Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận vĩ mô chính sách tài khóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.18 KB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>M C L CỤC LỤCỤC LỤC</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...1</b>

<b>NỘI DUNG...2</b>

<b>1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA...2</b>

1.1. Khái niệm và mục tiêu...2

1.2. Cơng cụ...2

<i>1.2.1. Hệ thống thuế (Thu ngân sách)...3</i>

<i>1.2.2. Chi ngân sách...3</i>

1.3. Nội dung...4

<b>1.4. Hạn chế khi sử dụng chính sách tài khóa...4</b>

<b>2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA Ở VIỆT</b>

3.1. Kiểm soát thu – chi ngân sách nhà nước...13

3.2. Giảm thuế, hạn chế chi tiêu chính phủ...14

3.3. Phối hợp hài hịa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ...14

<b>KẾT LUẬN...18</b>

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...19

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Trải qua hơn 20 năm đổi mới, đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa… Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng đang phải đối đầu với nhiều vấn đề cấp bách mà thực tiễn phát triển đất nước mang lại, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.

Hiện nay, Việt Nam đang vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, Chính phủ đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Điều đó địi hỏi Chính phủ phải vận dụng một cách linh hoạt, triệt để các biện pháp và cơng cụ của mình. Một trong hai công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Chính phủ là chính sách tài khóa. Với chính sách tài khóa, Chính phủ sử dụng thuế và chi tiêu ngân sách để tác động vào tổng cầu nhằm thúc đẩy hay kiểm soát tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp hay kiềm chế lạm phát,…

Khi nền kinh tế phát triển quá nóng hay suy thối, chính sách tài khóa đều đóng vai trị vô cùng cần thiết và không thể thiếu. Việc vận dụng chính sách tài khóa mở rộng hay thu hẹp của Chính phủ trong từng thời kỳ sẽ có những tác động rõ rệt đối với nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nếu không vận dụng công cụ này, Chính phủ sẽ khơng thể kiểm sốt được sự vận động của nền kinh tế, điều đó dễ dàng đem đến những hậu quả tiêu cực đối với quốc gia như lạm phát, thiểu phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội,…

<i><b>Với ngun nhân trên, vấn đề “Chính sách tài khóa ở Việt Nam hiện</b></i>

<i><b>nay” là một đề tài tuy không mới nhưng vô cùng thiết thực và cấp bách. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>NỘI DUNG</b>

<b>1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA1.1. Khái niệm và mục tiêu</b>

- Khái niệm:

Chính sách tài khóa là việc Chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu cơng cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.

Điều này cũng có thể hiểu là chính sách tài khóa nói đến việc thu – chi ngân sách của Chính phủ nhằm tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.

- Mục tiêu:

Một là mức sản lượng thực tế (Y<small>t</small>) phải bằng mức sản lượng tiềm năng (Y<small>p</small>). Hai là đạt mức thất nghiệp tự nhiên (mức thất nghiệp mà nền kinh tế nào cũng phải chấp nhận).

Ba là kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải (lạm phát ở mức 1 con số và có thể dự đốn được).

<b>1.2. Cơng cụ</b>

Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa để tác động đến tổng cầu thông qua 2 công cụ, đó là: Thuế (T) và Chi ngân sách (G).

Ngân sách nhà nước (B) là hiệu số giữa các khoản thu và chi ngân sách.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

B = T – G

Ngân sách thặng dư khi thu lớn hơn chi (tức T>G) Ngân sách thâm hụt khi thu nhỏ hơn chi (tức T<G) Ngân sách cân bằng khi thu bằng chi (T=G)

<i><b>1.2.1. Hệ thống thuế (Thu ngân sách)</b></i>

Hiện nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thuế nhưng điểm chung nhất đó là những khoản thu bằng tiền, có tính chất xác định khơng hồn trả trực tiếp cho các chủ thể nộp thuế (công dân, doanh nghiệp) đóng góp cho nhà nước thơng qua con đường quyền lực (nghĩa vụ nộp thuế) nhằm bù đắp những chi phí của nhà nước.

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước (NSNN), là công cụ quan trọng để phân phối lại thu nhập, góp phần tích cực giảm bội chi NSNN, giảm lạm phát góp phần ổn định trật tự xã hội.

