Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

CẤU TRÚC VÀ ÂM ĐIỆU TRONG CÁC “LÒNG BẢN” NHẠC TÀI TỬ NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.35 KB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỞ ĐẦU </b>

Nghệ thuật biểu diễn các loại hình âm nhạc cổ truyền ñược ñặt trong bối cảnh phát triển về lịch sử cũng như về ñịa văn hố (q trình di dân về phương Nam) của dân tộc Việt Nam. Sự kế thừa truyền thống văn hoá – âm nhạc phương Bắc kết hợp với truyền thống văn hoá – âm nhạc của các cư dân bản ñịa phương Nam ñã sáng tạo nên những thể loại âm nhạc mới, trong đó có nhạc Tài tử Nam bộ.

Đặc trưng trong thể loại âm nhạc này là: tính diễn xướng với những sáng tạo tại chỗ; tính chuyên nghiệp trong trình tấu và cảm thụ; tính dị bản, tính ngẫu hứng trong diễn tấu trên khung sườn bài bản nghiêm ngặt với những “Lớp”, “Câu”, “Nhịp”… chặt chẽ, cân phương; tính mơ hình trong bài bản;...

<b>• LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI </b>

Nghiên cứu về nhạc Tài tử Nam bộ rất ñược quan tâm, tuy nhiên, những nghiên cứu thường tập trung vào những vấn ñề thang âm, ñiệu thức,... Do đó, nghiên cứu về cấu trúc và âm điệu trong các “Lịng bản” của nhạc Tài tử Nam bộ ngồi việc góp phần vào những nghiên cứu mang tính Lịch sử âm nhạc cịn hệ thống hóa những vấn đề về Lý thuyết âm nhạc mà khi ñề cập ñến vấn ñề về cấu trúc và âm ñiệu cần phải bàn ñến như “Lịng bản”, nhịp điệu, hình thức cấu tạo,… Phát hiện quy luật vận hành, sáng tạo giai ñiệu ñể có thể kế thừa trong cơng việc sáng tác sau này.

<b>• LỊCH SỬ ĐỀ TÀI </b>

<i>Một số các tác giả như: MỊCH QUANG trong tác phẩm “Khơi nguồn mỹ học dân tộc” (2004); HỒNG KIỀU với bài viết “Thử tìm hiểu ñịnh luật nhạc cổ truyền của người Việt vùng châu thổ sông Hồng” (1983), hoặc tác phẩm “Thanh ñiệu tiếng Việt và Âm Nhạc Cổ Truyền” (2001); TRẦN THẾ BẢO trong Luận án Phó Tiến Sĩ “Lịng bản - Yếu tố mơ hình trong âm nhạc truyền thống </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>thống bài bản Tài Tử Nam Bộ ( 2002),… hầu hết ñều bàn về cấu trúc giai ñiệu </i>

của âm nhạc cổ truyền, dân ca người Việt vùng Châu thổ Sông Hồng hoặc sơ qua những lối sáng tạo giai ñiệu trong các tác phẩm âm nhạc Tài tử Nam bộ,… chưa có tác phẩm nào bàn về “Cấu trúc và âm ñiệu trong các “Lịng bản” nhạc Tài Tử Nam Bộ”.

<b>• MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU </b>

- Nghiên cứu hệ thống các tác phẩm nhạc Tài tử Nam bộ với mối quan hệ mang tính kế thừa các thể loại nhạc truyền thống khác như: nhạc Lễ Nam bộ, nhạc Dân gian Nam bộ, nhạc Lễ Cung đình, Ca nhạc Huế,…

- Nghiên cứu làm rõ những kiểu cấu trúc bài bản, những motif điển hình của giai ñiệu, hình thức cấu tạo giai ñiệu, nét nhấn nhá, rung, mổ,… ñể làm rõ những đặc điểm mang tính quy luật tạo nên âm ñiệu ñặc trưng của các tác phẩm, ñặc ñiểm phong cách của mỗi thể ñiệu và của thể loại nhạc Tài tử Nam bộ.

