Tải bản đầy đủ (.pdf) (271 trang)

Giáo trình Logic học - Trường Đại học Luật Hà Nội. Lê Thanh Thập biên soạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.62 MB, 271 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO TRÌNHLOGIC HỌC

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>55-2016/CXBIPH/107-995/CAND</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

LOGIC HỌC

(Tái bản lần thứ năm có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂNHÀ NỘI- 2016

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>Người biên soạn</small>

TS. LÊ THANH THẬP

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI GIỚI THIỆU

Logic học là khoa học nghiên cứu về các hình thức và quy

luật của tư duy nhằm nhận thức đúng đắn thế giới khách quan.

Mon khoa hoc nay ra đời vào khoảng thế kỉ thứV - IV trước Công

nguyên. Với hơn hai ngàn năm lịch sử, logic học ngày càng khẳng

định được vị trí, vai trị và ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của tu duy nhân loại, qua đó tác động đến sự phát triển của khoa

<small>học và xã hội.</small>

Logic học cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản để hiểu biết về tư duy một cách hệ thống, sâu sắc; biết vận dụng một cách tự giác sự hiểu biết đó để điều chỉnh và rèn luyện kĩ năng tư

duy. Thêm vào đó, kiến thức logic học có tính chất gợi mở cách

tiếp cận, nhận thức vấn đề và xu hướng phát triển tư tưởng. Học tập, nghiên cứu logic học góp phần hình thành các phẩm chất tư duy hệ thống, đúng đắn, chặt chế và chính xác, tránh được những lôi logic. Nhận thức rõ tâm quan trọng của việc học tập, nghiên

cứu logic học, nhiều trường đại học, cao đẳng trong nước và trên

thế giới đã đưa mơn học này vào chương trình giảng dạy; đặc

<small>biệt, trong các trường sư phạm, luật, báo chí, logic học là mơn có</small>

tính chất bắt buộc.

Đáp ứng nhu câu giảng dạy, học tập của giảng viên, sinh viên

nhà trường, Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức biên soạn giáo

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

trình logic. Giáo trình logic học được biên soạn lần này có sự kế thừa, tiép thu các giáo trình đã xuất bản trước đây đồng thời được

cập nhật, bổ sung những tri thức mới cho phù hợp với chuyên ngành đào tạo luật học hiện nay. Tuy người biên soạn đã có nhiều cố gắng nhưng giáo trình cũng khó tránh khỏi những khiếm

khuyết nhất định.

<small>Trường Đại học Luật Hà Nội xin chân thành cám ơn PGS.TS.</small>

Trần Thành - Học viện chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

TS. Nguyễn Nhu Hải - Trường Đại học su phạm I Hà Nội, TS. Nguyễn

Gia Thơ - Viện triết học Viện khoa học xã hội Việt Nam đã đóng góp ý kiến phản biện giáo trình này.

<small>Trường Đại học Luật Hà Nội xin trân trọng giới thiệu và</small>

mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc để giáo trình

<small>logic học ngày càng hồn thiện hơn.</small>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

CHUONG I

ĐỐI TUONG VÀ Ý NGHĨA CUA LOGIC HỌC L THUẬT NGỮ“LOGIC” VÀ “LOGIC HỌC”

<small>1. Thuật ngữ “logic”</small>

Logic trong tiếng Hy Lạp cổ là “logos”, nghĩa là: từ ngữ, ý nghĩ, tư tưởng, trí tuệ hoặc điều đã được nói... Trong tác phẩm của mình, Heraclite (540 - 480 tr. CN) - triết gia Hy Lạp cổ đại đã dùng “logos” để chỉ quy luật vận động của tồn tại. Từ thuật ngữ “logos” xuất hiện thuật ngữ “logike” để chỉ ngành khoa học nghiên cứu về sự suy nghĩ đúng đắn. Sau đó, trong nhiều ngơn

ngữ ở châu Âu đã xuất hiện các từ với những ý nghĩa tương đồng

<small>như “logic” (Anh), “logique” (Pháp), “logika” (Nga)... Thuật ngữ</small>

“logic” trong tiếng Việt được du nhập từ phương Tây mang một số

<small>nghĩa như sau:</small>

Thứ nhất, logic khách quan là logic của thực tại khách quan -logic diễn ra bên ngoài và độc lập với q trình tư duy của con

<small>người. Đó là mối liên hệ tất yếu giữa các sự vật, hiện tượng hoặcmối liên hệ tất yếu giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng của</small>

hiện thực khách quan. Chẳng hạn, quan hệ logic giữa hiện tượng

sóng thần và hiện tượng động đất ngoài đại dương; quan hệ logic giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất...

