Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận công tác xã hội công tác xã hội Đối với trẻ em lao Động sớm Ở quận cầu giấy – thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.12 KB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỜI NÓI ĐẦU</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài:</b>

Như chúng ta đã biết, trẻ em là một phần quan trọng của xã hội, là tương lai tươi sáng của đất nước, là tờ giấy trắng được xã hội dần dần vẽ lên trong quá trình xã hội hóa. Trẻ em cũng như một số nhóm đối tượng khác dễ bị tổn thương bởi những quy kết, tác động từ bên ngoài. Trẻ em cần dược hưởng những gì tốt đẹp nhất, những nhu cầu về ăn, mặc, ở, học hành,và nhu cầu phát triển an tồn. Vì vậy cần thiết chúng ta phải có những biện pháp cụ thể để giúp trẻ em được sống với những nhu cầu chính đáng của mình. Trong hàng loạt những vấn nạn đó tình trạng trẻ em bị bóc lột, bị lạm dụng sức lực, bị ngược đãi, bị sang chấn tâm lý đang là vấn đề nhức nhối.

Vậy nguyên nhân do đâu mà các em phải sớm lao vào cuộc sống mưu sinh mà quên đi tuổi thơ của mình?Và chúng ta phải làm gì để giúp cho trẻ em có được cuộc sống tốt đẹp nhất? Câu hỏi này muốn trả lời được cần phải có sự chung tay, góp sức của tồn xã hội, ý thức của tất cả mọi người dành cho tương lai của Đất nước.

<i><b>Từ những vấn đề trên, em xin chọn đề tài: “Công tác xã hội đối với trẻem lao động sớm ở Quận Cầu Giấy – Thành phố Hà Nội hiện nay” để làm</b></i>

đề tài nghiên cứu của mình.

<b>2. Tình hình nghiên cứu:</b>

Trẻ em luôn là ưu tiên hàng đầu của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và tồn xã hội, hầu hết ai cũng có ý thức dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất, đảm bảo cho trẻ em có được một cuộc sống đầy đủ cả về vật chất và tinh thần. Thế nhưng, bóc lột sức lao động trẻ em hay tình trạng trẻ em phải lao động sớm không phải là mới lạ với chúng ta, đây lại là vấn đề đặc biệt nhạy cảm của những người làm Công tác xã hội.

Nghành Công tác xã hội (Social Work) cũng đã lập ra một chuyên nghành mang tên “Công tác xã hội trẻ em” để nghiên cứu những vấn đề mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

trẻ em gặp phải, những nhu cầu mà trẻ em mong muốn, và giúp người lớn hiểu những điều mà trẻ em chỉ nói ra bằng hành động, cử chỉ, hay ánh mắt.

Cũng đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về trẻ em, về các vấn đề như: nạn bạo hành trẻ em, trẻ em lang thang – những cơ hội học tập, trẻ em bị sang chấn tâm lý, và tình trạng lao động sớm ở trẻ em, trẻ em vi phạm pháp luật…

Nổi bật lên là những đề tài nghiên cứu được nhiều người biết đến và công nhận như:

 Lao động trẻ em trên địa bàn TP. HCM – thực trạng và giải pháp (TS. Đỗ Thị Loan – Viện nghiên cứu và phát triển TP. HCM)

 Chùm nghiên cứu về đề tài trẻ em (Viện nghiên cứu và phát triển xã hội) trong đó đề cập đến vấn đề sức khỏe của trẻ em lao động sớm.

 Công tác xã hội với trẻ em lao động sớm (đăng tải trên diễn đàn Vnsocialwork.net)

Và rất nhiều bài báo, bài tiểu luận của sinh viên các trường Đại học cũng chọn lao động trẻ em làm đối tượng chính. Qua đó có thể thấy được mức độ quan trọng của vấn đề là như thế nào.

