Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Ngoại giao Việt - Mỹ: Nâng cấp mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM </b>

<b>ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỬ </b>

<b>Học phần: </b>

<b>LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VIỆT NAM </b>

<b>Chủ đề: </b>

<b>ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT NAM – HOA KỲ TỪ KỲ TÍCH NGOẠI GIAO ĐẾN TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN </b>

<b>Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS Trần Thị Mai </b>

Sinh viên: Võ Vân Anh MSSV: 2156040055

Ngày 15 tháng 11 năm 2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC MỞ ĐẦU </b>

<b>NỘI DUNG </b>

<b>Chương 1. Khát quát lịch sử ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ ...5 </b>

1. Giai đoạn từ năm 1884 đến trước Cách mạng tháng Tám...5

2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954...5

3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975...6

4. Giai đoạn từ năm 1975 đến 1995...7

5. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay...8

<b>Chương 2. Nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược tồn diện với Mỹ, tính cấp bách trong bối cảnh Việt Nam và thế giới hiện nay...8 </b>

1. Bối cảnh thế giới và tính cấp thiết của việc nâng cấp mối quan hệ trong giai đoạn hiện nay...8

<i>1.1 Bối cảnh chung của thế giới đã ảnh hưởng đến quyết sách ngoại giao của Việt Nam...8 </i>

<i>1.2 Tình hình Biển Đơng...9 </i>

2. Lợi ích của việc nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ...10

<i>2.1 Những tính tốn Hoa Kỳ khi quyết định ưu tiên Việt Nam trong chính sách ngoại giao của mình...10 </i>

<i>2.2 Lợi ích mà Việt Nam kì vọng sau khi nâng cấp mối quan hệ với Hoa Kỳ...13 </i>

<b>Chương 3. Những khó khăn và thách thức trước và sau khi nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ. Ứng xử của Việt Nam trước các vấn đề...18 </b>

<i>3.1 An ninh đối nội của Việt Nam và những lo ngại về các vấn đề Việt Nam trong lịng chính trị của nước Mỹ trước khi nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ...18 </i>

<i>3.2 An ninh đối ngoại - phản ứng của các quốc gia liên quan...21 </i>

<b>KẾT LUẬN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHỤ LỤC </b>

<b>Danh mục các từ viết tắc: </b>

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

IPEF Khuôn khổ kinh tế Ấn Ðộ Dương - Thái Bình Dương UNCLOS 1982 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 COC Bộ quy tắc ứng xử

EEZ Vùng đặc quyền kinh tế

Nhóm A5 Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines, Việt Nam MIA quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam CSIS Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế

USAID Bộ Giáo dục và Đào tạo và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU </b>

Gần 30 năm kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ (1995-2023), cũng là kỷ niệm 10 năm hai nước nâng cấp mối quan hệ Đối tác toàn diện (2013-2023). Lần đầu tiên, Tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam theo lời mời Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thăm Việt Nam từ ngày 10-11/9/2023 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong lịch sử ngoại giao của hai nước, vốn có một quá khứ vô cùng phức tạp, cũng như có những khác biệt căn bản về ý thức hệ, quan điểm chính trị và ngoại giao.

Sự kiện đặt biệt này đã khiến giới quan sát không ngừng tranh luận và khơng ngồi dự đốn, Việt Nam đã nâng cấp mối quan hệ với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, điều khiến thế giới ngạc nhiên chính là việc chúng ta bỏ qua bước Đối tác Chiến lược để lên thẳng mức cao nhất, Đối tác chiến lược toàn diện. Tại chuyến thăm, lãnh đạo hai nước đã tuyên bố thiết lập mối quan hệ “Đối tác Chiến lược Tồn diện vì hịa bình, hợp tác và phát triển bền vững” và nhiều thỏa thuận hợp tác có tính đột phá được cơng bố. Những nỗ lực của Việt Nam lẫn Hoa Kỳ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, từ cựu thù trở thành đối tác đã trở thành mối quan hệ hình mẫu được dư luận quốc tế lẫn trong nước ghi nhận, đánh giá cao.

Việc nâng cấp mối quan hệ với Mỹ trong giai đoạn thế giới liên tục có những thay đổi vơ cùng quan trọng, diễn biến quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường có ý nghĩa như thế nào với Việt Nam? Và những khó khăn, triển vọng của Việt Nam khi đưa đến quyết định ngoại giao mang tính thời đại này là gì? Sự kiện quan trọng này có củng cố thêm chính sách ngoại giao cây tre của Việt Nam hay không? Cũng như những toan tính của Mỹ khi quyết định chọn Việt Nam như một ưu tiên trong chính sách ngoại giao của mình. Để có thể giải đáp thêm vô vàn những “ẩn số” cho sự kiện ngoại giao đầy tính bước ngoặt này, củng cố thêm tri thức, góc nhìn về bối cảnh ngoại giao giữa Việt Nam và thế giới trong giai đoạn

