Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

bttuan4 thamquyencuatoaannhandan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148 KB, 10 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC</b>

1. Nguyên đơn có thể lựa chọn khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn thường trú hoặc

2. Các bên ln có quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm

5. Tịa án nơi bị đơn có tài sản có thẩm quyền giải quyết nếu nguyên đơn không

2. Nêu và bảo vệ cho quan điểm của Tòa án các cấp liên quan đến việc xác định

3. Xác định vấn đề pháp lý từ việc giải quyết câu hỏi nêu trên và Tóm tắt bản án

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN 4THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂNPHẦN 1. NHẬN ĐỊNH</b>

<b>1. Nguyên đơn có thể lựa chọn khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn thường trú hoặctạm trú</b>

Sai. Chỉ được lựa chọn trong Điều 40

<b>2. Các bên luôn có quyền thỏa thuận lựa chọn Tịa án nơi ngun đơn cư trú, làmviệc hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết tranh chấp</b>

Đây là nhận định sai.

<b>Cơ sở pháp lý: Điểm b, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm</b>

Không phải trong mọi trường hợp, các bên đều có quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì chỉ khi đó là những tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

<b>mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS thì các bên mới có</b>

quyền tự thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Và việc thỏa thuận lựa chọn phải bằng văn bản. Ngoài ra, nếu đối tượng tranh chấp là bất động sản thì Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

<b>3. Tịa án phải tách vụ án khi có yêu cầu của đương sự</b>

Đây là nhận định sai.

<b>Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Theo đó, đương sự khơng có quyền u cầu Tịa án tách vụ án. Việc tách vụ án chỉ được Tòa án thực hiện trong trường hợp vụ án có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết một cách độc lập mà không ảnh hưởng tới việc giải quyết các quan hệ pháp luật khác. Đồng thời việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật. Vì vậy, Tồ án khơng phải tách vụ án khi có u cầu của đương sự.

<b>4. Tịa án phải chuyển vụ việc dân sự khi thụ lý không đúng thẩm quyền</b>

Đây là nhận định đúng.

<b>Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Theo đó, nếu vụ việc dân sự đã được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án đã thụ lý thì Tịa án đó phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Tịa án có thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý. Vì vậy, Tồ án phải chuyển vụ việc dân sự khi thụ lý khơng đúng thẩm quyền.

<b>5. Tịa án nơi bị đơn có tài sản có thẩm quyền giải quyết nếu ngun đơn khơngbiết nơi cư trú, làm việc, có trụ sở của bị đơn</b>

Đây là nhận định đúng.

<b>Cơ sở pháp lý: Điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Theo đó, nếu trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì ngun đơn có quyền lựa chọn Tịa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Vì vậy, Tồ án nơi bị đơn có tài sản có thẩm quyền giải quyết nếu nguyên đơn không biết nơi cư trú, làm việc, có trụ sở của bị đơn.

<b>PHẦN 2. BÀI TẬPBài 1</b>

<b>Ông Điệp và bà Lan (cùng cư trú tại Quận 1, TPHCM) là chủ sở hữu của cănnhà tại địa chỉ số 02 NTT, Quận 4, TPHCM. Năm 2000, ơng Điệp và bà Lan xuấtngoại nên có nhờ ông Tuấn và bà Bích (cư trú tại Quận 7, TPCHM) trông coi cănnhà số 02 NTT, Quận 4, TPHCM. Năm 2015, ông Điệp và bà Lan trở về nướcsinh sống và u cầu ơng Tuấn, bà Bích trả lại căn nhà cho ơng bà. Ơng Tuấn vàbà Bích khơng đồng ý vì trong thời gian ơng Điệp và bà Lan ở nước ngồi ơngTuấn và bà Bích đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sởhữu đối với căn nhà nêu trên và gia đình ông bà (gồm có ông bà và hai người conlà anh Trung và chị Thủy) đã sinh sống ổn định trong căn nhà này. Năm 2017,ông Điệp và bà Lan đã khởi kiện u cầu ơng Tuấn và bà Bích phải trả lại cănnhà nêu trên.</b>

<b>1. Xác định tư cách đương sự</b>

Đầu tiên, ta xác định đây là vụ án dân sự. Bởi vì, trong tình huống nêu trên, đã xảy ra tranh chấp giữa ông Điệp, bà Lan và ông Tuấn, bà Bích về căn nhà số 02 NTT,

<b>Quận 4, TPHCM, và giả sử đã được Tòa án thụ lý theo Điều 1 và khoản 2 Điều 26 Bộ</b>

<b>luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Đương sự trong vụ án dân sự gồm có: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi,

