệt tinh thần: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”1 của Đảng, hoạt động quản lý văn hóa ở Việt Nam đã có những kết quả khả quan. Việc xây dựng, hồn thiện thể chế văn hóa ngày càng được kiện toàn theo hướng thiết thực, hiệu quả. Ngành văn hóa đã tập trung xây dựng, ban hành và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ, có giá trị pháp lý cao trên lĩnh vực văn hóa, tạo điều kiện để hoạt động quản lý ngày càng thuận lợi. Một số Luật đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành, đáp ứng tình hình thực tiễn, như: Luật Di sản vǎn hóa, Luật Điện ảnh, Luật Thể dục thể thao, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Du lịch, Luật Bình đẳng giới, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện,… Bên cạnh đó, hàng loạt các văn bản

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

quy phạm pháp luật khác cũng được xây dựng và hồn thiện, góp phần tạo cơ sở pháp lý cho cơng tác quản lý văn hóa. Qua đó, đã tạo điều kiện cho sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong kinh doanh và hoạt động văn hóa, khuyến khích sự mở cửa, giải phóng các nguồn lực, huy động được sự tham gia của toàn xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được kiện tồn và củng cố. Cơng tác “chuẩn hóa” cán bộ bước đầu phát huy tác dụng; đội ngũ cán bộ quản lý ngành văn hóa được đảm bảo về phẩm chất chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học,… Các thiết chế văn hóa từ Trung ương tới địa phương từng bước được hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng hoạt động. Nhiều trung tâm văn hố - thơng tin - thể thao, nhà hát, câu lạc bộ, rạp chiếu phim, khu di tích lịch sử - văn hoá, bảo tàng, thư viện, nhà triển lãm, cửa hàng sách, báo, khu vui chơi giải trí,… có những đổi mới về phương thức hoạt động, cơ sở vật chất được cải thiện. Một số cơng trình có quy mô lớn, kiến trúc đẹp, chất lượng phục vụ tốt đã đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân. Việc kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa được thực hiện thường xuyên, liên tục, bảo đảm sự vận hành của các hoạt động văn hóa. Nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận đã được thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời. Nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra ngày càng đi vào quy củ, công tác quản lý văn hóa đã có những chuyển biến tốt. Cơ chế quản lý văn hóa đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa và loại hình giải trí. Chính sách xã hội hóa trong văn hóa đã khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển văn hóa đất nước, v.v

Trong bối cảnh tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ, khơng một quốc gia nào có thể phát triển nếu đứng ngồi q trình này. Việt Nam cũng là một quốc gia biến động khơng ngừng nghỉ và có nhiều biến chuyển do tác động của tồn cầu hố. Tuy nhiên, trước q trình tồn cầu hố, trong lịng xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, đặc biệt là trong các hoạt động văn hố, đã ảnh hưởng khơng nhỏ tới đời sống của nhân dân và vai trò quản lý của nhà nước. Đây là thời điểm mà nhà nước cần nâng cao trách nhiệm và vai trò quản lý trong các hoạt động văn hố của đất nước.

Chính vì lý do trên, tiểu luận lựa chọn “Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động văn hố trong thời đại tồn cầu hố” là vấn đề nghiên cứu nhằm thể hiện góc nhìn về thực tiễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

của các hoạt động văn hoá trong bối cảnh tồn cầu hố và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong quản lý các hoạt động văn hoá trong thời đại khơng ngừng biến chuyển của đất nước.

<i>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:</i>

Trước những tác động của quá trình tồn cầu hố đến các hoạt động văn hố, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực của đời sống thì vai trị quản lý của nhà nước cần phải được tăng cường hơn bao giờ hết. Mặc dù đã có nhiều thành tựu trong q trình quản lý, song những ảnh hưởng tiêu cực vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết triệt để. Vậy nên, bài tiểu luận “Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động văn hố trong thời đại tồn cầu hố” được thực hiện nhằm mục đích đưa ra thực trạng của q trình tồn cầu hố trong các hoạt động văn hoá tại Việt Nam hiện nay và đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với các hoạt động văn hố trong bối cảnh tồn cầu hố.

- Để bài tiểu luận đạt được mục đích đã đề ra thì cần làm rõ những nhiệm vụ sau:  Vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động văn hố

 Tác động của tồn cầu hố đến các hoạt động văn hoá của Việt Nam hiện nay.

 Giải pháp đổi mới và nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động văn hoá trong bối cảnh tồn cầu hố.