<b>hiện nay, em xin chọn đề tài “Đối tác chiến lược tồn diện Việt Nam – Hoa Kỳ. Từ kỳ tích ngoại giao đến triển vọng phát triển”. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>NỘI DUNG </b>

<b>Chương 1. Khái quát lịch sử ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ 1. Giai đoạn từ năm 1884 đến trước Cách mạng tháng Tám </b>

Từ 1884 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, mặc dù về danh nghĩa triều Nguyễn vẫn tồn tại đến năm 1945, nhưng thực chất sự điều hành đất nước nằm trong tay chính phủ thuộc địa. Quan hệ của Mỹ với Việt Nam giai đoạn này, là quan hệ giữa chính quyền Pháp với Mỹ - vừa với tư cách là đồng minh trong chiến tranh chống phát xít, đồng thời với tư cách là đối thủ cạnh tranh với Mỹ về địa vị, quyền lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong vấn đề thị trường và thuộc địa. Thời kỳ chiến tranh Thế giới lần thứ 2 (1939 -1945) đã đánh dấu một sự hợp tác đáng chú ý giữa Mặt trận Việt Minh với phía Hoa Kỳ, khi mà cả Việt Minh và Hoa Kỳ đều là những thành viên trong lực lượng đồng minh chống phát xít. Có lẽ giai đoạn 1939 -1945 là giai đoạn có nhiều mảng sáng hơn cả, khi mà cả hai bên đều có mẫu số chung để gặp gỡ là hợp tác chống Nhật.

<b>2. Giai đoạn từ 1945 đến 1954 </b>

Với sự kế nhiệm của Truman, một chính sách thời hậu chiến được thực thi, cuộc chiến tranh lạnh do Hoa Kỳ phát động thực sự bắt đầu chĩa mũi nhọn của nó vào Liên Xơ. Chính sách của Mỹ đối với các khu vực có sự thay đổi.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, từ đây quan hệ Việt - Mỹ được xem xét trên bình diện là quan hệ giữa hai quốc gia, hai nhà nước độc lập có chủ quyền, thế nhưng những vấn đề diễn ra trong thực tế lịch sử lại không hề đơn giản.

Với việc thực hiện chính sách hai mặt của Truman: Vừa công khai tuyên bố lập trường tổng quát của Hoa Kỳ là chống chủ nghĩa thực dân (cũ), nhưng mặt khác lại ủng hộ người Pháp ở Đơng Dương, thì những cố gắng bày tỏ thiện chí sẵn sàng thiết lập quan hệ hữu hảo với Hoa Kỳ của Việt Nam đều không đem lại kết quả. Chỉ sau đó, bằng việc chính quyền Truman dần ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương, đặc biệt là từ khi Thuyết “Domino” ra đời (1949) và sự dính líu đi đến can thiệp sau đó (1950 -1954) vào vấn đề Đơng Dương thì quan hệ Việt - Mỹ mới chuyển sang căng thẳng đi đến đối đầu với tất cả sự phức tạp của nó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Hội nghị Geneve 1954 là sự xác nhận địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế nói chung và trong quan hệ với Mỹ nói riêng. Vì với Hội nghị này, Mỹ buộc phải chấp nhận đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, với tư cách là một trong những bên hữu quan tham gia đàm phán. Tuy sau đó, Mỹ khơng ký vào văn bản chính thức, nhưng đại diện của Mỹ cũng đã ra một bản tuyên bố riêng cam kết tôn trọng Hiệp định. Nếu sự việc chỉ dừng lại ở mức độ này và Mỹ thực hiện theo cam kết của họ tại Hội nghị Geneve thì có lẽ quan hệ Việt - Mỹ sẽ không phát triển thành chiến tranh. Nhưng thực tế Hoa Kỳ đã khơng có được bước dừng như vậy. Một lần nữa Mỹ lại bỏ qua cơ hội thiết lập quan hệ hữu hảo giữa hai nước, bằng việc thiết lập chính quyền thân Mỹ Ngơ Đình Diệm, phá vỡ kế hoạch hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam và từng bước thay thế Pháp thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.

<b>3. Giai đoạn 1954 – 1975 </b>

Đây là giai đoạn ngoại giao “đen tối” nhất trong lịch sử ngoại giao giữa hai nước. Mỹ thành công chia cắt Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phải đối đầu với chính quyền thân Mỹ Việt Nam Cộng hòa. Người Mỹ từ việc can thiệp từ xa bằng viện trợ kinh tế, quốc phòng đến việc đổ bộ trực tiếp quân đội vào Việt Nam.