<b>3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:</b>

<i><b>3.1. Ý nghĩa khoa học:</b></i>

Đây là vấn đề đáng quan tâm của tất cả các cấp, các nghành và của tồn xã hội, bởi trẻ em chính là tầng lớp sẽ kiến tạo nên một xã hội mới giàu mạnh và văn minh hơn. Nhưng cũng trẻ em hiện nay đang gặp phải những vấn đề dẫn đến hạn chế phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần. Thông qua đề tài nghiên cứu này hi vọng rằng toàn xã hội sẽ quan tâm hơn đến những mầm non tương lai của Đất nước, đặc biệt là những em có hồn cảnh đặc biệt.

<i><b>3.2. Ý nghĩa thực tiễn:</b></i>

Khơi dậy trong mỗi người ý thức về chăm sóc và bảo vệ trẻ em, cho trẻ em đựợc phát triển trong mơi trường an tồn nhất. Trang bị những kiến thức cơ bản nhất cho các bậc làm cha làm mẹ, những người lớn về nhu cầu phát triển của trẻ thơ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>4. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu:</b>

<i><b>4.4. Mục tiêu nghiên cứu:</b></i>

- Những công việc các em phải làm

- Nguyên nhân vì sao các em phai lao động sớm.

<i><b>4.5. Phạm vi nghiên cứu:</b></i>

 Không gian: Quận Cầu Giấy  Thời gian: từ năm 2014-6/2014.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu:</b>

Qua một thời gian ngắn tìm hiểu, làm việc tơi đã sử dụng những phương pháp thu thập thơng tin để có được những thơng tin chính xác nhất về những vấn đề nảy sinh ở đây:

 Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu.  Phương pháp quan sát trong khi phỏng vấn.  Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp.

Tiến hành những phương pháp thu thập thông tin này với các đối tượng là trẻ em lao động sớm, những người sử dụng lao động sớm, cha mẹ các em, những người có thẩm quyền tại địa phương, và một số người có liên quan khác.

<b>6. Giả thuyết nghiên cứu:</b>

 Trẻ em phải lao động sớm trên địa bàn thành phố Hà Nội tập trung chủ yếu ở các gia đình có hồn cảnh khó khăn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

 Nguyên nhân của tình trạng trẻ em lao động sớm gồm có: hồn cảnh kinh tế gia đình, sự thiếu nhận thức của các bậc làm cha làm mẹ, những nguyên nhân từ xã hội, do bất cập của pháp luật, sự yếu kém của các cơ quan quản lý.

 Hậu quả của tình trạng trẻ em lao động sớm: các em phải bỏ học chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN</b>

<b>1.1. Một số khái niệm cơ bản</b>

 An sinh xã hội: Về cơ bản là một hệ thống các biện pháp thực thi bởi các tổ chức xã hội hay Nhà nước, bao gồm chính sách và pháp luật, chương trình quyền lợi và dịch vụ đáp ứng những nhu cầu con người.

 Công tác xã hội trẻ em: Là một trong những lĩnh vực hoạt động chính của Cơng tác xã hội, nó nhằm thúc đẩy mối quan hệ của trẻ em với các lực lượng xã hội và gia đình để giải quyết vấn đề của trẻ. Với những trẻ em lao động sớm, nhân viên Công tác xã hội cần đưa ra những phương pháp tiếp cận phù hợp để nhằm giúp các em có được những nhu cầu của bản thân, tránh đi những thiệt thịi và tổn thương khơng đáng có.

<i><b>1.1.1. Trẻ em</b></i>

 Theo công ước Quốc tế: “Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn.”

 Theo Luật chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em 1991: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.”

 Theo định nghĩa sinh học: “Trẻ em là con người ở giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành.”

 Tâm lý học cho rằng: “Trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người.”

 Nhìn dưới góc độ Xã hội học: “Trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là giai đoạn đóng vai trị quyết định của việc hình thành nhân cách của mỗi con người.”

<i><b>1.1.2. Trẻ em lao động sớm</b></i>

Là những trẻ em phải lao động để tự nuôi sống bản thân, gia đình, sống trong những điều kiện khơng an tồn, ngồi làm việc hầu như các em khơng có các hoạt động vui chơi giải trí.

