Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

xử lý vi phạm trong chấp hành chế độ báo cáo thống kê cơ sở đối với doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 19 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small>MỤC LỤC</small>

LỜI NÓI ĐẦU ……….……….. 2

I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG ……….… 4

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI NĨI ĐẦU</b>

Thơng tin thống kê ln đóng vai trị rất quan trọng trong việc xây dựng, theo dõi, giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đặc biệt, thông tin thống kê là nguồn số liệu rất quan trọng để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như các địa phương. Một chiến lược dài hạn, ngắn hạn hay những quyết sách tình thế đều cần có sự góp mặt của thơng tin thống kê. Thơng tin chính xác, kịp thời sẽ góp phần xây dựng được chính sách đúng nhằm huy động và sử dụng nguồn lực hợp lý, hiệu quả để đưa kinh tế - xã hội phát triển. Với ý nghĩa đó, ngành Thống kê ln nỗ lực đổi mới về mọi mặt, hoàn thiện phương pháp nghiệp vụ chuyên môn, tăng cường môi trường pháp lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng thông tin thống kê.

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ngành Thống kê đã rất nỗ lực tăng cường nâng cao chất lượng thông tin thống kê trên cơ sở từng bước đổi mới phương pháp nghiệp vụ chuyên môn, áp dụng các phương pháp thống kê tiên tiến… Nhờ vậy, chất lượng thông tin luôn được cải thiện và được Chính phủ, các đối tượng trong và ngồi nước cơng nhận và sử dụng rộng rãi. Số liệu thơng tin thống kê chính xác, kịp thời sẽ góp phần quan trọng trong xây dựng chính sách đúng, trong nhiều trường hợp cịn có ý nghĩa hơn cả nguồn lực, vì giúp cho việc huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Với tầm quan trọng đó, để bảo đảm thu thập và cung cấp thơng tin thống kê có chất lượng, kịp thời, chính xác, có tính so sánh quốc tế, địi hỏi cần có sự đầu tư thỏa đáng để đổi mới đồng bộ công tác thống kê ở nước ta, từ khâu thu thập, xử lý đến phân tích, dự báo và phổ biến thông tin thống kê trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận thống kê tiên tiến; hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý. Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 77/2010/QĐ-TTg ban hành Chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Đây là kênh thu thập thơng tin quan trọng giúp Tổng cục Thống kê biên soạn, công bố các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

tiêu thống kê quốc gia đã được Chính phủ ban hành và cũng là cơ sở quan trọng để ngành Thống kê tiếp tục tăng cường năng lực, phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu về thông tin thống kê của Đảng, Chính phủ và các đối tượng dùng tin khác trong thời đại hội nhập.

Trong quản lý nhà nước về thống kê nói chung thì cơng tác quản lý về việc chấp hành chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi là hết sức khó khăn, địi hỏi cán bộ, cơng chức ngành Thống kê phải có năng lực về chun mơn, có trách nhiệm trong việc theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của cơ sở,… mới có thể hồn thành tốt nhiệm vụ.

Sau thời gian học tập tại Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính tại Trường Chính trị Trường Chinh Nam Định, được tiếp thu những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước chương trình chun viên chính, cùng với những kiến thức, kinh nghiệm thực tế trong công tác Thống kê tại tỉnh Nam Định, tôi xin đề cập tới cách giải quyết vấn đề đã nêu trên qua

<b>bài viết tình huống: “Xử lý vi phạm trong chấp hành chế độ báo cáo thống kêcơ sở đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tưnước ngồi”.</b>

Do thời gian hạn hẹp, q trình nghiên cứu cịn nhiều hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót trong nội dung bài tình huống này, kính mong các thầy giáo, cơ giáo xem xét, góp ý kiến để bài tiểu luận tình huống được hồn thiện hơn.

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG1. Hoàn cảnh ra đời</b>

Ngày 30 tháng 11 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 77/QĐ-TTg về việc ban hành Chế độ báo cáo thống kê cơ sở áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Căn cứ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; ngày 31/3/2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư 04/2011/TT-BKHĐT Quy định hệ thống biểu mẫu báo cáo thống kê cơ sở áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Thơng tư quy định cụ thể về hệ thống biểu mẫu báo cáo thống kê cơ sở, đơn vị báo cáo, đơn vị nhận báo cáo, thời hạn nhận báo cáo; yêu cầu doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có nghĩa vụ chấp hành báo cáo đầy đủ, chính xác những chỉ tiêu quy định trong từng biểu mẫu báo cáo; lập báo cáo theo đúng quy định về thời điểm báo cáo và thời kỳ báo cáo; gửi báo cáo đảm bảo đúng ngày nhận báo cáo của đơn vị nhận báo cáo.