Năm 1965 Tổng thống B. Johnson cho đổ bộ lực lượng chính thức tham chiến tại Việt Nam. Chính quyền Johnson lo sợ bị lên án vì tội “để mất Việt Nam” như Truman bị lên án là “để mất Trung Quốc”, Johnson nhận thức tình hình Việt Nam trong bối cảnh xuất hiện học thuyết Domino và hướng đến những chiến dịch quân sự quy mô trong tâm thức “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản” bằng mọi giá.

Chính phủ Mỹ, qua nhiều đời Tổng thống đều khơng có một cái nhìn sáng suốt trong chiến tranh Việt Nam, Washington cho rằng “ Việt Minh và Hồ Chí Minh là “công cụ” trong nỗ lực thống trị thế giới của Liên Xô”. Tư duy “chống cộng” điên cuồng và cực đoan của chính quyền nước này chỉ suy tàn dần bởi những thất bại ngày một to lớn trên chiến trường Việt Nam. Chính những học giả Mỹ cũng cho rằng, nhận thức của Mỹ là sai, rằng “cuộc cách mạng ở Việt Nam lớn mạnh là do nó có thể đồng nhất với chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, nó có động lực riêng hoàn toàn tách biệt với chủ nghĩa cộng sản quốc tế.”<small>1</small>

Dưới những thất bại nặng nề tại Việt Nam và phản ứng đầy gây gắt của dư luận, năm 1973, Hoa Kỳ đành phải ký hiệp định Paris với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

<small>1 George C. Herring (1981), “The ‘Vietnam syndrome’ and American foreign policy” </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

và rút quân ra khỏi chiến trường Việt Nam. Năm 1975, Hoa Kỳ đóng cửa Đại sứ quán tại Sài Gòn.

<b>4. Giai đoạn từ 1975 đến 1995 </b>

Nhà nước Xã hội chủ nghĩa lên nắm quyền tại miền Nam Việt Nam năm 1975 (rồi tái thống nhất năm 1976). Từ năm 1975 đến năm 1994, Mỹ đã cấm vận Việt Nam. Trong thời gian này, từ 1977 đến 1978 Việt Nam và Hoa Kỳ đàm phán bình thường hóa quan hệ nhưng khơng thành vì hai bên khơng thể thỏa thuận được về việc bồi thường chiến tranh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA). Trong vấn đề tại Campuchia, khi Việt Nam đưa quân sang tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot. Trung Quốc cho rằng đây là ý đồ loại bỏ sự ảnh hưởng của nước này ra khỏi Đông Nam Á, chuẩn bị cho việc thành lập khối thân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Việt Nam tại đây. Washington cũng lý giải như vậy và đưa sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại Campuchia thành một vấn đề quốc tế nghiêm trọng. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình cho quân đội tràn vào lãnh thổ Việt Nam. Chính quyền Mỹ tỏ ra trung lập khi yêu cầu cả Việt – Trung đều phải rút quân. Nhưng mặt khác, theo nhiều tác giả<small>2</small>, Mỹ đã gửi cảnh cáo đến Liên Xô, chống lại việc tấn công Trung Quốc từ phương bắc. Trong sự kiện lần này, Mỹ và rất nhiều nước lớn đã chỉ trích Việt Nam “xâm lược” Campuchia, tiếp tục có những hành động hỗ trợ, hậu thuẫn tàn quân của Khmer đỏ, thậm chí là giữ ghế Đại diện Campuchia tại Liên Hợp Quốc cho tổ chức này.

Những năm đầu 1980, Căng thẳng Xô – Trung đã đẩy Mỹ về phía Trung Quốc hơn và Việt Nam trở thành nạn nhân của cuộc tranh giành quyền lực giữa các nước lớn.

Khi trở lại vị trí hàng đầu, Hoa Kỳ đã có một đường lối cứng rắn nhất quán, gắn bình thường hóa với việc giải quyết các vấn đề MIA và với một giải pháp hịa bình cuối cùng ở Campuchia. Trong khi đó, Việt Nam đang tìm cách thốt khỏi cơ lập và giành sự trợ giúp của phương Tây, từ giữa những năm 1980 đã cố gắng đáp ứng các yêu cầu của Mỹ, mà được biết đến với tên gọi là “Lộ trình 4 bước”. Bất chấp mối quan hệ “không cân bằng” khi phải nối lại quan hệ với Hoa Kỳ nhưng Việt Nam vẫn cho thấy thiện chí tìm kiếm qn nhân Mỹ mất tích cũng như nỗ lực tìm kiếm cơ hội phát triển trong giai đoạn đầy khó khăn.

Kết quả của những nỗ lực từ phía Việt Nam thì vào năm 1993, ngoại giao hai nước bắt đầu có những tiến triển tích cực, Hoa Kỳ mới tuyên bố không ngăn cản

<small>2 Bogaturov Aleksey – Demofenovich. LS quan hệ quốc tế . NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật (2015). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 28 tháng 1 năm 1995, Hoa Kỳ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tun bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1995, quan chức ngoại giao hai nước ký kết thỏa thuận mở Đại sứ quán tại thủ đô của hai nước. Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội mở cửa ngày 6 tháng 8 năm 1995.