<b>nghĩa vụ liên quan theo khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Nguyên đơn: ông Điệp và bà Lan. Bởi vì, trong tình huống nêu trên, ông Điệp và bà Lan đã cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm khi ông Tuấn và bà Bích

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>không trả lại căn nhà cho ơng bà và đã được Tịa án thụ lý theo khoản 2 Điều 68 Bộ</b>

<b>luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Bị đơn: ông Tuấn và bà Bích. Bởi vì, trong tình huống nêu trên, hai ơng bà đã bị ông Điệp và bà Lan khởi kiện, bị cho rằng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Điệp và bà Lan, cụ thể là xâm phạm đến căn nhà số 2, NTT và đã được Tòa án

<b>thụ lý theo khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Người có nghĩa vụ liên quan: anh Trung và chị Thủy. Bởi vì, trong tình huống nêu trên, mặc dù anh Trung và chị Thuỷ không khởi kiện cũng không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của hai người vì hai người đã cùng sinh sống tại căn nhà này một thời gian dài, họ sẽ phải liên đới để trả lại căn nhà cho nguyên đơn; mà khi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự thì sẽ được Tịa án xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

<b>theo khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

<b>2. Xác định Tịa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên</b>

Thẩm quyền theo vụ việc: Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án, vì đây là tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản (cụ thể là tranh chấp quyền sở hữu

<b>căn nhà tại địa chỉ số 02 NTT, Quận 4, TPHCM) quy định tại khoản 2 và khoản 9</b>

<b>Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Thẩm quyền theo cấp: Tịa án nhân dân cấp huyện (cụ thể là Tồ án nhân dân Quận 4) có thẩm quyền giải quyết, vì như chứng minh ở trên, đây là tranh chấp quyền sở

<b>hữu đối với tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Thẩm quyền theo lãnh thổ: Tòa án nhân dân Quận 4 có thẩm quyền giải quyết vì đối tượng tranh chấp là bất động sản (căn nhà tại địa chỉ số 02 NTT, Quận 4, TPHCM)

<b>nên chỉ có Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết theo điểm c khoản 1</b>

<b>Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Thẩm quyền theo sự lựa chọn của ngun đơn: Khơng có.

<b>Bài 2</b>

<b>Năm 1980, bà Nguyễn Thị Nga (cư trú ở quận 1, TPHCM) nhận chuyểnnhượng 350m<small>2 </small>đất của bà Lê Khắc Ngọc Luyện (cư trú tại TP Vũng Tàu) tại sốnhà 57B đường Nguyễn Thái Học, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.</b>

<b>Năm 1989 bà Luyện chuyển nhượng cho vợ chồng ông Tăng Vĩnh Ký (cư trútại Quận 2, TPHCM) diện tích 980m<small>2 </small>đất tại địa chỉ nêu trên (bao gồm cả phầnđất đã chuyển nhượng cho bà Nga).</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Năm 1995, bà Nga khởi kiện vợ chồng ơng Ký u cầu hồn trả lại phần nhàđất 350m<small>2</small> bà Nga đã nhận chuyển nhượng từ bà Luyện.</b>

<b>Năm 1997, bà Nga chuyển nhượng phần đất 350m<small>2</small> nêu trên cho ông NguyễnKim Hạnh (cư trú tại Quận 3, TPHCM), giấy chuyển nhượng khơng có xác nhậncủa cơng chứng và chứng thực của chính quyền địa phương.</b>

<b>Năm 2003, bà Nga xuất cảnh, trước khi bà Nga xuất cảnh thì bà Nga có ủyquyền cho anh Trần Hưng Quốc (là con trai bà Nga) tiếp tục theo vụ kiện địi ơngKý trả nền nhà và nếu khơng địi được nền nhà thì anh Quốc sẽ hồn trả lại sốtiền chuyển nhượng nhà đất đã nhận cho ông Hạnh. Từ năm 2008 đến nay, anhQuốc bỏ nhà đi khỏi địa phương, không rõ địa chỉ liên lạc.</b>

<b>Giả sử năm 2017, ông Nguyễn Kim Hạnh khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông TăngVĩnh Ký giao trả phần đất 350m<small>2</small> ông Hạnh đã nhận chuyển nhượng từ bà Nga.</b>

<b>Câu hỏi:</b>

<b>a. Giả sử Tòa án thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp và tư cách đương sự? </b>

<b>● Quan hệ tranh chấp: Đây là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản theo khoản 2</b>

<b>Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vì những lý do sau:</b>

o Thứ nhất, giữa ông Hạnh và vợ chồng ông Ký không tồn tại hợp đồng mua bán hay hợp đồng chuyển nhượng.

o Thứ hai, ông Hạnh nhận chuyển nhượng từ bà Nga cịn vợ chồng ơng Ký nhận chuyển nhượng từ bà Luyện và tranh chấp xảy ra đối với phần diện tích 350m2 mà bà Luyện đã chuyển nhượng cho Nga và cũng đồng thời chuyển nhượng cho vợ chồng ông Ký.

o Thứ ba, giấy chuyển nhượng giữa bà Nga và ơng Hạnh khơng có xác nhận của cơng chứng và chứng thực của chính quyền địa phương.