Thuế gồm có 2 bộ phận cơ bản: Thuế gián thu T<small>i</small> và thuế trực thu T<small>d</small>.

<i><b>1.2.2. Chi ngân sách</b></i>

Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới, trong thực tế ln có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế. Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế. Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế.

Chi ngân sách (G) bao gồm 2 bộ phận cơ bản: Chi cho đầu tư I<small>g </small>và chi tiêu thường xuyên C<small>g</small>.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>1.3. Nội dung</b>

- Khi nền kinh tế suy thoái (sản lượng thực tế Y<small>t</small> nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng Y<small>p</small>, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao), chính phủ cần thực hiện chính sách tài khóa mở rộng. Tức là: thực hiện tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế hoặc thực hiện đồng thời cả tăng chi và giảm thu. Điều này làm tổng cầu tăng lên, tạo việc làm, giảm thất nghiệp, nền kinh tế sẽ bắt đầu có xu hướng nóng lên.

- Khi nền kinh tế có mức lạm phát cao (sản lượng thực tế Y<small>t</small> lớn hơn sản lượng tiềm năng Y<small>p</small>, chỉ số giá cả tác động xấu đến nền kinh tế), Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp. Tức là: thực hiện giảm chi ngân sách hoặc tăng thuế hoặc thực hiện đồng thời cả giảm chi và tăng thu. Điều này sẽ làm cho tổng cầu giảm xuống, sản lượng giảm, lạm phát giảm. Tuy nhiên nó cũng có thể kéo theo sự gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp.

Như vậy, về mặt lý thuyết, chính sách tài khóa tiến hành theo hướng mở rộng hay thu hẹp là do tình trạng thực tế của tổng cầu quyết định. Mở rộng tài khóa là nhằm kích thích tổng cầu khi nó đang ở mức thấp. Ngược lại, thu hẹp tài khóa cũng tức là giảm bớt tổng cầu khi nó đang ở mức quá cao có thể gây nên tác động xấu đối với nền kinh tế.

<b>1.4. Hạn chế khi sử dụng chính sách tài khóa</b>

Trong thực tế, tác động của chính sách tài khóa bị nhiều hạn chế. Có thể đưa ra những lý do sau:

Thứ nhất, khó tính tốn một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách. Nếu sử dụng chính sách tài khóa mở rộng thì tăng chi tiêu ngân sách và giảm thu thuế bao nhiêu là đủ để đảm bảo thúc đẩy tổng cầu, tạo việc làm nhưng vẫn kiềm chế được lạm phát vừa phải? Cịn nếu áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp thì giảm chi tiêu và tăng thu thuế bao nhiêu là đủ để

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đảm bảo giảm tổng cầu, kiềm chế lạm phát mà vẫn giải quyết tốt vấn đề thất nghiệp? Nếu việc tính tốn liều lượng khơng chính xác có thể sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế.

Thứ hai, chính sách tài khóa có độ trễ khá lớn. Độ trễ của chính sách tài khóa bao gồm 2 loại: Độ trễ bên trong và độ trễ bên ngoài.

Độ trễ bên trong bao gồm: thời gian thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định.

Độ trễ bên ngồi bao gồm: q trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng.

Với chính sách tài khóa, cả hai độ trễ khá dài, phụ thuộc vào các yếu tố chính trị và cơ cấu tổ chức bộ máy. Chính vì vậy, những quyết định đưa ra khơng đúng lúc có thể làm rối loạn them nền kinh tế thay vì ổn định nó.

Thứ ba, chính sách tài khóa thường được thực hiện thơng qua các dự án công cộng xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội. Thực tế cho thấy, ngồi một số dự án cơng cộng thực hiện thành công, đa số các dự án tỏ ra kém hiệu quả kinh tế.