<b>5. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay </b>

Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào tháng 7 năm 1995, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ phát triển một cách tích cực và tồn diện trên nhiều lĩnh vực. Đây là kết quả của sự nỗ lực từ hai phía và được dư luận quốc tế đánh giá cao.

Năm 2000, Hai nước kí Hiệp định thương mại song phương vào ngày 13/7, mở ra mối quan hệ kinh tế không chỉ với Hoa Kỳ mà còn là nước đồng minh Hoa Kỳ. Năm 2013, hai nước nâng cấp quan hệ lên tầm “đối tác hợp tác toàn diện”. Đến năm 2023, kỷ niệm 10 năm hay nước thiết lập mối quan hệ “đối tác hợp tác toàn diện”, với lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đến thăm Việt Nam và hai nước đã tuyên bố nâng cấp mối quan hệ lên mức cao nhất “Đối tác chiến lược tồn diện”. Đây là một kì tích ngoại giao với hai quốc gia từng là “cựu thù”, do đó những triển vọng được đặt ra cho mối quan hệ này là không hề nhỏ.

<b>Chương 2. Nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược tồn diện với Mỹ, tính cấp bách trong bối cảnh khu vực và thế giới hiện nay. </b>

<b>1. Bối cảnh thế giới và khu vực, tính cấp thiết của việc nâng cấp mối quan hệ trong giai đoạn hiện nay. </b>

<b>1.1 Bối cảnh chung của thế giới đã ảnh hưởng đến quyết sách ngoại giao của Việt Nam </b>

Tình hình thế giới hiện nay diễn biến vô cùng phức tạp, cuộc chiến giữa Nga và Ukraine đã thay đổi hồn tồn cấu trúc, khơng chỉ là an ninh khu vực mà còn là an ninh toàn cầu. Toàn bộ hệ thống, thể chế từ sau chiến tranh lạnh mà chúng ta được biết tới dần dần bị phá vỡ. Với những cái cấu trúc an ninh thay đổi bất định như vậy nếu không nâng cấp với các đối tác lớn thì sau này sẽ rất khó tìm kiếm cơ hội một lần nữa. Cũng trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine, nó đã làm thay đổi căn bản về nhận thức Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa quân đội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Khi vũ khí Việt Nam được mua chủ yếu từ Nga thì Nga có khả năng lại bị sa lầy trong cuộc chiến này. Vấn đề được đặt ra là làm sao để đa dạng hóa nguồn cung vũ khí và xây dựng một nền quốc phòng nội địa đủ mạnh.

Tiếp đó là vấn đề ở chính Mỹ, trong năm sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sẽ nổ ra, ln đi kèm với kết quả khó đốn, có thể có những yếu tố bất định mà Việt Nam không thể lường trước được. Chúng ta khơng thể biết chắc chắn là chính quyền của Mỹ sẽ có gì thay đổi hay khơng, và nếu có thay đổi, thì liệu Việt Nam có cịn là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ hay khơng?! Do đó, Việt Nam khơng cịn thời gian để chờ đợi hay chần chừ nữa.

Ngoài ra, khi mà mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc chưa căng thẳng tới mức mà bất cứ hành động nào của Việt Nam đối với một bên, thì đều bị diễn dịch bởi bên cịn lại là hành động chống nước đó. Chính vì vậy mà để càng lâu thì cơ hội để Việt Nam tiến hành nâng cấp mối quan hệ một cách tương đối bình thường sẽ giảm xuống.

Cũng trong dài hạn, nếu Việt Nam không thể hiện sự nhiệt thành đáp lại thiện chí của Hoa Kỳ thì họ có thể nản lịng và họ sẽ chuyển sang các đối tác khác, để thúc đẩy các mục tiêu chiến lược của họ. Bởi vì mục tiêu của họ thì họ phải theo đuổi và họ phải tìm những đối tác để cùng hướng tới những mục tiêu đó. Trong trường hợp đối tác và họ mong muốn khơng có sự phản hồi lại thì bắt buộc họ phải tìm đối tác khác mà thơi. Đó sẽ là một điều nuối tiếc cho Việt Nam và sẽ khiến cho Việt Nam lỡ một dịp để nâng cấp mối quan hệ với người Mỹ trong bối cảnh Mỹ là một đối tác càng ngày càng quan trọng đối với Việt Nam, không chỉ về kinh tế mà còn về chiến lược quân sự, quốc phịng…

<b>1.2 Tình hình Biển Đơng </b>

Trung Quốc có tham vọng và nguồn lực để mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở Biển Đông - “con đường” thuận lợi nhất để nước này vươn lên trở thành cường quốc biển. Nay chiến tranh Ukraine đã làm đảo lộn trật tự thế giới và đang tạo ra các khoảng trống quyền lực để Trung Quốc lợi dụng “đục nước béo cò”. Trung Quốc lợi dụng cơ hội định gạt Nga khỏi các dự án dầu khí ở Biển Đơng vì Nga đang phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc do vấn đề Ukraine. Trung Quốc gây sức ép với Việt Nam ở phía đơng và phía Tây khi Hà Nội chưa kịp nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược tồn diện.