- Nghiên cứu muốn nêu tầm quan trọng trong việc tạo nên phong cách các thể ñiệu cũng như phong cách thể loại nhạc Tài tử Nam bộ.

<b>• ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU </b>

Hiện nay, số lượng bài bản ñược nhạc giới Tài tử Nam bộ sử dụng lên ñến hàng trăm, ñể tránh những ngộ nhận có thể dẫn ñến sai lệch về những vấn đề mang tính lý thuyết, nghiên cứu chỉ giới hạn khảo sát trong “20 bản tổ”.

Ngoài ra, do chưa thống nhất trong cách ghi, nhiều nhóm Tài Tử vẫn có những bản ghi khác nhau nên nghiên cứu sẽ sử dụng những bản ghi trong chương trình giảng dạy của Nhạc viện Tp. Hồ Chí Minh.

<b>• PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>

Nghiên cứu được thực hiện dưới quan ñiểm của ngành Âm nhạc học, Dõn tc m nhc hc, s dng phơng pháp phõn tớch, lý gii, quy nạp, tổng hợp, hệ thèng hãa...

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Những khái niệm thang âm, ñiệu thức, tiết tấu, những thuật ngữ chuyên ngành trong nhạc giới,… ñã ñược nhiều nhà nghiên cứu cơng bố hoặc đã ñược trình bày trong các hội thảo,… Nghiên cứu chỉ trích dẫn, xin miễn phân tích.

Nghiên cứu đưa ra một số quan niệm về thang âm ñiệu thức, về lối ký âm theo năm dịng kẻ có kèm những ký hiệu ñặc biệt nhằm ñưa người ñọc ñến gần nhất những quan niệm âm nhạc truyền thống, âm nhạc dân gian Nam bộ.

<b>• ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN </b>

Mặc dù là một nghiên cứu về học thuật, mang tính lý thuyết âm nhạc, nhưng nghiên cứu vẫn phải đặt âm nhạc trong bèi c¶nh văn hố, lịch sử, nhân văn cụ thể tại chỗ. Âm nhạc phải ñược nghiên cứu tõ thực tế sáng tạo, biểu diễn, ñiều kiện và nhu cầu xã hội cụ thể.

Việc xác lập những yếu tố mang tính học thuật về cấu trúc và âm điệu trong các “Lịng bản” của nhạc Tài tử Nam bộ sẽ góp phần hƯ thèng hãa Lý thuyết âm nhạc cổ truyền, gợi ý cho những sáng tạo mới hoặc có một định hướng mới về kỹ thuật, hình thức tác phẩm cho những sáng tác ngày nay, đóng góp phần nào cho công tác giảng dạy, học tập, sáng tác.

<b>• BỐ CỤC LUẬN ÁN </b>

Ngồi phần mở ñầu (07 trang), phần Kết luận (04 trang), phụ lục (115 trang), nội dung luận án gồm 3 chương:

Chương I: Những yếu tố cấu thành nhạc Tài tử Nam bộ

Chương II: Cấu trúc bài bản nhạc Tài tử Nam bộ

Chương III: Âm ñiệu trong “Lòng bản” của nhạc Tài tử Nam bộ (20 bản Tổ)

<b>Chương I </b>

<b>NHỮNG YẾU TỐ CẤU THÀNH NHẠC TÀI TỬ NAM BỘ 1.1 Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của nhạc Tài tử Nam bộ </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>1.1.1 Đặc ñiểm ñịa lý, nhân văn và lịch sử Nam bộ </b></i>

Tất cả các nền âm nhạc đều được hình thành từ nền văn hóa dân tộc. Nam bộ, một vùng ñất mới, ñược thừa hưởng những thành tựu văn hóa của dân tộc để

<i>sản sinh ra một loại hình âm nhạc ñặc trưng: “Nhạc Tài tử Nam bộ”. </i>

Lịch sử hình thành đất Nam bộ là q trình di dân vào Nam khai hoang lập nghiệp của những người từ vùng đất Quảng Bình trở vào, dưới thời nhà Nguyễn, vào khoảng thế kỷ thứ XVII – XVIII. Khoảng năm 1759, có thể cho rằng cuộc di dân về phía Nam đã hồn tất. Những người di cư từ miền Bắc vào thuộc tầng lớp tận cùng của xã hội, hành trang họ mang theo là tinh thần của nền văn minh bốn ngàn năm dân tộc cùng nền văn hóa âm nhạc thắm đượm tình q hương. Một mặt, họ kế thừa âm nhạc truyền thống cha ông, mặt khác, họ sáng tạo nhiều thể loại âm nhạc, sân khấu khác như: Nhạc Lễ, nhạc Tài Tử, Cải Lương, Hát Bội,...