<b>1.2. Nhu cầu cơ bản của trẻ em</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><b>1.2.1. Nhu cầu chung của trẻ em</b></i>

 Nhu cầu vật chất: bao gồm thực phẩm, nước uống, nơi ở, điều kiện chăm sóc vệ sinh, sức khỏe. Tất cả các yếu tố này đảm bảo cho sự phát triển thể lực của trẻ.

 Nhu cầu mái ấm gia đình: đó là tình u thương của ông bà, cha mẹ, anh chị, họ hàng. Gia đình êm ấm là chỗ dựa vật chất và tinh thần an tồn nhất đối với các em. Gia đình là cái nôi đầu tiên cho các em học cách xã hội hóa cá nhân, từ đây các em học cách làm người, học cách cho và nhận tình yêu thương nhân loại, học cách gánh vác các trách nhiệm của người cha, người mẹ, người anh, người chị,…Mối quan hệ xã hội sau này ở tuổi trưởng thành có thành công hay không là phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng mối quan hệ gia đình của trẻ.

 Nhu cầu được vui chơi, học hành, được phát triển trí tuệ: hoạt động vui chơi cũng như học hành sẽ giúp các em trải nghiệm cuộc sống, phát triển trí tuệ và tích lũy kiến thức, hiểu biết cho mai sau.

 Nhu cầu được thừa nhận, được tôn trọng: việc thừa nhận những đặc điểm tính cách sẽ làm tăng tính tự tin ở trẻ; những lời khen, những cơng nhận thành tích của trẻ sẽ làm tăng nghị lực, giúp trẻ vượt qua khó khăn mỗi khi vấp ngã.

<i><b>1.2.2. Nhu cầu của trẻ em lao động sớm</b></i>

Theo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Đánh giá nhu cầu giáo dục của trẻ em có hồn cảnh đặc biệt”. Ngồi những nhu cầu nêu trên thì nghiên cứu đánh giá nhu cầu giáo dục của trẻ em lao động sớm đã chỉ ra rằng phần lớn các trẻ em phải lao động sớm vẫn có nhu cầu giáo dục. Các em mong được học tập với chương trình và hình thức giáo dục linh hoạt, giáo dục thường xuyên và dặc biệt cần các khóa đào tạo nghề ngắn hạn với các nghề mà xã hội đang cần, dễ xin được việc làm. Các khảo sát trường hợp tại địa phương cũng cho thấy nhu cầu giáo dục phòng ngừa trẻ em lao động sớm, tác động đến ý thức của phụ huynh và giáo viên phổ thông về quyền học tập của trẻ em, sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nhạy cảm trước mỗi số phận, nhất là trẻ em gia đình nghèo và có học lực yếu kém(nhóm dễ bỏ học tham gia lao động sớm nhất).

<b>1.3. Công ước Quốc tế về quyền trẻ em</b>

Công ước về quyền trẻ em là luật Quốc tế để bảo vệ Quyền trẻ em bao gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các Quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn Thế giới đều được hưởng và được Liên hiệp quốc thông qua năm 1989.

Công ước đã được hầu hết các nước trên Thế giới đồng tình và phê chuẩn. Việt Nam là nước đầu tiên ở Đông Nam Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Trong đó nêu lên bốn nhóm quyền chính của trẻ em là :

 Quyền được phát triển

Việc phân chia bốn nhóm quyền này chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên thực tế các nhóm quyền này có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau.

<b>Chương 2</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TẠI QUẬN CẦU GIẤY – THÀNH PHỐ HÀ NỘI</b>

<b>2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan</b>

Quận Cầu Giấy nằm ở phía Tây nội thành Hà Nội. Phía Đơng giáp quận Đống Đa và quận Ba Đình; phía Tây giáp huyện Từ Liêm; phía Nam giáp quận Thanh Xuân; phía Bắc giáp quận Tây Hồ.

Diện tích : 12,04 km2.

Dân số: khoảng 201.600 người ( năm 2009).