Trung Quốc có hai mục tiêu chiến lược chính tại Biển Đơng: Một là Trung Quốc chủ động quấy rối các hoạt động mở rộng khai thác các lơ dầu khí có trữ lượng lớn của nhóm A5 ở khu vực chồng lấn giữa EEZ của các nước A5 với “đường 9

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

đoạn” của Trung Quốc. Hai là Trung Quốc đang “giương đơng kích tây” để củng cố các lập luận pháp lý mà họ có lợi thế. Các động thái đó diễn ra khi các phiên tịa phân định biển trong tương lai có xu hướng ưu tiên cho quốc gia nào có khả năng chấp pháp thực tế ở khu vực tranh chấp theo nguyên tắc “chiếm hữu thực sự”<small>3</small>. Trong bối cảnh đàm phán về COC đang đến giai đoạn cuối, các bước leo thang trong phạm vi “vùng xám”<small>4</small> chứng tỏ Trung Quốc sẽ không từ bỏ ý đồ độc chiếm Biển Đông.

Với ý đồ biến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thành “khu vực chồng lấn”<small>5</small>

với yêu sách “Nam Hải chư đảo”, Trung Quốc đang xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông, vi phạm nghiêm trọng UNCLOS 1982.

<b>2. Lợi ích của việc nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ </b>

<b>2.1 Những tính tốn của Hoa Kỳ khi quyết định ưu tiên Việt Nam trong chính sách ngoại giao của mình </b>

<b>2.1.1 Kết thúc hoàn toàn Hội chứng Việt Nam và thực thi hiệu quả tìm kiếm MIA </b>

Hội chứng Việt Nam là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến tại Mỹ, để mô tả những chấn động trong tâm lý của người Mỹ cũng như những tranh cãi nội bộ của chính giới Mỹ liên quan đến chính sách can thiệp của Mỹ vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Vần đề về “Hội chứng Việt Nam” diễn ra khơng hề đơn giản trong lịng xã hội nước Mỹ. Hội chứng này được bộc lộ ở các hiện tượng xã hội – chính trị – kinh tế như: khủng hoảng lòng tin của nhân dân Mỹ đối với cuộc chiến; sự ám ảnh bởi tội lỗi của phần lớn lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam; nội bộ nước Mỹ chia rẽ, giới cầm quyền mâu thuẫn sâu sắc, nhất là trong hoạch định chính sách đối ngoại; sự gia tăng tốc độ suy thoái kinh tế và các tệ nạn xã hội… Chính Tổng thống Mỹ Ronald W. Reagan từng tuyên bố rằng “nước Mỹ không thể nào dành chiến thắng vì quân đội ‘từ chối cho phép dành chiến thắng’”

<small>3 Chiếm hữu thực sự: một nguyên tắc được thông qua trong Nghị quyết về Châu Phi tại Hội nghị Berlin 1885, theo đó quốc gia được công nhận là chủ sở hữu vùng đất mới nếu ngoài việc phát hiện đầu tiên phải tiếp theo đó các hành động thực tế: Thơng báo việc chiếm hữu cho các nước tham gia hiệp định, duy trì quyền lực một các phù hợp trên lãnh thổ được chiếm hữu. </small>

<small>4 Vùng xám: một thuật ngữ được dùng để ám chỉ hay chỉ trích tình trạng căng thẳng đươc tạo nên bởi hoạt động có chủ ý của con người, </small>

<small>5 Vùng chồng lấn là một khu vực biển mà hai hay nhiều quốc gia đều có yêu sách hợp pháp theo luật pháp quốc tế, trong đó có Cơng ước Luật Biển năm 1982 (‘Cơng ước’). Theo Công pháp Quốc tế bằng tiếng Việt (Public International Law in Vietnamese). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Trong khi giải thích cho sự thất bại của Hoa Kỳ trong quá trình “can thiệp quân sự" ở Việt Nam, nhà sử học người Mỹ George C. Herring cũng thừa nhận:“Chúng ta đã cố gắng ngăn chặn một cuộc chiến tranh do Cộng sản lãnh đạo nhưng lại thể hiện trào lưu sâu sắc và mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.”