<b>2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA Ở VIỆTNAM</b>

<b>2.1. Chính sách tài khóa trong giai đoạn từ năm 1991 đến 2012</b>

<i><b>2.1.1. Giai đoạn 1991 - 2007</b></i>

Từ năm 1991 - 2007, kinh tế Việt Nam tăng trưởng bình quân 7,5%, cao nhất là 10% (năm 1995) và thấp nhất 5% (năm 1999). Có thể chia tăng trưởng kinh tế Việt Nam thành 3 giai đoạn: tăng trưởng cao (1991 - 1996), suy thoái (1997 - 2001), phục hồi (2002 - 2007). Như vậy, từ năm 1991 đến năm 2007,

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nền kinh tế đã trải qua giai đoạn suy thối và Chính phủ đã sử dụng biện pháp kích thích bằng chính sách tài khóa.

Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách năng động khác nhau để kích thích kinh tế, như cải cách thể chế kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường; mở cửa thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy thương mại quốc tế; đẩy mạnh tự do hóa hệ thống tài chính và phát triển thị trường tài chính năng động... Như vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 đến nay không thể chỉ giải thích ở biến số chính sách tài khóa duy nhất. Có điều cần lưu ý, sự thay đổi tỷ lệ tăng trưởng từ năm “đáy” của suy thối đến năm sau đó là lớn hơn khi có những thay đổi cơ bản của chính sách tài khóa như: giảm mức huy động nguồn thu thuế thông qua chương trình cải cách thuế bước 2 và 3; đặc biệt gia tăng chi đầu tư công (sơ đồ 2) thơng qua các chương trình kích cầu từ nguồn vốn ngân sách và phát hành trái phiếu chính phủ... Tuy vậy, điều này cũng chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định, chính sách tài khóa có hiệu ứng tốt đến ổn định chu kỳ và khắc phục suy thối kinh tế, mà cần có sự đo lường bằng phương pháp định lượng.

<i><b>2.1.2. Giai đoạn 2007 - 2008</b></i>

Đây là giai đoạn mà kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng có nhiều biến đổi đáng kể. Trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện quyết liệt 8 nhóm giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và thực thi chính sách an sinh xã hội mà Nghị quyết số 10/2008/NĐ-CP ngày 17- 4-2008 đã đề ra: Trong tháng 8-2008 đã có hai lần điều chỉnh giảm giá bán xăng và dầu hỏa, bảo đảm hài hịa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng; tăng cường công tác thu ngân sách để bảo đảm nhiệm vụ được giao, kết hợp với việc rà soát nợ đọng thuế, chống thất thu; tiếp tục rà soát lại chi ngân sách, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cắt giảm, đình hỗn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

đầu tư khơng có hiệu quả; khơng tăng chi ngồi dự tốn, dành nguồn kinh phí cho bảo đảm an sinh xã hội; xem xét điều chỉnh giảm mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bình ổn thị trường, hạn chế nhập siêu...

Nhờ những chính sách tài khóa quyết liệt trên của Chính phủ mà kinh tế Việt Nam đã có kết quả tích cực. Những biện pháp điều hành của Chính phủ đã phát huy hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, nền kinh tế còn đối mặt với nhiều thách thức đòi hỏi Chính phủ phải có những điều hành quyết liệt hơn nữa bảo đảm ngăn chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô, hướng tới mức tăng trưởng cao hơn.

<i><b>2.1.3. Giai đoạn 2009 - 2010</b></i>

Trong bối cảnh kinh tế tồn cầu suy thối, kinh tế trong nước đang đối mặt với nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thị trường Việt Nam có độ mở cao (xuất, nhập khẩu trên 150% GDP); khu vực FDI tuy chỉ chiếm trên 27% tổng đầu tư xã hội, nhưng luôn đạt từ 55% đến 70% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu, nên sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% (năm 2008) xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm mạnh, như giá gạo trong tháng 10-2009 giảm tới 20%; cà phê giảm tới 34,5%; cao su giảm gần 50%... Một vấn đề nữa là, với quy mơ nền kinh tế cịn nhỏ, xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới trên tất cả các cấp độ, kèm theo đó, trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cường độ và mức độ lớn. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng, thất nghiệp cao... Nền kinh tế yếu đi, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy kiệt. Một số doanh nghiệp bị phá sản, số cịn lại liên tục gặp khó khăn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Cùng với xu hướng chung của thế giới, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp điều hành quyết liệt nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng bền vững. Một trong những giải pháp chủ yếu là Chính sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích cầu. Gói kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói kích cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và tạo việc làm, đây là hai điều quan trọng nhất thể hiện khá rõ vai trị của Nhà nước thơng qua các gói kích cầu. Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mơ khác đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008), thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng bước.

Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường trong các năm 2008 - 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp đến là nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng nhập siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ USD, và năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát kép, tức là vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro tiềm ẩn khác trong chính sách tiền tệ là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại thời điểm này đang được cho là có vấn đề, do các ngân hàng thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để huy động vốn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>2.1.4. Giai đoạn 2011 – 2012</b></i>

Được coi là một trong những "công cụ mạnh" và hiệu quả để thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mơ, trong năm 2011, chính sách tài khóa (gồm hai bộ phận chủ yếu là thu - chi ngân sách để tạo lập quỹ ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ yêu cầu phát triển KT - XH) đã được Chính phủ thực hiện thận trọng, linh hoạt. Bên cạnh việc kiên quyết cắt giảm đầu tư công, chống thất thu ngân sách và giảm nợ đọng thuế, Chính phủ đã thực hiện giãn, giảm thuế thu nhập DN, thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu cho người dân, DN và có chính sách hỗ trợ thiết thực cho người nghèo, đối tượng chính sách…

Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2012 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu chưa được giải quyết. Trong bối cảnh đó, chính sách thu và chi ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh linh hoạt nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất -kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư để kích thích tăng trưởng.

Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp (DN), nhất là DN nhỏ và vừa (DNNVV) phải dừng hoạt động hoặc giải thể. Trước tình hình này, Chính phủ chủ trương tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ và hiệu quả thông qua các nghị quyết lớn như: Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/1/2012 (Nghị quyết 01) về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 và Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 (Nghị quyết 13) về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Căn cứ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

vào diễn biến tình hình thực tế, chính sách thu và chi NSNN đã được điều chỉnh linh hoạt, và đạt được những kết quả như sau:

Thứ nhất, lũy kế thu đến ngày 15/12/2012 ước đạt 658.645 tỷ đồng, tăng 2,1% so cùng kỳ năm 2011, đạt 88,9% dự tốn năm, trong đó: thu nội địa tăng 5,4%, đạt 84,7% dự tốn; thu từ dầu thơ tăng 14,2%, đạt 129,9% dự toán; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu giảm 16,7%, đạt 77,6%. Việc thực hiện quyết liệt các biện pháp tăng thu, quản lý chặt chẽ nguồn thu của các bộ, ban, ngành và địa phương đã góp phần bù đắp các khoản giảm thu do ảnh hưởng của tình hình kinh tế khó khăn, ước thực hiện năm 2012 đạt dự toán thu NSNN như Quốc hội quyết định

Thứ hai, tuy việc thu ngân sách tương đối khó khăn nhưng việc điều chỉnh chính sách tài khóa từ đầu năm đến nay tương đối phù hợp với tình hình thực tế. Các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thuế tháo gỡ khó khăn cho DN dần phát huy tác dụng và việc ứng trước vốn đầu tư phát triển của ngân sách trung ương, vốn trái phiếu chính phủ 2013 đã thúc đẩy nhanh việc hoàn thành các dự án đầu tư trọng yếu, giúp tạo cơ sở thực hiện chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội được thuận lợi hơn. Đồng thời, việc tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu và giảm nợ đọng thuế đã đạt hiệu quả tương đối.

Thứ ba, mặc dù nguồn thu NSNN còn nhiều khó khăn nhưng với chính sách điều hành chi ngân sách linh hoạt, chủ động, tăng cường tiết kiệm chi ngân sách nên NSNN vẫn đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách đầy đủ, kịp thời, đảm bảo chính sách an sinh, ổn định xã hội. Lũy kế chi NSNN đến ngày 15/12/2012 đạt 821.185 tỷ đồng, bằng 90,9% dự toán năm, tăng 15,8% so cùng kỳ năm 2011, trong đó: tổng số kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội năm 2012 ước khoảng 323.920 tỷ đồng, bằng 35,8% tổng chi NSNN, tăng 33,2% so với thực hiện năm 2011. Bên cạnh đó, đã xuất cấp 41.376 tấn gạo dự trữ quốc gia trị giá khoảng 413 tỷ

</div>

×