● Tư cách đương sự:

<b>o Ông Hạnh là nguyên đơn theo khoản 2 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự</b>

<b>năm 2015, vì ơng là người khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích của ơng</b>

đối với phần diện tích đất 350m2 đang bị xâm phạm.

<b>o Vợ chồng ông Ký là bị đơn theo khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân</b>

<b>sự năm 2015, vì vợ chồng ơng là bên bị ông Hạnh khởi kiện vì cho rằng</b>

vợ chồng ông đang xâm phạm quyền và lợi ích của ơng Hạnh đối với phần diện tích đất 350m2.

o Bà Nga và bà Luyện là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo

<b>khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vì hai bà tuy</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

khơng khởi kiện cũng không bị kiện nhưng việc giải quyết đối với phần diện tích đất 350m2 có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của hai bà.

<b>b. Ông Hạnh có thể khởi kiện ở Tịa án nào?</b>

Ơng Hạnh có thể khởi kiện ở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, vì:

<b>Thứ nhất, tranh chấp là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản theo khoản 2 Điều 26</b>

<b>Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như đã phân tích ở trên. Cho nên, tranh chấp này</b>

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

<b>Thứ hai, theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì Tịa</b>

án cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp quyền sở hữu tài sản. Cho nên, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.

<b>Thứ ba, theo điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì đối</b>

tượng tranh chấp là bất động sản thì Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải

<b>quyết. Mà đối tượng tranh chấp ở đây cũng bất động sản theo khoản 1 Điều 107 Bộ</b>

<b>luật Dân sự năm 2015. Do đó, Tịa án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nhân dân</b>

thành phố Vũng Tàu.

<b>PHẦN 3. PHÂN TÍCH ÁN</b>

<b>Đọc Bản án số 88/2018/DS-PT ngày 02/5/2018 của TAND tỉnh Đồng Nai. Thực</b>

hiện các công việc sau:

<b>1. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp</b>

Về quan hệ tranh chấp: Do bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/7/2009 giữa bà và ông H, bà M, đồng thời bà yêu cầu ông H, bà M trả cho bà số tiền đã nhận là 330.000.000 đồng. Do đó, đây là quan

<b>hệ tranh chấp về hợp đồng dân sự theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm</b>

<b>2015, cụ thể là “Yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.</b>

<b>2. Nêu và bảo vệ cho quan điểm của Tòa án các cấp liên quan đến việc xác địnhthẩm quyền giải quyết tranh chấp</b>

<b>Bảo vệ quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm</b>

Tòa án cấp sơ thẩm tức là Tòa án nhân dân thành phố Biên Hịa cho rằng mình có thẩm quyền để giải quyết quan hệ tranh chấp “Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đòi lại tài sản”

Nhóm đồng ý với quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm vì:

Thứ nhất, trước tiên, về việc xác định quan hệ tranh chấp, thì nhóm đồng ý vì bà N có thỏa thuận sang nhượng của vợ chồng ơng H và bà M thửa đất số 317 với giá mua

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

bán thỏa thuận ban đầu là 1.060.000.000 đồng. Bà N đã thanh toán được số tiền tổng là 330 triệu đồng, sau đó ơng H đổi ý và nâng giá đất lên là 1,5 tỷ đồng thì bà N khơng đồng ý. Sau khi thỏa thuận khơng thành về số tiền 1,5 tỷ đồng thì bà N khơng muốn

<b>mua đất nữa và u cầu Tịa án xem xét hủy bỏ hợp đồng sang nhượng đất viết taygiữa bà N và vợ chồng ông H, bà M, đồng thời u cầu ơng H, bà M phải hồn trả</b>

<b>cho bà N số tiền đã nhận là 330.000.000đ.</b>

Qua đó, ta thấy đối tượng tranh chấp ở đây là tiền mà bà N đã trả cho ông H, là tranh chấp liên quan đến bất động sản chứ không phải tranh chấp về bất động sản, là số tiền 330.000.000đ chứ không phải về quyền sử dụng đất.