Hay Tổng thống George Bush nói trong tuyên bố chiến thắng đầy hưng phấn vào cuối Chiến tranh vùng Vịnh: “Chúa ơi, chúng ta đã đá bay ‘Hội chứng Việt Nam’ một lần và mãi mãi”. Chừng đó đủ hiểu chiến tranh Việt Nam đã tiếp tục săn lùng tâm lý người Mỹ như thế nào, thậm chí nó đã qua hơn mười lăm năm từ khi chế độ Sài Gòn sụp đổ đến lúc Greoge Bush vui mừng tuyên bố về sự kết thúc của “bóng ma” “Chiến tranh Việt Nam”.

Thế nhưng vẫn còn quá sớm để có thể kết luận về việc chiến tranh Vùng Vịnh mang đến kết quả như Greoge Bush nói. Một điều rõ ràng hơn đó là Hội chứng Việt Nam đã đặt một sức ép nặng nề lên việc sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài. Những cam kết ngắn hạn ít tốn kém hơn (ít nhất là cho nước Mỹ) đã trở thành ưu tiên của nước này khi tiến hành can thiệp ở nước ngoài.

Và nâng cấp quan hệ với Việt Nam sẽ tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho Hoa Kỳ trong quá trình xá bỏ những mâu thuẫn trong nội bộ trong việc giải quyết những hậu quả chiến tranh, thoát khỏi “Hội chứng Việt Nam”, thực thi tìm kiếm MIA.

<b>2.1.2 Lợi ích an ninh - chiến lược </b>

Là một siêu cường, mục tiêu chiến lược trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ là củng cố, duy trì vị trí lãnh đạo thế giới trên cơ sở những ưu thế về cả “sức

<b>mạnh” cứng lẫn “ sức mạnh mềm”. </b>

Dưới góc độ an ninh, những bất ổn an ninh trên thế giới, nhất là tại khu vực mà Hoa Kỳ xác định là có lợi ích chiến lược đang đặt ra nhiều vấn đề mà Hoa Kỳ cần quan tâm giải quyết. Việc Mỹ cùng các đồng minh ngày càng bất an trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và việc nước này công khai thách thức trật tự khu vực, nhất là vị thế siêu cường dẫn đầu của Mỹ nên cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng dự báo của thuyết “chuyển giao quyền lực”. Bởi thế, trước việc Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và trở thành đối thủ duy nhất đủ tầm đe dọa vị thế siêu cường duy nhất của Mỹ buộc Hoa Kỳ phải tập trung chú ý hơn đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ có chiều hướng nhìn nhận Việt Nam là một lực lượng quan trọng đóng góp vào trật tự an ninh đang nổi lên ở châu Á – Thái Bình Dương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Như vậy, Hoa Kỳ đã coi việc củng cố quan hệ với Việt Nam là “một trụ cột trong sự hiện diện của Hoa Kỳ ở khu vực (Thái Bình Dương) và sự tham gia của Hoa Kỳ trong các thể chế đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương.

Và dưới góc độ chiến lược, Hoa Kỳ tăng cường quan hệ sâu rộng với Việt Nam vì những lợi ích chiến lược lâu dài. Hoa Kỳ nhận thấy Việt Nam có vai trị ngày càng quan trọng trong khu vực, muốn Việt Nam đóng vai trị quốc tế lớn hơn và hợp tác với Hoa Kỳ nhiều hơn trong những vấn đề quốc tế và khu vực. Với vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, nơi có thể giúp các nước lớn kiểm sốt khu vực, kiểm sốt Biển Đơng và kiềm chế lẫn nhau, thật khơng khó để Hoa Kỳ chọn Việt Nam làm “đòn bảy” chiến lược trong mối quan hệ cạnh tranh với Trung Quốc.

Mặt khác, chính những đòi hỏi và thái độ của Trung Quốc ở Biển Đơng đang dẫn đến sự hội tụ lợi ích chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, dẫn đến việc hai bên tích cực tăng cường quan hệ. Hoa Kỳ không thể biến Việt Nam thành đồng minh quân sự thì họ cũng muốn Việt Nam trở thành một đối tác có thể hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của Mỹ, hoặc bằng mọi cách ngăn Việt Nam ngả về phía Trung Quốc hay Nga và qua đó tạo ưu thế chiến lược cho Mỹ và các đồng minh trong việc ứng phó với các đối thủ chiến lược này. Việt Nam trở thành một trong những “điểm nút” quan trọng để Mỹ cô lập Trung Quốc ở Biển Đông.

Việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam cũng phù hợp với tầm nhìn về Ấn Độ-Thái Bình Dương của chính quyền Biden, vốn ưu tiên phát triển quan hệ với các nước chủ chốt trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, Indonesia hay Singapore…

<b>2.1.3 Lợi ích kinh tế </b>

Hoa Kỳ đang dần mất đi vai trò là động lực kinh tế chính của kinh tế thế giới. Kinh tế Hoa Kỳ phải đối mặt với vấn đề lạm phát cao, tăng trưởng thấp, nợ chính phủ đạt đến giới hạn, thâm hụt thương mại lớn,...