3. Đốối tượng và ph m vi nghiên c uạ ứ :

V i đềề tài “Tăng cớ ường vai trò qu n lý Nhà nả ước đốối v i ho t đ ng văn hoá trong th i đ i toàn ớ ạ ộ ờ ạ cầều hoá”, bài t u lu n gi i h n ph m vi nghiền c u vai trò qu n lý c a nhà nể ậ ớ ạ ạ ứ ả ủ ướ c trong các ho tạ đ ng văn hố và đốối tộ ượng chính là vai trò qu n lý c a nhà nả ủ ướ c.

Phương pháp nghiền c u:ứ

Ti u lu n d a trền phể ậ ự ương pháp duy v t bi n ch ng c a ch nghĩa Mác – Lenin, t tậ ệ ứ ủ ủ ư ưởng Hốề Chí Minh cùng các quan đi m c a Đ ng C ng s n Vi t Nam, chính sách c a nhà nể ủ ả ộ ả ệ ủ ước vềề văn hoá. Đốềng th i, s d ng phờ ử ụ ươ ng pháp nghiền c u phần tch và t ng h p lý thuyềốt, phứ ổ ợ ươ ng pháp thu th p thống tn.ậ

4. Kêốt cấốu c a t u lu n:ủ ể ậ

Đ đ t để ạ c m c đích đã đềề ra và khai thác tri t đ ch đềề, bài nghiền c u seẽ bao gốềm 3 phầền:ượ ụ ệ ể ủ ứ M đầều, N i dung và Kềốt lu n. Trong đó, phầền N i dung seẽ có các chở ộ ậ ộ ươ ng sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Ch ương 1: Vai trò qu n lý c a nhà nả ủ ước đốối v i ho t đ ng văn hoá.ớ ạ ộ

Ch ương 2: Tác đ ng c a toàn cầều đềốn các ho t đ ng văn hoá c a Vi t Nam hi n nay.ộ ủ ạ ộ ủ ệ ệ Ch ương 3: Gi i pháp đ i m i và nầng cao vai trò qu n lý c a nhà nả ổ ớ ả ủ ước đốối v i ho t đ ng văn ớ ạ ộ hố trong bốối c nh tồn cầều hố.ả

<b>B. NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG 1: VAI TRỊ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNGVĂN HOÁ</b>

1. Một số những khái niệm cơ bản: a, Văn hoá và hoạt động văn hố:

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hố, mỗi định nghĩa đều phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Chung quy có thể rút ra một định nghĩa văn hoá theo khái niệm như sau: Văn hoá là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong lịch sử, phục vụ cho sự tồn tại và phát triển, nhằm hướng tới chân, thiện, mỹ.

Như vậy, hoạt động văn hố là q trình sáng tạo và tổ chức những giá trị vật chất, tinh thần và hưởng thụ các sản phẩm văn hoá.

b, Quản lý nhà nước:

Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng pháp luật đến các đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và chức năng đối ngoại của nhà nước.Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước gồm: cơ quan nhà nước, cá nhân được ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.

Hoạt động quản lý hiện nay được thực hiện trên các lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối với hoạt động quản lý nhà nước.

c, Tồn cầu hố:

Tồn cầu hố là một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hố đến mơi trường,…) giữa các quốc gia. Nói một cách khác thì “Tồn cầu hố là q trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.”.

d, Vai trị của hoạt động văn hố:

Văn hố là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Là mục tiêu của phát triển, văn hoá thể hiện trình độ nhân bản hố ngày càng đầy đủ, ngày càng toàn diện của con người, khiến mỗi cá nhân và cả cộng đồng ngày một tiến bộ, văn minh hơn. Là động lực của phát triểm, văn hoá giải phóng và nhân lên tiềm năng sáng tạo vơ tận của nguồn lực con người, từ đó khai thác tốt nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, đồng thời tiếp thu và sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Đầu tư tài chính cho văn hoá:

Đầu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là một hoạt động sản xuất cũng cần tính đến hiệu quả đầu tư. Cấp ngân sách cho văn hoá cũng kèm theo những quy tắc như bất kỳ loại hoạt động tài chính nào khác khi yêu cầu đặt ra là phải đạt tới mục tiêu quốc gia mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

- Kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá:

Tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động văn hoá là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước, đặc biệt là hoạt đoojng của các cơ quan kiểm duyệt, thanh tra do văn hố có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, tác động trực tiếp tới việc hình thành nhân cách; do xu hướng xã hội hoá văn hoá ngày càng phát triển và mở rộng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TỒN CẦU HỐ ĐẾN HOẠTĐỘNG VĂN HỐ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY</b>

Tồn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia. Q trình này có ảnh hưởng rất lớn đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc, mà trực tiếp nhất là ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước. Đặc biệt là vai trò của nhà nước trong quản lý hoạt động văn hoá.

<i>1. Thực tiễn của hoạt động văn hoá Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố:</i>

Thực trạng cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay

Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Thời gian qua, cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa đã đạt được nhiều kết quả.