Chúng ta cần phải phân biệt rõ tranh chấp về bất động sản khác với tranh chấp liên quan đến bất động sản. Theo đó tranh chấp về bất động sản tức là tranh chấp về quyền sở hữu bất động sản hay tranh chấp về các quyền khác đối với bất động sản. Còn tranh chấp liên quan tới bất động sản tức là tranh chấp về các giao dịch có liên quan đến bất động sản như: tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay tranh chấp về thừa kế nhà... thì đối tượng khơng là bất động sản.

Ở vụ án trên, mới đầu cả hai bên thỏa thuận thửa đất đó có giá 1.060.000.000đ, bà N đã thanh tốn 330.000.000đ và sau đó ơng H tăng giá thửa đất lên 1.500.000.000đ thì bà khơng đồng ý, bà có thoả thuận với ơng H về để giá tiền ở mức ban đầu là 1.060.000.000đ hoặc trả 330.000.000đ cho bà N nhưng ơng H đều khơng chịu. Theo đó, thì bà N phải u cầu Tồ án huỷ cái hợp đồng viết tay đó thì mới địi được 330.000.000đ (🡪 Nếu là các bạn, thì các bạn có u cầu huỷ hợp đồng đó để địi số tiền khơng?). Do đó, đối tượng tranh chấp là 330.000.000đ chứ khơng phải đất đai.

Cùng với đó, thì số tiền 330.000.000đ mà bà N đưa cho vợ chồng ông H là tiền sang nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải là tiền đặt cọc vì từ đầu cả hai bên khơng thỏa thuận về tiền đặt cọc.

Qua các căn cứ nêu trên, ta thấy yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng của bà N là hồn tồn hợp lý vì ơng H đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, cụ thể ông đã thay đổi số tiền 1.060.000.000đ lên 1.500.000.000đ khiến cho bà N khơng đạt được mục đích của

<b>mình theo điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó,</b>

ơng H phải hoàn trả cho bà N 330.000.000đ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì

<b>đã nhận theo khoản 2 Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2015.</b>

Thêm nữa, hợp đồng giữa bà N và ơng H chưa có cơng chứng, chứng thực và cũng chưa thực hiện được hai phần ba nghĩa vụ hợp đồng ((330.000.000đ/1.060.000.000đ) x 100% = 30%) cho nên giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức do đó các bên cũng phải hồn trả cho nhau những gì đã nhận, cụ thể ông H phải hoàn trả cho bà N

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>330.000.000đ theo khoản 2 Điều 129 và khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm</b>

Củng cố:

Thứ nhất, trước tiên cần phải xét đây có thuộc thẩm quyền của Tồ án hay khơng, thì đây thuộc thẩm quyền của Tồ án vì cả hai quan hệ tranh chấp trên là tranh chấp về

<b>quyền sở hữu đối với tài sản (cụ thể là 330.000.000đ) theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật</b>

<b>Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

Thứ hai, do là tranh chấp về quyền sở hữu (330.000.000đ) nên thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện, cụ thể là Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà theo

<b>điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

<b>Thứ ba, theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tịa</b>

án có thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ được xác định tại nơi bị đơn cư trú. Vì ơng H và bà N đều cư trú tại thành phố Biên Hòa nên việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa thụ lý vụ án là đương nhiên. Như đã nói, vụ án có liên quan đến bất động sản, đối tượng tranh chấp ở đây là tiền chứ không phải bất động sản nên không thể áp dụng

<b>điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

“Sau ngày 30/10/2010, bà N và bà T không quay lại gặp ông H, bà M để thực hiện việc mua bán nữa. Đây được xem như bà N và bà T từ bỏ việc mua bán và đương nhiên mất tiền cọc như đã cam kết” Với tình tiết này, có thể thấy rằng, theo tư tưởng của bị đơn thì nguyên đơn quan tâm đến số tiền 330.000.000đ. Vì thế, đây cũng là căn cứ để cho rằng đối tượng tranh chấp là số tiền 330.000.000đ chứ không phải thửa đất.

<b>Bảo vệ quan điểm của Tịa án cấp phúc thẩm</b>

Vụ án này có quan hệ tranh chấp là “Yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, là tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất. Do đó, thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định là Tịa án nơi có bất động sản giải quyết, tức thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V. Việc Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa thụ lý giải quyết vụ án này là không đúng

<b>thẩm quyền quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,</b>

là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Nhóm đồng ý quyết định của Tịa án cấp phúc thẩm vì:

Ngày 03/07/2009, bà N có thỏa thuận sang nhượng của vợ chồng ông Nguyễn Trung H và bà Đào Thị M thửa đất số 317 với giá mua bán thỏa thuận là 1.060.000.000 đồng. Bà N đã thanh toán được số tiền tổng là 330 triệu đồng, sau đó