<b>Tình hình kinh tế-xã hội</b>

Từ một vùng đất ven đô, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế còn nghèo nàn, cơ sở hạ tầng yếu kém, giờ đây Cầu Giấy là quận nội thành với kết cấu hạ tầng đô thị ngày càng văn minh hiện đại, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, an ninh quốc phòng được bảo đảm.

<i>Về kinh tế:</i>

Những năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm của quận Cầu Giấy bình quân đạt 30%, thu ngân sách bình quân tăng 64%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng ngày càng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ-công nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Năm 2008, tổng thu ngân sách của quận đạt 1.100 tỷ đồng; doanh thu từ hoạt động thương mại-dịch vụ đạt 21.500 tỷ đồng; Giá trị sản xuất công nghiệp-xây dựng cơ bản đạt 3.500 tỷ đồng.

Hiện nay, quận đang có 3 xu hướng đơ thị hóa: Hình thành các trung tâm cơng nghiệp, thương mại dịch vụ mới; mở rộng đô thị từ các phường ven đô tới các nơi xa hơn; chuyển đổi những vùng nơng thơn có điều kiện phát triển sản xuất, giao lưu hàng hóa hình thành các đơ thị, các trung tâm buôn bán. Năm 2008, quận đã đầu tư cho xây dựng 176 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với tổng vốn đầu tư 412,7 tỷ đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Về làng nghề truyền thống: Cầu Giấy là nơi tập trung nhiều làng nghề</i>

truyền thống như: Làng nghề Nghĩa Đơ làm giấy sắc, Làng Cót – Yên Hòa làm giấy bản, giấy moi, quạt giấy. Làng Vịng – Dịch Vọng chun làm cốm, làng Giàn có nghề làm hương.

<i>Lao động việc làm: Hàng năm quận đã tạo việc làm cho 3500-4000 lao</i>

động. Năm 2008, hỗ trợ giải quyết việc làm cho 4.880 lao động; trong đó lao động có đào tạo đạt 55%.

<i>Về văn hóa-xã hội:</i>

Quy mơ giáo dục của quận phát triển tồn diện ở các ngành học, cấp học với 52 trường học từ mẫu giáo đến trung học phổ thơng. Năm 2008, có 16 trường đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 12 trường cơng lập và 4 trường ngồi cơng lập).

<b>2.2. Thực trạng “trẻ em lao động sớm”</b>

Theo số liệu mới công bố của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hiện có khoảng 218 triệu lao động trẻ em trên tồn thế giới, trong đó 100 triệu là trẻ em gái và hơn một nửa số trẻ em gái này đang phải lao động trong các điều kiện nguy hiểm, độc hại. Ở Việt Nam độ tuổi trung bình trẻ em bắt đầu lao động là 13 – 14 tuổi. Trẻ em vạn đò phải học chèo thuyền từ 5 – 6 tuổi, 10 – 12 tuổi đã đi làm kiếm tiền…

Những số liệu gần đây cho thấy, trẻ em từ 6 – 17 tuổi tham gia vào những hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo…) tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao; 71,2% trẻ em làm việc từ 9 – 12 giờ/ ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày chủ nhật; 1% trẻ làm việc trong diều kiện sức khỏe yếu. Nhóm trẻ độ tuổi từ 15 – 17 tuổi có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng lưu ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng…

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy, trong vòng 5 năm lại đây, cả nước cả nước có khoảng trên dưới 40.000 trẻ em tham gia các hình thức lao động. Trẻ em nơng thôn tham gia hoạt động kinh tế sớm hơn và nhiều hơn trẻ em thành thị, với khoảng 19% so với trên dưới 7%. Trẻ em ở những vùng quê nghèo, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long phải lao động nhiều hơn, các chỉ số này lần lượt ở những vùng kể trên là 25,9%; 19,8% và 19,7%.

Tại địa bàn Quận Cầu Giấy theo ước tính tồn phường có khoảng 9300 trẻ em, và có khoảng 7% trong đó rơi vào tình trạng lao động sớm. Theo thống kê của phịng Lao động thương binh xã hội của Quận, thì có 12% số trẻ em của khối phải đi làm kiếm sống.