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Thứ hai, logic chủ quan là logic của sự suy nghĩ - logic của quá trình tư duy. Logic chủ quan được sử dụng trong hai trường

hợp: Mot la dùng để chỉ cách thức tư duy, đó là cách lập luận, cách suy nghĩ của chủ thể nhất định: có thể là cá nhân hoặc tang

lớp, giai cấp, dân tộc hoặc thậm chí, của cả thời đại. Chẳng hạn, <small>khi có người nói: “đó là logic của anh cịn logic cua tơi là...” hoặc</small>

“øiai cấp bóc lột thường lập luận theo logic, đã bỏ tiền ra th thì có quyền sử dụng tối đa sức lao động của người mà họ đã thuê”...

Hai là chỉ quá trình tư duy tuân theo những quy tắc nhất định, chặt chẽ, phản ánh đúng đắn logic khách quan. Vi du, lập luận sau

là lập luận hợp logic: “Nếu quyền con người không được bảo đảm thì xã hội sé khơng có tự do; vì vậy, nếu xã hội có tự do thì quyền con người phải được bảo đảm”...

<small>Thứ ba, logic được dùng với nghĩa logic học như trong trường</small>

hợp V.I. Lênin viết: “Trong logic cũ khơng có chuyển hố, khơng có phát triển (của những khái niệm và của tư duy), không có “liên

hệ bên trong, tất yếu” của tất cả các bộ phận và khơng có “sự

chuyển hod” của cái này thành cái kia’. Logic cũ mà V.I. Lênin đề cập trong trích dẫn trên đây là logic học cổ điển của Aristotle.

<small>2. Thuật ngữ “logic học”</small>

Logic học, theo truyền thống vẫn được hiểu và nghiên cứu như

<small>một nhánh của triết học. Từ giữa thế ki XIX, logic học đã đượcnghiên cứu trong toán học và luật học; đến những năm cuối của</small>

thế kỉ XX logic học được áp dụng vào phát triển trí tuệ nhân tạo là

<small>thứ ngơn ngữ dùng cho máy tính. Mặc dù tầm bao quát và ứng</small>

dụng của logic học ngày càng mở rộng nhưng đối tượng, nhiệm vụ

<small>(1).Xem: VJ. Lénin toàn tập, Tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 106.(bản tiếng Việt).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

của nó, về cơ bản đã được xác định. Theo V.I. Lênin, logic học là

khoa học nghiên cứu về “sự phát triển của tư duy trong tính tất yếu của no”. Tính tất yếu của tư duy là mối liên hệ ban chất, phổ biến

giữa các tư tưởng trong quá trình tư duy làm nền tảng cho các thao

tác logic; bảo đảm tính tất yếu là điều kiện cần để quá trình tư duy phù hợp với khách thể phản ánh. Với cách định nghĩa đó, VI.

Lénin đã chỉ rõ nội dung, nhiệm vụ cơ bản của logic học.

Tư duy là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa

học như: tâm lí học, xã hội học, giáo dục học, điều khiển học, sinh

lí học thần kinh cao cấp v.v. trong đó, mỗi ngành nghiên cứu một

khía cạnh của tư duy. Chẳng hạn, tâm lí học nghiên cứu tư duy như hiện tượng tâm lí; điều khiển học nghiên cứu kết cấu tư duy để mô phỏng theo, tạo ra trí tuệ nhân tạo; sinh lí học thần kinh cao

cấp nghiên cứu cơ chế hoạt động của hệ thần kinh con người với tư cách là nên tảng vật chất của quá trình tư duy... Logic học nghiên cứu về tư duy với tư cách là giai đoạn cao của q trình

<small>nhận thức, theo Ph. Hêghen (1770-1831), đó là quá trình tư duy</small>

“tự phản tư” về mình. Khái qt đối tượng và mục đích nghiên

cứu có thể định nghĩa:

Logic học là môn khoa học nghiên cứu về các hình thức và quy

luật tư duy nhằm nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực khách quan.

II. TUDUY VA TUDUY LOGIC <small>1. Tu duy</small>

Quá trình nhận thức gồm hai giai đoạn: nhận thức cam tính va

<small>nhận thức lí tính. Tư duy là giai đoạn nhận thức lí tính (cịn được</small>

gọi là tư duy trừu tượng), dựa vào những tài liệu thu nhận được ở

<small>(1).Xem: Sdd, tr. 103.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

giai đoạn nhận thức cảm tính, trong đầu óc con người nảy sinh các

hoạt động: phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát

hoá... rút ra những thuộc tính chung, bản chất của đối tượng phan

ánh hình thành nên khái niệm. Sự liên kết giữa các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định vấn đề nào đó của đối tượng nhận thức

<small>là phán đoán. Từ những phán đốn đã có rút ra phán đốn mới làsuy luận. Khái niệm, phán đốn, suy luận là các hình thức tư duy.</small>

Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới.