Dưới thời Tổng Thống Trump, việc Mỹ nổ lực giảm thiểu những nguồn cung từ thị trường Trung Quốc là cơ hội để Việt Nam, cũng với những ưu thế về nhân công rẻ, dồi dào vươn lên tạo sức ảnh hưởng với thị trường Hoa Kỳ.

Mặt khác, Trung Quốc là một xưởng gia công lớn nhất thế giới, với lượng hàng hóa khổng lồ xuất khẩu sang Mỹ mỗi năm. Qua Đại dịch Covid-19 với chính sách phong tỏa zero Covid của Trung Quốc, đã làm đứt gãy hoàn toàn chuỗi cung ứng, ảnh hưởng vô cùng lớn đến kinh tế Mỹ cũng như phương Tây. Cũng trong giai đoạn này, tình hình thế giới lại tiếp tục biến chuyển căng thẳng qua cuộc chiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

tranh giữa Nga – Ukraine và sự gắn kết bền chặt của Nga – Trung, làm cho Hoa Kỳ nhận ra họ phải giảm thiểu sự phụ thuộc vào hàng hóa đến từ Trung Quốc. Do đó, một khái niệm mới trong ngoại giao được Hoa Kỳ đưa ra là “Friend shoring” (đối tác thân thiện), nhằm dành đơn hàng cho các đối tác tin cậy, thay vì đưa nó cho các quốc gia thiếu thiện chí với Mỹ. Theo cách giải thích của một số nhà kinh tế chủ xướng khái niệm này, Friend-shoring sẽ dựa vào các nước đối tác kinh tế để xây dựng quan hệ sản xuất nhằm tận dụng các lợi ích chung về cả chính trị lẫn kinh tế. Hoa Kỳ đang hướng đến để biến Việt Nam thành một “friend shoring” ở khu vực Đông Nam Á, vị trí thuận lợi để chuyển dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang. Điều này còn lý do tại sao Hoa Kỳ lại quyết định cùng Việt Nam nâng cấp lên mức cao nhất Đối tác chiến lược toàn diện, bỏ qua mức đối tác chiến lược. Việt Nam đã trở thành một nút quan trọng trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu và trích dẫn các khoản đầu tư lớn của các công ty Mỹ vào Việt Nam.

Đặc biệt, theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc, với ước tính khoảng 22 triệu tấn, chiếm khoảng 19% trữ lượng được biết đến của thế giới. Washington và các đồng minh đã tìm cách đa dạng hóa nguồn cung đất hiếm khỏi Trung Quốc. Bên cạnh việc khôi phục các mỏ đất hiếm của mình, họ cũng tăng cường hợp tác với Việt Nam để phát triển nguồn cung thay thế. Trong chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Joe Biden vào tháng 9, hai nước đã ký một Bản ghi nhớ nhằm hỗ trợ Việt Nam định lượng tài nguyên đất hiếm và tiềm năng kinh tế, cũng như thu hút các khoản đầu tư chất lượng cho lĩnh vực này.

<b>2.2 Lợi ích mà Việt Nam kì vọng sau khi nâng cấp mối quan hệ với Mỹ. 2.2.1 Lợi ích chính trị - ngoại giao </b>

Lãnh đạo Việt Nam coi đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ là minh chứng cho vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam và là một sự cơng nhận tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối tác chiến lược Việt-Mỹ phù hợp với chủ trương đối ngoại của Việt Nam là “độc lập, tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ”. Đối tác chiến lược với Mỹ không chỉ là tượng trưng mà còn thực chất, để Hà Nội vận dụng “ngoại giao cây tre”.

Như vậy, mặc dù việc thiết lập đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ trong chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Biden sẽ là một bước tiến đáng kể cho quan hệ song phương, nhưng nó khơng phải là dấu hiệu cho thấy có sự thay đổi lớn trong quỹ đạo chiến lược của Việt Nam. Lợi ích tốt nhất của Hà Nội hiện nay vẫn là theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

đuổi một chính sách đối ngoại độc lập và cân bằng trong quan hệ với các nước lớn.

<b>2.2.2 Lợi ích kinh tế </b>

Đối với Việt Nam việc mở rộng mối quan hệ với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặt biệt là Châu Á- Thái Bình Dương, trong đó Hoa Kỳ là một trong những ưu tiên của chính sách đối ngoại Việt Nam. Việc thúc đẩy quan hệ với cường quốc kinh tế, khoa học và công nghệ hành đầu thế giới như Hoa Kỳ sẽ mang lại lợi ích cho Việt Nam. Là một quốc gia đang phát triển rất cần thị trường, vốn, khoa học công nghệ và phương thức quản lý của Hoa Kỳ để phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

<b>Về quan hệ thương mại, năm 2022, Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại lớn </b>

thứ 2, là thị trường xuất khẩu lớn nhất và cũng là thị trường xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam vượt mốc 100 tỷ USD. Kim ngạch thương mại hai chiều Việt-Mỹ năm 2022 là 123 tỷ USD, tăng gấp 4 lần so với năm 2013 và tăng tới 273 lần so với chỉ 450 triệu USD vào năm 1994.