<i><b>1.1.2 Nhạc Tài tử Nam bộ – Lịch sử hình thành và phát triển </b></i>

Vùng ñất Nam bộ đã hình thành nên tính cách và phong cách riêng của người Nam bộ, một ngơn ngữ đặc thù, một đời sống văn hóa âm nhạc riêng biệt. Đó là những làn điệu dân ca bình dị, ngọt ngào, những ñiệu ñàn, lời ca thấm ñậm chất triết lý Đông Phương và trên hết là nghệ thuật ca nhạc Tài tử.

<i>Nhạc sĩ Phạm Duy có nêu: “Ca Huế - Loại ca nhạc có tính chất tài tử này xuất xứ từ nơi lầu son gác tía, nhanh chóng vượt khỏi địa giới thành phố Huế rồi dừng chân lại tại mấy tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi... Những thầy ñờn người Quảng lại ñem loại nhạc miền Trung vào dạy cho những người yêu nhạc miền Nam, ñể sau này khơng lâu, một loại nhạc thính phịng nữa ra đời, hội ñủ các yếu tố âm nhạc Huế, Quảng và ñịa phương và mang cái tên Nhạc Tài tử miền Nam<sup>1</sup>...”. </i>

Như vậy, có thể hiểu ở Nam Bộ có một phong trào âm nhạc mang phong cách thính phịng kế thừa những thể loại âm nhạc thính phịng của vùng ngồi kết <small> </small>

<i><small>Phạm Duy (1972), Đặc khảo về Dân nhạc ở Việt Nam, NXB Thời Đại, Sàigòn, tr. 137.</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hợp với những sáng tạo của vùng trong, ñược dân gian yêu thích và phát triển một cách rộng rãi, mạnh mẽ.

Như vậy, các nhà nghiên cứu ñã thống nhất và cho rằng nhạc Tài tử Nam bộ là loại “nhạc Thính phịng”, tuy nhiên về xuất xứ thì có hai quan điểm:

- Nhạc Tài tử Nam bộ kế thừa nghệ thuật ca Huế; - Nhạc Tài tử Nam bộ là biến dạng của nhạc Lễ.

<i>Nhà nghiên cứu Tơ Kiều Ngân có viết: “Nghệ thuật ca nhạc Huế là nghệ thuật ca nhạc với những điệu hát, bài ca “rất khó nhịp”…, những nghệ sĩ chun nghiệp hoặc có học thì mới thực hiện ñược<sup>1</sup>”. Các nhạc cụ thường gồm: Tranh, </i>

Tỳ, Nhị, Nguyệt, Bầu hay thay Bầu bằng Sáo cùng đơi phách. Những buổi ñàn ca Huế thường ñược tổ chức tại tư gia, gồm các nghệ sĩ và một số ít khách mời là

<i>những người bạn hữu, am hiểu và đam mê loại hình nghệ thuật này. </i>

Nhạc Lễ nói chung ngun là loại thuần khí nhạc, chun dùng trong các buổi Lễ từ trong Cung đình ra đến dân gian. Do nhu cầu xã hội, một bộ phận trong phe Văn đã có những thay đổi biên chế dàn nhạc cho gọn nhẹ, ñặc biệt là ñặt lời ca vào một số bài bản của nhạc Lễ, mang phong cách gần gũi với quần chúng và có tên gọi là nhóm “Đờn cây”. Từ năm 1875 trở đi, các nhóm “Đờn cây” phát triển khắp Nam bộ, chuyển hướng vào phong cách thính phịng và được thay tên là “Đờn ca Tài tử”.