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

ông H đổi ý và nâng giá đất lên là 1,5 tỷ đồng thì bà N khơng đồng ý. Sau khi thỏa thuận khơng thành thì bà N khơng muốn mua đất nữa và yêu cầu Tòa án xem xét hủy bỏ hợp đồng sang nhượng đất viết tay giữa bà N và vợ chồng ông H, bà M lập ngày 03/7/2009, đồng thời yêu cầu ông H, bà M phải hoàn trả cho bà N số tiền đã nhận là 330.000.000đ (Ba trăm ba mươi triệu đồng), ngoài ra khơng cịn u cầu gì khác. Đối tượng tranh chấp ở đây là đất đai, cụ thể là “Yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Cho nên:

Thứ nhất, trước tiên cần phải xét đây có thuộc thẩm quyền của Tồ án hay khơng, thì đây là quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tồ án vì là tranh chấp về hợp

<b>đồng dân sự theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.</b>

<b>Thứ hai, theo điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nếu</b>

đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết nên chỉ có Tịa án nơi có bất động sản là Tịa án nhân dân huyện V có thẩm quyền giải quyết, khơng thể là Tịa án nơi bị đơn cư trú cũng khơng thể là Tịa án do

<b>hai bên đương sự thỏa thuận. Dù cho tranh chấp dân sự này thỏa mãn điểm a và b</b>

<b>Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng vì đây là tranh chấp về bất động</b>

sản nên chỉ có Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định thẩm quyền thụ lý giải quyết thuộc về Toà án nhân dân huyện V là hoàn toàn hợp lý theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Không chỉ như vậy việc xác định Toà án nhân dân huyện V có thẩm quyền thụ lý giải quyết tranh chấp có đối tượng bất động sản ở huyện này còn giúp các cơ quan chức năng thuận tiện trong việc thu thập chứng cứ điều tra, giải quyết công tâm, khách quan, đúng đắn và triệt để hơn.

Củng cố quan điểm:

● Không thể xác định đối tượng tranh chấp ở đây là tài sản của bà N (số tiền 330.000.000đ) do số tiền này bắt buộc phải xem xét giải quyết khi hủy hợp đồng.

● Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N với vợ chồng ông H có đối tượng chính là bất động sản là miếng đất có diện tích 5000m2 ở huyện V. ● Tịa án nhân dân thành phố Biên Hòa xác định quan hệ tranh chấp là “Xin hủy

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Địi lại tài sản” là khơng chính xác vì đã xác định khơng đúng đối tượng tranh chấp và Toà án nhân dân thành phố Biên Hịa đã thụ lý giải quyết tranh chấp là khơng đúng thẩm quyền làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

● Thời hiệu khởi kiện của bà N đã hết nên việc Tòa án tách 2 yêu cầu của bà N ra để giải quyết là đình chỉ đối với yêu cầu xin hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và buộc ông bà H, M trả 330.000.000đ cho bà N là không thể hiện đúng bản chất của vụ việc.

● Đất của ông bà H, M thuộc thửa 261, tờ bản đồ 21 xã T nhưng phía nguyên đơn lại nói rằng diện tích đất mua bán thuộc thửa đất số 317, tờ bản đồ 35 xã T, Tòa sơ thẩm không xác minh làm rõ sự khác nhau của 2 thửa này. Từ việc không làm rõ này, Toà án sơ thẩm mới xác định sai quan hệ tranh chấp.

<b>3. Xác định vấn đề pháp lý từ việc giải quyết câu hỏi nêu trên và Tóm tắt bản ánxoay quanh vấn đề pháp lý đó</b>

Vấn đề pháp lý được nêu ở trên là xác định thẩm quyền thụ lý giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án.

Nguyên đơn là bà N khởi kiện bị đơn là vợ chồng ông H, bà M về “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Lúc đầu bà N và vợ chồng ông H giao kết hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là miếng đất 5000m2 thuộc huyện V với số tiền là 1.060.000.000đ. Bà N đã thanh tốn cho vợ chồng ơng H số tiền 330.000.000đ. Tuy nhiên vợ chồng ông H đã tăng số tiền chuyển nhượng lên 1,5 tỷ và bà N không chấp nhận tiếp tục thực hiện hợp đồng. Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà đã thụ lý và giải quyết vụ án này. Tuy nhiên Tịa cấp phúc thẩm (Tồ án nhân dân tỉnh Đồng Nai) nhận định rằng Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa đã thụ lý giải quyết tranh chấp không đúng thẩm quyền theo lãnh thổ, mà phải là Tòa án nhân dân huyện V mới có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.

</div>

×