Thực hiện Quyết định số 77/QĐ-TTg của Thủ tướng và Thông tư 04/2011/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Cục Thống kê tỉnh Nam Định đã xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, phân cơng cho các phịng nghiệp vụ, Chi cục Thống kê các huyện, thành phố trực tiếp thu nhận báo cáo của các doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện, Thanh tra Cục thường xuyên kết hợp với các đơn vị trong ngành tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo thống kê chưa tốt, kết hợp triển khai, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện hệ thống biểu mẫu báo cáo thống kê theo quy định, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền Quyết định số 77/QĐ-TTg và Nghị định số 79/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê.

Theo quy định thì các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi phải có trách nhiệm nhiệm thực hiện các biểu mẫu báo cáo và gửi về Cục Thống kê tỉnh theo thời gian quy định. Tuy nhiên, sau khi đã được tập huấn, hướng dẫn thực hiện, đồng thời cử cán bộ trực tiếp theo dõi, đôn đốc nhưng một số doanh nghiệp đã không thực hiện nộp báo cáo

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

thống kê theo quy định, trốn tránh trách nhiệm, gây khó khăn cho cơng tác tổ chức thu thập thông tin của Cục Thống kê tỉnh.

<b>2. Mô tả tình huống</b>

Cơng ty TNHH X, là cơng ty TNHH có 100% vốn nước ngoài, địa chỉ xã Nam Hồng huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. Công ty đã thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 02 năm 2016.

Về bộ máy tổ chức: Cơng ty TNHH X có 2.500 lao động, do ơng Đồn Mạnh A làm giám đốc.

Về ngành hoạt động sản xuất kinh doanh chính: Sản xuất sản phẩm túi, ví da, thắt lưng da xuất khẩu.

Năm 2018 trở về trước. công ty X thực hiện khá tốt các chế độ điều tra, chế độ báo cáo thống kê, kế toán đối với Cục Thống kê. Tuy nhiên từ năm 2019, cán bộ làm công tác thống kê của đơn vị đã có phần lơi lỏng trong phối hợp điều tra cùng cơ quan thống kê. Năm 2020, dịch Covid bùng phát, công ty thu hẹp sản xuất. Cán bộ chuyên trách của công ty trong lĩnh vực báo cáo thống kê nghỉ, bàn giao lại công việc cho một cán bộ khác.

Ngày 25/4/2020 thống kê viên Nguyễn Văn A có tới cơng ty X để triển khai điều tra doanh nghiệp và gửi công văn yêu cầu công ty thực hiện phiếu điều tra, nộp về Cục Thống kê trước ngày 05/5/2020. Công ty X thuộc đối tượng điều tra nhưng đã từ chối không cung cấp thơng tin cho Điều tra viên. Sau đó Cục Thống kê tỉnh Nam Định đã thực hiện công văn đôn đốc nhắc nhở 2 lần nhưng công ty X vẫn không chấp hành do đơn vị nghĩ chỉ cần báo cáo cho Sở kế hoạch địa phương là đủ mà khơng có trách nhiệm phải cung cấp thơng tin về hoạt động sản xuất kinh doanh cho cơ quan Thống kê địa phương. Sau khi xem xét quá trình vi phạm của công ty X, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật về thống kê hiện hành, ngày 20/5/2020 Cục trưởng CTK tỉnh Nam Định đã ra quyết định số 115/QĐ-CTK thanh tra về việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê cơ sở đối với cơng ty X; đồn thanh tra do ơng Phạm Văn M – Chánh Thanh tra CTK làm trưởng đoàn.

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Đồn Thanh tra đã cố Cơng văn thông báo thời gian làm việc, thành phần làm việc, gửi trước đến cho công ty X. Ngày 02/6/2020 đoàn kiểm tra đến trụ sở doanh nghiệp làm việc, doanh nghiệp đã cử Phó Giám đốc và một nhân viên phịng kế tốn ra làm việc và nộp các báo cáo tháng cịn thiếu cho đồn cơng tác. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra các báo cáo, đồn cơng tác phát hiện trong báo cáo tháng 3/2020 của doanh nghiệp, số liệu báo cáo doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh của tháng 2/2020 còn sai lệch rất lớn so với thực tế kinh doanh của doanh nghiệp; cụ thể theo kết quả quyết toán của doanh nghiệp thì doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất giầy dép da của tháng 2/2020 là 3.538 triệu đồng nhưng doanh nghiệp lại kê khai vào báo cáo là 2.015 triệu đồng. Đồn kiểm tra đã có ý kiến đề nghị doanh nghiệp báo cáo bổ sung cho đúng quy định nhưng đại diện doanh nghiệp đã từ chối kê khai lại vì Giám đốc đã chỉ đạo như vậy. Do khơng thể thuyết phục được nên đồn công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc và báo cáo với Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh để xin ý kiến chỉ đạo và biện pháp xử lý.