Như vậy có thể khẳng định rằng nhạc Tài tử Nam bộ được hình thành dựa trên nền âm nhạc thính phịng Huế, Quảng và tổ chức dàn nhạc của dàn nhạc Lễ Nam bộ.

Chúng ta có thể chia q trình hình thành và phát triển nhạc Tài tử Nam bộ thành hai giai đoạn:

<small> </small>

<i><small>Tơ Kiều Ngân (1980), “Ca Kịch Huế – Một môn nghệ thuật ñang tàn rụi”, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>- Giai đoạn I: được tính từ khoảng ba thập niên cuối của thế kỷ XIX ñến </i>

năm 1911, là giai đoạn hình thành được cơng nhận với tên gọi “Đờn ca Tài tử”.

<i>- Giai ñoạn II: từ năm 1911 trở ñi là giai ñoạn phát triển mạnh mẽ của </i>

nhạc Tài tử Nam bộ. Từ năm 1956 ñến nay, nhạc Tài tử ñược giảng dạy trong các trường chuyờn nghip, các Hc Vin, Nhạc Viện trên phạm vi toµn quèc.

<b>1.2 Nhạc mục của nhạc Tài tử Nam bộ </b>

<i><b>1.2.1 Những bài bản phổ biến </b></i>

Có thể nói cho đến nay, nhạc Tài tử Nam bộ là loại hình nghệ thuật được ghi chép đầy ñủ nhất. Âm nhạc Tài tử tuy chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn, nhưng nó vẫn có những đặc ñiểm riêng biệt và vô cùng phong phú.

<i><b>1.2.2 Hệ thống bài bản của nhạc Tài tử Nam bộ </b></i>

Hệ thống bài bản nhạc Tài tử Nam bộ là tập hợp danh mục các bản nhạc tiêu biểu mà giới Tài tử công nhận.

<b>a. Hệ thống 10 bộ: </b>

Theo Huỳnh Thúc Kháng, nhạc Tài tử ñược giới thiệu theo hệ thống:

<i>- Nhất Lý: các bài bản có nguồn gốc từ các điệu Lý, từ trong dân ca. - Nhì Ngâm: bắt nguồn từ các lối ngâm vịnh, đọc, nói thơ,… </i>

<i>- Tam Nam: Nam Xn, Nam Ai và Nam Đảo (Đảo Ngũ Cung). </i>

<i>- Tứ Oán: Tứ Đại Oán, Phụng Hoàng Lai Nghi, Phụng Cầu Hoàng Duyên và </i>

Giang Nam Cửu Khúc.

<i>- Ngũ Điếm: Hồ Lang, Vạn Liên, Song Phi Hồ Điệp, Kim Tiền Bảng và Ngự Giá. </i>

Bên cạnh đó cịn có một số bài bản nhỏ mang hơi Quảng.

<i>- Lục Xuất Lưu Thủy, Phú Lục, Bình Bán, Xn Tình, Tây Thi và Cổ Bản. </i>

<i>- Thất Chính: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long Ngâm, </i>

Vạn Giá và Tiểu Khúc.

<i>- Bát Ngự: Bắc Man Tấn Cống, Đường Thái Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân, Ái Tử </i>

Kê, Tương Tư Ngự, Duyên Kỳ Ngộ và Quả Phụ Hàm Oan.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>- Cửu Nhĩ: Hội Nguyên Tiêu và Bát Bản Chấn. </i>

<i>- Thập Thủ Liên Hườn: Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quảng, Liên Hồn, Bình </i>

Bán, Tây Mai, Kim Tiền, Xn Phong, Long Hổ và Tẩu Mã.

<b>b. Hệ thống 72 bản công phu: </b>

<i>- 36 bản Bắc: gồm 6 bản Trường, 6 bản Đoản, 6 bản Tẩu Mã, là 18 bản, ñược gọi </i>

là bản Vĩ. Từ 18 bản này ñã nhân thành 18 bản Thủ, cộng là 36 bản, cùng 7 bản Lễ, 3 bản Nam, 6 bản Oán (gồm bốn bản Oán cộng thêm Bình Sa Lạc Nhạn và Thanh Dạ Đề Quyên), 8 bản Ngự, 2 bản Cửu Nhĩ, 10 bản Tàu và Bát bản (rút từng ñoạn trong Thập Thủ nhưng mở ra nhịp tám).