Tư duy là sự phản ánh, xét về bản chất, đó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Tư duy là phi vật chất nhưng nó

phụ thuộc vào bộ não, cái vật chất chứa đựng nó. Ph. Angghen nói: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc người và bản thân con người”.") Yếu tố sinh học - q trình sinh lí

<small>của bộ não người là yếu tố cơ bản của tư duy nhưng yếu tố xã hội</small>

lại là yếu tố có tính chất quyết định. Như vậy, tư duy là sản phẩm

của xã hội xét cả về nguồn gốc lẫn phương thức hoạt động và kết

quả của nó. Bởi vì, tư duy chỉ tồn tại trong mối liên hệ không thể

<small>tách rời khỏi hoạt động lao động và ngơn ngữ là hoạt động mangtính đặc trưng của con người.</small>

Tư duy phản ánh khái quát hiện thực khách quan là khả năng con người xây dựng được các khái niệm và liên kết các khái niệm, phát hiện ra các quy luật tương ứng của hiện thực. Khi xây dựng

<small>khái niệm, liên kết các khái niệm, khám phá phát hiện quy luật, tư</small>

duy đã trừu tượng đi những dấu hiệu ngẫu nhiên, không bản chất

<small>(1).Xem: C. Mác va Ph. Angghen toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà</small>

<small>Nội, 1994, tr. 55.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>phản ánh những dấu hiệu chung và bản chất của sự vật, hiện tượngcủa hiện thực. Tư duy phản ánh hiện thực khách quan một cách</small>

gián tiếp là sự phản ánh thơng qua giai đoạn nhận thức cảm tính. Thêm vào đó là khả năng duy lí, từ những tri thức đã có ta rút ra những tri thức mới. Đồng thời, tính gián tiếp của tư duy cịn được

thể hiện thơng qua hình thức tồn tại và hiện thực trực tiếp của nó

là hệ thống ngơn ngữ mang tính vật chất. Tính tích cực của tư duy

trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan thể hiện ở chỗ tư

duy vượt lên nhận thức cảm tính, tự nó xây dựng nên hệ thống các tri thức về hiện thực khách quan trong tính tồn vẹn đầy đủ, tiến tới phản ánh bản chất của sự vật. Quá trình tư duy chỉ diễn ra khi

xuất hiện vấn đề và để vấn đề trở thành tình huống có vấn đề của tư duy, địi hỏi chủ thể phải có nhu cầu, mong muốn giải quyết vấn đề đó. Mặt khác, chủ thể cũng phải có tri thức cần thiết có liên quan thì việc giải quyết vấn dé mới có thể diễn ra và quá trình

tư duy mới diễn ra được. Như vậy, nhu cầu và lợi ích là động lực

thúc đẩy tính tích cực của tư duy, thúc đẩy con người nhận thức và

cải tạo hiện thực khách quan.

Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dang tinh thần.

Theo C. Mác, “cái tỉnh thần (được hiểu là tu duy) chẳng qua là

cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong dé”. “Cái vat chất” ở đây là các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan; “được di chuyển” là được phản

ánh vào trong đầu óc con người; “được cải biến” nghĩa là không

<small>phải sự sao chép nguyên xi mà trong quá trình phan ánh đã có sutrừu tượng hố, khái qt hố, hướng vào nhận thức bản chất của</small>

đối tượng. Như vậy, tính sáng tạo của tư duy thể hiện ở chỗ trong

<small>(1).Xem: C. Mác, Tu bản, tap 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 33.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

quá trình phản ánh hiện thực, tư duy đã phân tích, tổng hợp, trừu

tượng hố, khái quát hoá và hệ thống hoá những dấu hiệu của đối

<small>tượng, xây dựng nên các khái niệm; kết hợp các khái niệm thànhphán đoán và từ những tri thức đã có sáng tạo ra tri thức mới; là</small>

khả năng phản ánh vượt trước, dự báo tương lai; là quá trình mơ hình hố và hiện thực hố tư tưởng v.v.. Khi nói đến tính sáng tạo của tư duy cũng phải thừa nhận, năng lực sáng tạo của tư duy ở mỗi người là khơng giống nhau, nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố

như điều kiện lịch sử-xã hội, thể chất, hoàn cảnh giáo dục của mỗi

<small>cá nhân, mơi trường chính trị...2. Tư duy logic</small>

<small>Tư duy logic là tư duy có hệ thống, tất yếu, chặt chế và chính</small>

xác. Tư duy hệ thống là đặc điểm cơ bản của tư duy logic, trong

<small>đó các tư tưởng - yếu tố cấu thành hệ thống, trong quá trình tư duy</small>

tuân theo trình tự nhất định, chúng quan hệ và quy định lẫn nhau

tạo thành kết cấu chặt chẽ, qua đó thấy rõ tính chỉnh thể của tư

tưởng. Tư duy hệ thống cung cấp bức tranh tương đối chính xác về

<small>đối tượng nên vị trí thứ nhất của tư duy hệ thống là quan tâm tới</small>

cái toàn thể. Để khác họa chính xác về cái tồn thể, tư duy hệ

thống tập trung làm rõ mối liên hệ, sự tương tác, quy định lẫn

nhau của các tư tưởng thành phần nằm trong hệ thống theo

khuynh hướng nhất định. Vi du: Khái niệm “nhà nước” là chỉnh

thể theo quan điểm hệ thống, các thuộc tính nội hàm như: “tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế”, “bảo vệ trật tự xã