Ngày 27/6/2020, Cục Thống kê tỉnh Nam Định tổ chức cuộc họp với các phịng ban có liên quan tại trụ sở để nghe báo cáo lại toàn bộ vụ việc và thống nhất biện pháp xử lý, thành phần cuộc họp gồm có:

+ Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Nam Định; + Chánh thanh tra Cục Thống kê tỉnh Nam Định; + Thanh tra viên Cục Thống kê tỉnh Nam Định; + Ông Bùi Anh B – Trưởng phòng Thống kê Thương mại

+ Đại diện Doanh nghiệp: Ơng Đồn Mạnh A - Giám đốc và bà Vũ Thị T - Kế toán trưởng.

Sau khi nghe báo cáo lại toàn bộ sự việc, các thành viên trong cuộc họp đã phát biểu ý kiến, cuộc họp đã đi đến thống nhất những nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất: Doanh nghiệp có đầy đủ các thủ tục giấy tờ qui định về sản xuất kinh doanh và quy định của Luật doanh nghiệp, vì vậy phải chấp hành việc báo cáo thống kê theo quy định của pháp luật.

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Thứ hai: Trong thời gian hoạt động vừa qua, cơ sở đã thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương và đây là lần đầu doanh nghiệp không chấp hành việc báo cáo thống kê theo quy định.

Thứ ba: Doanh nghiệp chưa chấp hành việc nộp báo cáo thống kê theo quy định. Vì vậy doanh nghiệp phải chịu hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật và yêu cầu doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện việc nộp báo cáo đầy đủ theo quy định.

Tại cuộc họp, ông Đoàn Mạnh A - Giám đốc doanh nghiệp đã tiếp thu ý kiến, nhận khuyết điểm trước các cơ quan Nhà nước và hứa sẽ thực hiện đúng các yêu cầu, kết luận của cuộc họp. Do không hiểu rõ trong luật thống kê có quy định là thơng tin do doanh nghiệp cung cấp sẽ được bảo mật nên doanh nghiệp không muốn báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình và cũng do không nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của số liệu thống kê trong quản lý Nhà nước, nhận thức pháp luật về thống kê, kế tốn của cơng ty X chưa đầy đủ, công ty X (trực tiếp là cán bộ nghiệp vụ) chưa nắm được nguyên tắc kết hợp quản lý hành chính Nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ. Công tác chỉ đạo của Ban Giám đốc công ty X đối với các bộ phận chuyên môn thực hiện chế độ thông tin báo cáo với các cơ quan, đơn vị pháp luật đã quy định thiếu chặt chẽ và không thường xuyên nên cán bộ chuyên môn chỉ chú ý đến các việc liên quan đến các hoạt động thuộc về chức năng nhiệm vụ hơn là thực hiện các báo cáo thống kê, báo cáo kế tốn.

Làm tốt cơng tác thu thập thơng tin là việc quan trọng để nâng cao chất lượng thông tin thống kê, bảo đảm thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thống kê.

Trường hợp nêu trên hiện nay khá phổ biến và đang là một trong những thách thức đối với công tác thống kê cả nước nói chung và ở các địa phương nói

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

riêng. Vì vậy, chúng ta cần phân tích làm rõ tình huống, xác định rõ những vi phạm và nguyên nhân vi phạm của cơ sở, trách nhiệm của cơ quan quản lý để đưa ra biện pháp xử lý đúng đắn, phù hợp với quy định của Luật Thống kê và các văn bản quy phạm pháp luật khác để khắc phục tình trạng không chấp hành việc báo cáo thống kê trong thực tiễn hiện nay.

<b>II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG1. Cơ sở lý luận</b>

Để có cơ sở phân tích tình huống, xác định tính đúng đắn của giải pháp xử lý tình huống, chúng ta tìm hiểu một số vấn đề có tính chất lý luận về văn bản quy phạm pháp luật và về quản lý hành chính.

1.1. Về văn bản quy phạm pháp luật

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là hệ thống được hình thành bởi sự liên kết các văn bản quy phạm pháp luật thành một chỉnh thể thống nhất, toàn diện và ổn định, trên cơ sở sự phân chia và phân cấp hợp lý về thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong việc ban hành văn bản và hệ thống hóa pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với hệ thống cấu trúc của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật được hình thành trên cơ sở các quan hệ pháp luật, cho nên chúng hoặc là từng bộ phận, hoặc là toàn bộ đều hợp thành các chế định, các ngành luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mang tính thứ bậc. Tính chất đó được quy định bởi hiệu lực pháp luật của từng loại văn bản. Tính thứ bậc của các văn bản quy phạm pháp luật là điều kiện quan trọng để biểu đạt hệ thống cơ cấu của pháp luật, thỏa mãn những tiêu chuẩn về tính tồn diện, đồng bộ, chính xác… của pháp luật.