<b>c. Hệ thống “Hai Mươi bản Tổ”: </b>

Giới chơi nhạc Tài tử xem 20 bản Tổ là những bài bản cốt lõi, kinh ñiển, chứa ñựng ñầy ñủ những tinh hoa của nền âm nhạc Tài tử. Các bài bản trong 20

<i>bản Tổ gồm: 3 bản Nam, 4 bản Oán, 6 bản Bắc và 7 bản Lễ. </i>

<b>1.3 Những hình thức diễn tấu Nhạc Tài tử Nam bộ </b>

<i><b>1.3.1 Những hình thức hịa tấu nhạc Tài tử Nam bộ </b></i>

Các hình thức hịa tấu chúng ta thường gặp gồm:

<i>- Độc tấu: nhạc giới cịn gọi là đàn “độc chiếc” (khơng thơng dụng). - Song tấu: Kìm – Tranh, Kìm – Cị, Tranh - Cị, Sáo – Bầu,… </i>

<i>- Tam tấu: Tranh – Cị – Kìm, Tranh – Sáo – Kìm, Bầu – Kìm – Cị,… </i>

<i>- Tứ tuyệt (bốn nhạc cụ), Ngũ tuyệt (năm nhạc cụ), hoặc sáu nhạc cụ, hiếm khi </i>

thấy hịa tấu bảy nhạc cụ và cũng khơng thấy nhiều hơn.

<i><b>1.3.2 Hình thức hịa ca nhạc Tài tử Nam bộ </b></i>

Phần ca trong nhạc Tài tử Nam bộ ñược xem như một bè hòa tấu. Người chơi ñàn phải biết “lúc nâng tiếng hát, lúc trổ ngón ñàn” và là một tiêu chí trong việc ñánh giá khả năng chơi nhạc Tài tử của các nhóm nhạc. Trước đây, đơn ca là hình thức chủ ñạo trong ñờn ca Tài tử, ngày nay, ta còn thấy hình thức song ca, thường là song ca Nam Nữ. Nội dung các bài ca cũng phong phú hơn nhiều, bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

cạnh các ñề tài tích, truyện thì các đề tài xã hội đương ñại ñã ñược giới nhạc Tài tử mạnh dạn ñưa vào ñể phục vụ rộng rãi cho nhiều ñối tượng.

<b>1.4. Đôi nét về sự khác biệt trong nghệ thuật diễn tấu giữa nhạc Tài tử với Cải lương Nam bộ </b>

Tuy nhạc Cải lương dựa trên nền tảng là nhạc Tài tử nhưng chúng cũng có những ñiểm khác nhau.

<b>a. Môi trường diễn xướng: </b>

Tài Tử là loại âm nhạc thính phịng, dành cho một số ít người nghe. Địa ñiểm biểu diễn có thể trong nhà, sân vườn. Thời gian cho một buổi hịa đàn có thể kéo dài cả ngày. Cải lương là loại âm nhạc cho sân khấu, phục vụ cho đơng đảo khán giả. Thời gian biểu diễn thường khoảng từ hai tiếng rưỡi ñến ba tiếng.

<b>b. Hình thức diễn xướng </b>

<i>- Về nhạc: dàn nhạc Tài tử sử dụng hầu hết các nhạc khí dân tộc cổ truyền </i>

và đàn Kìm thường giữ vai trị chính. Dàn nhạc Cải lương thường sử dụng nhạc cụ có âm lượng to như Tranh, Kìm, Cị, Guitar phím lõm,…, giữ vai trị chính thường là đàn Kìm hoặc Guitar phím lõm. Nếu Tài tử có từ độc tấu đến hịa tấu năm, sáu nhạc cụ thì Cải lương tối thiểu là hai và thường không quá bốn nhạc cụ.