Em N.V.H (16 tuổi) hiện đang làm thợ phụ tại xưởng sản xuất cơ khí phục vụ nơng nghiệp. Tâm sự H kể lấy lý do nhà ở gần xưởng ông chủ thường bắt H phải đến sớm dọn dẹp lại xưởng, làm những việc lặt vặt nhưng khơng kém phần nặng nhọc. Ơng chủ cịn nói những việc đó mới phù hợp với số tiền lương 600.000 đ/tháng. Theo điều tra tìm hiểu tơi được biết đây khơng phải là trường hợp duy nhất mà cịn rất nhiều những đứa trẻ làm việc trong xưởng cơ khí tư nhân này, các em chủ yếu là con em của những gia đình trong vùng và những vùng lân cận. Hàng ngày các em phải làm việc từ 5 giờ sáng, đến tận 7 giờ tối thì được nghỉ, hơm nào nhiều hàng thì phải tăng ca nhưng lại không được tăng lương. Công việc thường không được định trước mà do chủ giao việc gì thì làm việc đó, lúc thì vận chuyển hàng, giao hàng cho khách, có khi các em phải mang những thanh sắt nặng gấp mấy lần cơ thể mình trên vai. H chăm chỉ làm việc ở đây là vì đã được ông chủ hứa dạy nghề cho, nhưng 3 năm trôi qua em vẫn chỉ là một thợi phụ, chân sai vặt của chủ với đồng lương ít ỏi.

Em H.T.T (14 tuổi) nhà ở khối 12, đã làm thuê cho một nhà hàng ở phường Dịch Vọng. Ngày nào cũng như ngày nào em phải thức khuya dậy sớm dọn dẹp, rửa bát, quạt than, bưng bê cho khách và hàng trăm việc lặt vặt

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khác. Làm việc vất vả là thế nhưng tiền lương mỗi tháng chỉ được hơn 700.000đ, em lại hầu như chẳng được tham gia bất cứ hoạt động nào của một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi chơi. Khi được hỏi lý do vì sao em lại chấp nhận đi làm thuê mà không đi học em chỉ trả lời: “tại nhà em nghèo quá, em lại là chị cả, sau em cịn có 2 em nữa”.

Trong những trẻ em lao động sớm, phải kể đến hàng trăm trẻ em lang thang trên các đường phố của Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng,…Dù đang tuổi đến trường nhưng các em phải lê bước khắp đầu đường xó chợ bán vé số, ăn xin…Khi được hỏi các em làm việc tại xưởng cơ khí, và quán ăn trên địa bàn phường đều nói muốn được đi học, vui chơi như các bạn cùng trang lứa nhưng vì nghèo đói mà phải bươn chải sớm, mưu sinh phụ giúp gia đình khơng thực hiện được những quyền cơ bản của mình.

Những con số thống kê ở trên, mặc dù nó khơng hồn tồn thể hiện được thực trạng của số trẻ em lao động sớm của cả nước nhưng đó cũng phản ánh được thực trạng trẻ em lao động sớm, đòi hỏi các cơ quan, các ban nghành lãnh đạo cần có những biện pháp phù hợp để hạn chế và tính đến việc giải quyết triệt để tình trạng này. Việc trẻ em phải từ bỏ tuổi thơ của mình, xa quê để ra thành phố kiếm sống là một điều hồn tồn thiệt thịi cho các em khi mà ở lứa tuổi này các em đang có những ước mơ, hồi bão, đang trong q trình hình thành và phát triển nhân cách một cách tồn diện. Nhìn chung lại, tình trạng này khơng phải dửng dưng mà có, nó được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

<b>2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến “trẻ em lao động sớm”</b>

<i><b>2.3.1. Kinh tế</b></i>

Có thể nói đây là nhân tố mang tính chất quyết định khiến các em phải lao vào con đường mưu sinh khi còn q bé. Do hồn cảnh gia đình khơng cho phép các em tiếp tục được đến trường, sự thiếu quan tâm của các bậc làm cha làm mẹ không quan tâm đến nguyện vọng của con em mình. Và trẻ em

</div>

×