Hiện nay, nước ta đang trong q trình hồn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nên việc cần thiết là hiểu và vận dụng đúng tiêu chuẩn đánh giá sự hoàn thiện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Các tiêu chuẩn này là căn cứ để định hướng cho việc sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật. Có nhiều tiêu chuẩn để đánh giá sự hoàn thiện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có những tiêu chuẩn sau đây:

- Tính phù hợp

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Văn bản quy phạm pháp luật xét về mặt nội dung là sự phản ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Khi những điều kiện đó thay đổi, phát triển thì phải thay đổi nội dung của văn bản quy phạm pháp luật. Điều đó có nghĩa là thực tiễn khách quan quyết định sự tồn tại cũng như đặc điểm, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật. Quy định của văn bản quy phạm pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội. Quy định quá cao sẽ khó có thể được thực hiện trên thực tế. Quy định không theo kịp sự phát triển của xã hội thì khơng có khả năng điều chỉnh một cách toàn diện đối với các quan hệ xã hội, đồng thời ảnh hưởng khơng nhỏ tới lợi ích của các chủ thể trong xã hội. Trong điều kiện của sự hội nhập quốc tế hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vừa phải bảo đảm sự phù hợp với những điều kiện đặc trưng của mỗi quốc gia, đồng thời phải phù hợp với nguyên tắc và thơng lệ quốc tế. Trên thực tế, khơng có tình trạng cả hệ thống văn bản khơng phù hợp, nhưng có thể có một bộ phận của hệ thống văn bản khơng phù hợp. Sự khơng phù hợp đó một mặt do sự phát triển của các quan hệ xã hội, mặt khác do sai lầm chủ quan khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

- Tính thống nhất nội tại

Sự thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được biểu hiện ở sự gắn bó hữu cơ, khăng khít với nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật, sự liên kết, tác động qua lại giữa các chế định, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quy phạm của các ngành luật. Sự thống nhất ấy còn được thể hiện ở xu hướng loại trừ dần những mâu thuẫn có tính hình thức giữa các bộ phận của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Một hệ thống được coi là bảo đảm tính thống nhất khi khơng có sự trùng lặp hay mâu thuẫn, chồng chéo giữa các bộ phận. Tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được quy định bởi tính thống nhất của các quan hệ xã hội và ý chí của người xây dựng pháp luật.

- Tính tồn diện

Tính tồn diện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thống kê phản ánh khả năng bao quát toàn bộ các hoạt động có liên quan, khơng có hoạt động nào đứng ngồi sự điều chỉnh của pháp luật. Tính tồn diện được

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

biểu hiện ở hai cấp độ: cấp độ chung và cấp độ cụ thể. Cấp độ chung của tính tồn diện thể hiện ở sự tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản và ở sự phát triển đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết. Cấp độ cụ thể của tính tồn diện thể hiện ở sự đầy đủ các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật.

1.2. Về quản lý hành chính

Theo các tài liệu về hành chính học, quản lý hành chính là tất yếu khách quan trong xã hội loài người.

Về nhận thức, mối liên hệ biện chứng trong xã hội, trong tự nhiên cũng như trong tư duy là khách quan, người quản lý từ chủ quan của mình để nắm bắt được những mối liên hệ khách quan, đó là người quản lý giỏi.

Về nội dung, trước hết, chúng ta phân tích mối quan hệ giữa hành chính và pháp luật. Để đạt được mục đích, người quản lý cần phải có mệnh lệnh, có nghệ thuật, có phương pháp, cách thức… đối với con người. Nền hành chính của một nhà nước pháp quyền được quy định bằng một hệ thống pháp luật. Do đó, địi hỏi một hệ thống pháp luật tốt về nội dung và hình thức là một vấn đề rất khó. Bất cứ một nhà nước nào cũng muốn điều ấy, song khơng dễ gì làm được. Pháp luật là phương thức cơ bản dùng để quản lý xã hội. Tuy nhiên, hành chính khơng chỉ dùng pháp luật, mà còn dùng những phạm trù khác như giáo dục, thuyết phục, động viên tổ chức để thực thi pháp luật. Như vậy, một nền hành chính dùng pháp luật là phương tiện để quản lý là một xã hội văn minh, song nếu ít dùng pháp luật mà vẫn quản lý được xã hội, chứng tỏ ở xã hội đó trình độ dân trí rất cao. Hành chính cịn có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù khác, như chính trị, kinh tế; đặc biệt nội dung của hành chính khơng thể tách rời yếu tố con người.

Tuy nhiên, trong khn khổ tình huống được nêu ra ở đây, chúng ta phân tích chủ yếu vai trị của việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê và tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thống kê ở nước ta.

<b>2. Phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống2.1. Nguyên nhân xảy ra tình huống</b>

<small>10</small>

</div>

×