<i>- Về ca: Trước ñây, ñơn ca là hình thức duy nhất trong Tài tử thì ngày nay, </i>

người ta ñã tổ chức thêm hình thức song ca, lối hát ñối ñáp ñược hình thành.

<i>Song ca là hình thức mới ñối với Tài tử nhưng là bình thường trong Cải lương. - Về chức năng: Dàn nhạc và ca sĩ trong Tài tử là bình đẳng nhưng trong Cải lương, trung tâm của nghệ thuật là ca và diễn xuất. </i>

<b>c. Phong cách diễn xướng </b>

<i>- Về thang âm, ñiệu thức, hơi: Thang âm – Điệu thức – Hơi của Cải lương </i>

không khác so với Tài tử. Khác chăng là nhạc Tài tử khơng có chuyển hơi trong cùng một Lớp cịn Cải lương thì có thể chuyển một cách tự do từ hơi Bắc sang

<i>hơi Nam hay ngược lại và có thể chuyển đổi nhiều lần trong cùng một Lớp. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>- Về tốc ñộ: Tài tử giữ ñúng tốc ñộ của bài bản nhưng Cải lương có thể </i>

thay đổi và thường có khuynh hướng nhanh hơn.

<i>- Về ca: người ca Tài tử ngồi việc chăm chút giọng ca cịn phải sáng tạo. </i>

Lời ca khơng bị cưỡng âm, ít từ và khơng được “Nói”. Ngược lại, người ca Cải lương khơng thể thêm thắt và “Nói” hay đối thoại là ñiều bình thường của nghệ

<i>thuật sân khấu. </i>

<i>- Về bài bản: Khi ñờn ca Tài tử, các nghệ sĩ sẽ trình tấu cả bản trong khi </i>

Cải lương có thể chỉ cần ñàn hoặc hát dăm ba câu mà thôi.

<b>Tiểu kết chương 1 </b>

Nhạc Tài tử Nam bộ được hình thành trong lịng của q trình hình thành văn hóa Nam bộ. Kế thừa từ nền âm nhạc thính phịng Huế, Quảng và tổ chức của dàn nhạc Lễ, nhạc Tài tử Nam bộ ñã trở thành một ñặc trưng mang tính địa phương cho văn hóa Nam bộ.

Từ những năm 50 của thế kỷ XX, giới nhạc Tài tử ñã ñúc kết những cốt lõi, tinh hoa của âm nhạc Tài tử trong “20 bản Tổ”, lấy đó làm chuẩn mực về số lượng bài bản, về phong cách,... mà người chơi nhạc Tài tử phải đạt được.

Hình thức biểu diễn của Nhạc Tài tử Nam bộ rất phong phú và sinh ñộng. Hòa tấu Tài tử Nam bộ là sự phối hợp nhiều âm sắc và khơng theo kiểu phối khí hay hịa âm nào. Có thể độc tấu, song tấu, tam tấu,… nhưng giới hạn là sáu, bảy nhạc cụ. Phần ca trong nhạc Tài tử cũng ñược xem như một bè hịa tấu.

Tính kế thừa và phát triển là hai mặt luôn tồn tại và song song trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật cũng như trong âm nhạc cổ truyền. Âm nhạc Cải lương dựa trên nền tảng nhạc Tài tử để hình thành, tuy có những điểm khác nhau nhưng chúng sẽ bổ sung cho nhau ñể cùng thăng hoa và cùng phát triển như bản thân chúng ñã từng phát triển vậy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>Chương II </b>

<b>CẤU TRÚC BÀI BẢN NHẠC TÀI TỬ NAM BỘ </b>

<b>2.1. Một số vần ñề trong cấu trúc bài bản nhạc Tài tử Nam bộ </b>

Cấu trúc một tác phẩm âm nhạc nói chung thường ñược hiểu là sự cấu thành dựa trên những yếu tố giai ñiệu, tiết tấu, thang âm, câu, đoạn…

Như đã trình bày, tuy có phần ca hát nhưng bản chất của nhạc Tài tử vẫn là khí nhạc cũng như tuy thiếu sự nhất quán của hệ thống, của tên gọi trong các bài bản như khi gọi là Trường, khi gọi là Chấn,… nhưng tất cả đều có cấu trúc tổng thể giống nhau, nghĩa là ñều ñược phân Lớp, Câu,… một cách rõ ràng.