Giới chuyên gia nhận định rằng, sự kiện nâng cấp quan hệ lên mức đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ sẽ tạo cơ hội thúc đẩy những lĩnh vực hợp tác mới mang tính đột phá, đưa sản phẩm hàng hóa Việt Nam thực sự có mặt trong các chuỗi giá trị tồn cầu. Trong đó, tập trung vào tạo việc đẩy mạnh sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện, thiết bị cho ngành năng lượng, hàng khơng, kinh tế số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Mặc dù có những lo ngại về việc Việt Nam hưởng lợi rất nhiều khi xuất siêu qua Hoa Kỳ. Trong khi nước Mỹ từ lâu nhìn nhận việc xuất siêu với thái độ rất “dè dặn”, điển hình như là việc Trung Quốc bị Mỹ trừng phạt khi xuất siêu quá nhiều vào thị trường Mỹ, gây nên chiến tranh thương mại. Nhưng ít nhất trong bối cảnh hiện tại, khi quan hệ hai nước đang trên đà phát triển và những con số đến từ Việt Nam không đủ để Hoa Kỳ “quan ngại”. Mặt khác, Việt Nam cũng không dùng tỷ giá hối đoái, thay đổi bất ngờ và nhân tạo để lũng đoạn hệ thống tiền tệ. Do đó việc dẫn đến bị Hoa Kỳ “trả đũa” là rất khó xảy ra.

<b>Về quan hệ đầu tư, nhiều năm qua, Hoa Kỳ luôn là một trong những đối tác có </b>

đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Hoa Kỳ hiện xếp thứ 11/142 quốc gia, vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, với 1.223 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 11,4 tỷ USD. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ coi Việt Nam là thị trường chiến lược với cam kết đầu tư dài hạn, ủng hộ mạnh mẽ các mục tiêu của Chính phủ Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Nam về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng như đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao…

Hoa Kỳ nằm trong top 10 quốc gia mà Việt Nam có dự án đầu tư. Gần đây, nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam ngày càng quan tâm đầu tư vào Hoa Kỳ và được phía Hoa Kỳ đánh giá cao. Tuy nhiên, vốn đầu tư FDI vẫn còn Hoa Kỳ đứng sau nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore... chúng ta kì vọng rằng sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ thì vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam sẽ gia tăng nhiều hơn

<b>2.2.2 Về văn hóa, giáo dục, khoa học và cơng nghệ. </b>

<b>Về văn hóa, sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, song song với các lĩnh </b>

vực quan hệ hợp tác khác thì lĩnh vực văn hóa được hai bên quan tâm hợp tác, tập trung chủ yếu ở các hoạt động giao lưu văn hóa. Thông qua việc nâng cấp mối quan hệ với Hoa Kỳ, Việt Nam tin tưởng rằng sẽ tạo nhiều thuận lợi hơn cho việc

<b>truyền bá văn hóa Việt, dù tiềm năng của nó trong bối cảnh hiện tại chưa cao. Về giáo dục, đây là lĩnh vực đầy hứa hẹn của quan hệ hai nước. Việt Nam hiện </b>

đang thiếu hụt trầm trọng những kĩ sư trong các ngành công nghệ thông tin, phát triển chip bán dẫn... do đó, việc có thể cho các du học sinh Việt Nam, các nhà nghiên cứu người Việt tiếp cận được với công nghệ Mỹ là vô cùng cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.

Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật giáo dục đại học sửa đổi bổ sung năm 2018 và Luật giáo dục năm 2019. Hai Luật này là tiền đề để thúc đẩy hợp tác và đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã được tự chủ rất cao về hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định quy định về hợp tác và đầu tư với nước ngoài - mở ra nhiều cơ hội để các đối tác nước ngoài hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục.

Vừa qua, USAID đã ký Bản Ghi nhớ hợp tác nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Đây là minh chứng rõ ràng cho những cam kết nhằm phát triển giáo dục và trao đổi hợp tác giữa hai nước về phát triển giáo dục đại học, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đại học. Bên cạnh đó, đầu tư của Hoa Kỳ trong lĩnh vực giáo dục còn thể hiện qua việc thành lập các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp của Hoa Kỳ đang hoạt động và đầu tư tại Việt Nam cũng đã phối hợp tốt với các bộ, ngành, thể hiện trách nhiệm xã hội, thúc đẩy hợp tác giáo dục.

</div>

×