Trước tiên, việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa ở nước ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn. Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, như Luật Điện ảnh, Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện...; kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung một số văn bản luật đã ban hành để phù hợp với tình hình mới, như Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa... Bên cạnh đó là hàng loạt các văn bản dưới luật đã được xây dựng, ban hành. Nhờ đó hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về văn hóa từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, tích cực bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của nhân dân, tác động sâu rộng đến đời sống văn hóa của đất nước.

Chính phủ ban hành nhiều chế độ, chính sách đặc thù, như chính sách về hoạt động và hưởng thụ văn hóa, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chính sách về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc; những chính sách khuyến khích và tơn vinh hoạt động sáng tạo (Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú); chế độ ưu đãi đặc thù đối với nghệ sĩ, học sinh các trường văn hóa - nghệ thuật...; các quy định về thành lập bảo tàng, xây dựng tượng đài...; xây dựng và hoàn thiện các quy định, hướng dẫn tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội; việc cúng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

bái ở các đền chùa, việc đốt vàng mã, việc giữ gìn trật tự vệ sinh nơi cơng cộng...; khuyến khích nhân dân các xã, phường, thơn ấp, cụm dân cư, khu tập thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các quy ước về nếp sống vǎn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh nơi công cộng, bảo vệ môi trường thiên nhiên, cảnh quan sạch đẹp.

Các chiến lược, quy hoạch phát triển các lĩnh vực cũng được xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, gồm Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...; Quy hoạch phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch phát triển ngành điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...

Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành văn hóa ngày càng được kiện tồn và củng cố, từng bước nâng cao năng lực quản lý, đổi mới phương thức quản lý, thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, văn nghệ. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình gắn với chủ đề “Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình” được đẩy mạnh, đặc biệt là vào các dịp Ngày Gia đình Việt Nam, Ngày Quốc tế hạnh phúc, Ngày Thế giới phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, Tháng Hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình.

Thứ ba, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các địa phương đẩy mạnh công tác nghiên cứu, kiểm kê, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng, ghi danh di sản văn hóa ở trong nước và quốc tế. Cả nước hiện có trên 4 vạn di tích được kiểm kê, trong đó có gần 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.486 di tích quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản thế giới (2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa, 1 di sản hỗn hợp), 12 di sản văn hóa phi vật thể. Ngồi ra, theo Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, đến nay Việt Nam đã có 7 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 4 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương).

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Thứ tư, cơng tác bảo tàng cũng có những bước phát triển đáng ghi nhận. 166 bảo tàng (127 bảo tàng công lập và 39 bảo tàng ngồi cơng lập) - nơi lưu giữ và phát huy giá trị của hơn 3 triệu hiện vật phản ánh toàn diện về đất nước và con người Việt Nam trong trường kỳ lịch sử, đã và đang phát huy giá trị góp phần khơng nhỏ trong việc giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, về bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời tạo ra những điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển du lịch. Nhiều bảo tàng trên cả nước bước đầu được đổi mới trưng bày theo định hướng tăng cường các hiện vật gốc, áp dụng các phương tiện khoa học - kỹ thuật để làm phong phú và hấp dẫn nội dung trưng bày, đổi mới hình thức phục vụ cơng chúng để thu hút ngày càng nhiều hơn khách tham quan. Hệ thống bảo tàng phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục tổ chức cho các em học sinh đến tham quan học tập, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao cho các đối tượng học sinh trong dịp kỷ niệm hằng năm, như Ngày Quốc tế bảo tàng (18-5), Ngày Quốc tế thiếu nhi (1-6), Ngày Hội khai trường (5-9), Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23-11) nhằm tạo cho thế hệ trẻ niềm tự hào, lịng say mê tìm hiểu văn hóa, lịch sử dân tộc để nâng cao tri thức. Hằng năm, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều thu hút trên 1 triệu lượt khách tham quan; Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Bảo tàng Điêu khắc Chăm thành phố Đà Nẵng, Bảo tàng Đắk Lắk... cùng nhiều bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh khác cũng đã tự vươn lên để trở thành những điểm đến thường xuyên trong các tuyến du lịch của nhiều đối tượng du khách. Năm 2017 và 2018, tổng số khách tham quan bảo tàng đều đạt khoảng 16,5 triệu lượt.

Thứ năm, công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn cả nước đã có sự chuyển biến tích cực, dần đi vào nền nếp. Các hoạt động lễ hội diễn ra trang trọng, an toàn, tiết kiệm, cùng nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và các trị chơi dân gian sôi nổi thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia. Các lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với xu thế thời đại đã chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ.

Nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành những điểm đến thu hút khách trong và ngoài nước, tạo nên thương hiệu, dấu ấn riêng của địa phương có di sản, như Lễ hội đền Sóc, chùa Hương ở Hà Nội, Lễ hội đền Hùng ở tỉnh Phú Thọ, Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc ở tỉnh Hải Dương, Lễ hội Yên Tử ở tỉnh Quảng Ninh, ca Huế, Lễ hội Bà Chúa Xứ ở tỉnh An Giang, Lễ hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Ook om bok ở tỉnh Trà Vinh, Lễ hội Kate hay Gốm Chăm ở Bàu Trúc, tỉnh Ninh Thuận..., góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao đời sống cộng đồng.

Thứ sáu, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, vượt bậc so với những giai đoạn trước. Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tơn giáo - một kết quả quan trọng, nỗ lực nhằm mục đích thể chế hóa một cách đầy đủ nhất quan điểm, chính sách của Đảng về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Việc xây dựng và ban hành luật này nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người dân.

Bên cạnh việc thể chế hóa quan điểm, chính sách về tơn giáo, tồn bộ hệ thống chính trị đã rất quan tâm, chú trọng việc tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người. Với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đơng đảo chức sắc, chức việc, tín đồ các tơn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc; đồng bào theo tôn giáo và khơng theo tơn giáo đồn kết, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự... góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới.

Thứ bảy, hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngồi từng bước được mở rộng cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, hoạt động giao lưu các đoàn biểu diễn nghệ thuật và trao đổi sách, báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu, đào tạo... giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy mạnh. Nhiều hiệp định văn hóa với các nước và nhiều tổ chức quốc tế, các điều ước quốc tế song phương và đa phương về di sản văn hóa, về quyền tác giả và quyền liên quan đã được ký kết; nhiều dự án về hợp tác văn hóa được thực hiện có hiệu quả. Chúng ta có nhiều cơ hội tiếp xúc rộng rãi hơn với văn hóa thế giới và chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nhiều hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế trên quy mơ lớn đã được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài gây được tiếng vang và tạo được ấn tượng tốt đẹp trong lịng bè bạn về truyền thống văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Sự hiện diện, tham gia và ảnh hưởng của Việt Nam được tăng cường tại các sự kiện có quy mơ, chất lượng, uy tín nhất trên thế giới về văn hóa, như Triển lãm EXPO (EXPO Thượng Hải 2010,

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

EXPO Hàn Quốc 2012, EXPO Milan 2015, EXPO Astana 2017). Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh quốc tế vào Việt Nam và các triển lãm của Việt Nam ra nước ngoài thời gian qua cũng đã làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người bạn bè quốc tế và con người Việt Nam, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

Thứ tám, phát triển cơng nghiê ˜p văn hóa cũng đạt những thành tựu nhất định. Doanh thu khu vực doanh nghiệp điện ảnh năm 2018 đạt 3.353 tỷ đồng (tương đương khoảng 145 triệu USD), dự báo đến năm 2020 ngành điện ảnh có thể đạt mức 150 triệu USD. Về du lịch, năm 2018, nước ta đón gần 15,5 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt hơn 620.000 tỷ đồng. Về mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, năm 2017 tổng số triển lãm nghệ thuật trong cả nước là 380 cuộc; tác phẩm/tác giả tham gia triển lãm, hội chợ là 70.160 tác phẩm/10.958 tác giả; số lượng người xem triển lãm là 1.131.252 người; tổng số kinh phí dành cho hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm là 74.949.283 đồng, trong đó từ nguồn ngân sách nhà nước là 43.301.638 đồng, cịn lại từ nguồn xã hội hóa. Về nghệ thuật biểu diễn, năm 2018, 2.118 buổi biểu diễn được tổ chức, doanh thu bán vé khoảng 104.165.240.400 đồng. Về quảng cáo, năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018, doanh thu quảng cáo trên các phương tiện truyền hình là 64.104.908.921 đồng; trên báo in: 1.067.129.234 đồng; trên tạp chí: 762.907.174 đồng; trên đài phát thanh: 1.462.066.374. Số lượng doanh nghiệp của ngành quảng cáo đến năm 2017 là 2.963.

<i>2. Về hạn chế của quản lý nhà nước về văn hóa</i>

Tuy nhiên, cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa vẫn cịn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, tuy chúng ta đang tiến hành quản lý văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, nhưng dấu ấn của cơ chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm, khiến cho nhiều cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức văn hóa vẫn trơng chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa phát huy tốt tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa phát huy hiệu quả cao. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa cịn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp luật về văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, việc tổ chức thực hiện còn chậm, một số văn bản chưa thực sự đi vào cuộc sống. Cơng tác kiện tồn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành Văn hóa,

</div>

×