<b>a. Lớp: là sự phân chia thành nhiều phần của một bản nhạc. Âm kết của </b>

Lớp không bắt buộc phải về chủ âm mà là bất kỳ âm nào trong thang âm, ñiệu thức của bản nhạc. Số lượng Lớp trong mỗi bản nhạc có khác nhau, ít nhất là 3 lớp, nhiều nhất 10 lớp. Có nhiều cách đặt tên lớp: ñặt theo số thứ tự như Lớp I, Lớp II,… Đặt theo số thứ tự kèm theo tên ngũ cung dân tộc như Lớp II (Lớp Hò), Lớp III (lớp Xề),… Đặt theo tên riêng như Lớp Thủ, Lớp Xang Vắn,…

Mỗi Lớp bao gồm nhiều câu nhạc và các Lớp trong cùng bản nhạc có thể giống nhau nguyên xi hoặc một phần.

<b>b. Câu: là ñơn vị chia ñều của một Lớp trong bài bản nhạc. Câu nhạc trong </b>

Tài tử rất cân ñối, khúc chiết, biểu hiện qua số nhịp trong mỗi câu. Thường có hai loại: câu nhịp tư và câu nhịp tám. Trong hai mươi bản Tổ, ña số các bài bản ñều ñược viết theo câu nhịp tư, bản Xàng Xê và các bản trong bộ Tứ Oán ñược viết ở câu nhịp tám. Để xác ñịnh loại Câu trong nhạc Tài tử, người ta dựa vào cách gõ Song Loan.

<b>c. Lái: là đơn vị chia đơi của một nhịp. Hiểu theo nhạc giới Tài tử, Lái là </b>

nhịp nhỏ. Mỗi Lái tương ñương với 2 phách (nhịp 4/4). Trong các bài bản ñược ghi theo lối cổ truyền, người ta ký hiệu Lái bằng dấu trừ (-), nếu là bài ca thì dấu

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

trừ được ñặt phía dưới chữ rơi vào nhịp nhỏ, ký hiệu bằng dấu cộng (+) hoặc hai dấu trừ (- -) khi chữ đàn hay lời ca ở nhịp chính.

<b>d. Mơ: là đoạn nghỉ. Thơng thường Mơ kéo dài khoảng 1,5 nhịp 4/4, đơi </b>

khi đến 3,5 nhịp 4/4. Cũng có thể hiểu khi ngưng đàn hay hát từ ba Lái trở lên được gọi là Mơ.

<b>e. Chầu: là ñoạn nhạc thêm ở một số chỗ kết câu. Về cấu trúc, có thể hiểu </b>

câu Chầu là câu bổ sung của câu nhạc trước đó hay như một kiểu mở rộng giai

<i><b>ñiệu của câu nhạc. Chầu phải có tối thiểu là ba Lái. </b></i>

<b>f. Rao: Trước khi hòa tấu hoặc ñệm cho ca, nhạc cơng sẽ diễn tấu một </b>

đoạn nhạc mang tính tự do, ngẫu hứng, giới Tài tử gọi là “Rao”. Cấu trúc của Rao là một đoạn nhạc có tính phát triển liên tục, ña dạng và phải dựa trên thang

<b>âm, ñiệu thức, hơi của bài bản. </b>

<b>g. Sắc thái, nhịp ñộ: Tất cả các bài bản nhạc Tài tử đều khơng ghi chú hay </b>

quy định sắc thái, nhịp ñộ,… Theo Giáo sư Trần Văn Khê, nhạc Tài tử Nam bộ chỉ có các nhịp ñộ: Cấp ñiệu = Tẩu mã = Presto; Bình điệu = Đoản, Vắn = Allegro, Allegretto, đơi khi là Moderato; Hỗn điệu = Trường = Lento”; Giữa Hỗn điệu và Bình điệu là nhịp Lơi, tức đàn chậm lại, tương ñương Andante.

<b>2.2 Cấu trúc bài bản nhạc Tài tử Nam bộ: </b>

<i><b>2.2.1 Những vấn ñề về cấu trúc của sáu bản Bắc </b></i>

Chơi nhạc Tài tử bao giờ cũng mở ñầu bằng ñiệu Bắc. Mỗi bản trong bộ Sáu Bắc lấy một chữ nhạc trong hệ thống ngũ cung Hị, Xư, Xang, Xê, Cơng làm chữ khởi ñầu: Lưu Thủy Trường (Hò), Phú Lục Chấn (Xư), Bình Bán Chấn (Xang), Cổ Bản Vắn (Xê), Xn Tình Chấn (Cơng) và Tây Thi Vắn (Liu), lấy âm Xang và Liu làm âm trục. Bằng cách phân tích số lớp, số câu, nhịp, lái, chữ vào ñầu và kết của từng lớp, khi chầu, mô,… chúng tôi rút ra kết luận cho từng bản nhạc và sau đó là bộ như sau:

- Về thang âm: Hò – Xư – Xang – Xê – Công. Âm ngoại: Phan.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Về Tính chất: Vui tươi, trong sáng

- Về lớp: ña số ñều chia bản nhạc thành 4 lớp, riêng bản Tây Thi có 3 lớp và bản Cổ Bản có 5 lớp.

- Về Câu: vào ñầu các bản nhạc, các Lớp thường bắt ñầu từ nhịp thứ 3 của câu nhạc (mỗi câu 4 nhịp) có lấy đà, trừ một vài Lớp vào từ nhịp 2. Chữ Kết các Lớp thường là âm bậc I và bậc V. Kết bản nhạc hay kết lớp hầu hết ñều ở phách 1 (nhịp nội Song Loan).

- Về Chầu, Mơ: các bản nhạc vào đầu đều nghỉ 3 lái. Nếu các Lớp được trình tấu liên hồn thì 3 lái đó sẽ được chuyển thành Chầu 2 lái, nghỉ 1 lái. Hầu hết các bài bản đều có Chầu hay Mơ ở giữa bản, trừ Cổ Bản Vắn và Tây Thi Vắn.

- Về nhịp: các bài ít sử dụng nhịp ngoại và nhịp ngoại Song Loan.

- Về tên bản nhạc: sáu bản Bắc hầu hết ñều từ những bản “Gốc” cùng tên phát triển ra và có chữ Vắn hay Đoản đi theo tên bản nhạc, khi chuyển thành bản “Ngọn” sẽ ñược thay bằng Trường hay Chấn. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất: Tây Thi Vắn chứ khơng phải Tây Thi Trường.

Mặt khác, việc phát triển từ bản “Gốc” thành bản “Ngọn” không tuân thủ theo cách phát triển bài bản thơng thường, cách nhân đơi nhịp và số câu phải được giữ ngun. Theo chúng tơi, cần giữ đúng ngun tắc để chúng ta có thể so sánh, nhận ñịnh và rút ra ñược những nguyên tắc phát triển bài bản trong nhạc Tài tử, từ đó có thể làm phong phú thêm số lượng bài bản sau này.

<i><b>2.2.2 Những vấn ñề về cấu trúc của bảy bản Lễ </b></i>

Bảy bản Lễ cịn có nhiều cách gọi khác như: Bảy bản Cò, Bảy bản dây nhạc, Bảy bản Bắc Lớn, Bảy bản Hạ.

- Về thang âm: Hò – Xư – Xang – Xê – Cơng. Âm ngoại: Phan và I. Có sự chuyển đổi điệu thức tạm thời sang Hị – I – Xang – Xê – Cơng. Ngồi ra, cịn có sự luân chuyển Thang âm – Điệu thức – Hơi: Bản Xàng Xê, lớp Xề, từ Hò – Xư – Xang – Xê – Cơng chuyển sang Hị – I – Xang – Xê – Phan.

</div>

×