<small>hội hiện hành”, “đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác” là</small>

những thành tố tạo nên chỉnh thể ấy, chúng quy định, bổ sung lẫn

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

nhau phản ánh chính xác đối tượng."”

Tư duy tất yếu (tư duy đúng đắn) - V.I. Lênin đã sử dụng đặc điểm này của tư duy logic để định nghĩa logic học là mối liên hệ

nội tại, tính quy định lẫn nhau của các tư tưởng; tiến trình vận

động và xu hướng phát triển của tư tưởng phù hợp với hiện thực

khách quan. Trong đó, mối liên hệ bản chất bên trong, tính quy

định của các tư tưởng trong q trình tư duy là tính nổi trội. Nghĩa là trong những điều kiện nhất định để bảo đảm giá trị chân lí của

sự nhận thức thì tư duy nhất định phải diễn ra như thế chứ không

thể khác. Chẳng hạn, nếu ta thừa nhận: “Mọi quốc gia đều có

quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị phù hợp với nguyện vọng

của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ của mình. Việt Nam là

<small>một quốc gia”. Kết luận tất yếu hợp logic phải là: “Việt Nam có</small>

quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị phù hợp với nguyện vọng

của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ của mình”.

Tư duy chặt chẽ là sự liên kết bền vững giữa các tư tưởng - yếu

<small>tố cấu thành quá trình tư duy - bảo đảm tính nhất qn, rõ ràng,</small>

mạch lạc, không mâu thuẫn và dựa trên những cơ sở vững chắc, phù hợp với logic khách quan. Chẳng hạn, trong bài viết, các khái

niệm sử dụng phải nhất quán bảo đảm tính đồng nhất; các tư tưởng cấu thành nội dung của bài không loại trừ, không mâu thuẫn

nhau; để làm rõ vấn đề phải có luận cứ vững chắc, luận chứng chặt

<small>Tư duy chính xác là tư duy có nội dung phù hợp với đối tượng</small>

phản ánh. Đó là tư tưởng phản ánh tương đối đây đủ những phẩm chất cơ bản, xác định của đối tượng, giúp cho mọi người trao đổi

<small>(1).Xem: Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các mơnkhoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác-Lênin,</small>

<small>Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 526.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>thông tin, tiếp nhận thông tin một cách chính xác. Như vậy, tư duychính xác hướng vào khái quát những thuộc tính đặc trưng bản chất</small>

của đối tượng, qua đó giúp cho việc nhận biết đối tượng mà tư duy

phản ánh và phân biệt nó với đối tượng khác. Chẳng hạn, khi làm rõ

nội hàm của khái niệm “pháp luật” phải nêu được tương đối đầy đủ

những dấu hiệu ban chất đặc trưng như: “hệ thong các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo dam thực hiện, thể hiện ý chí của giải

cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã

hoi” để qua đó nhận biết và phân biệt được hiện tượng “pháp luật”

<small>với các hiện tượng xã hội khác. Còn nêu nội hàm của khái niệm, khiến</small>

người khác khơng hình dung ra hoặc hiểu sai đối tượng mà khái

<small>niệm phản ánh là không bảo đảm tính chính xác của tư duy.</small>

Trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, tính hệ thống,

tính tất yếu, tính chặt chế và tính chính xác dần dan được hình

thành và ngày càng phát triển. Khi con người quan tâm nghiên cứu

về những vấn đề đó, khoa học logic ra đời. Mỗi cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn, quan hệ giao tiếp, rèn luyện, học tập, tích luỹ tri thức, trau đồi vốn ngôn ngữ... làm cho tư duy logic ngày càng

phát triển.

3. Ngơn ngữ - hình thức tôn tai và biểu đạt tư duy

<small>Tư duy được vật chất hố dưới dạng ngơn ngữ. Tư duy khơng</small>

thể tồn tại, tạo lập hay phát triển bên ngồi ngơn ngữ. Ngôn ngữ là

đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Mỗi ngơn ngữ có hệ

<small>thống từ vựng và cấu trúc ngữ pháp khác nhau, hình thành do nhu</small>

cầu giao tiếp và sự quy ước lâu đời thành thói quen của mỗi cộng

đồng nhưng có quan hệ chặt chế với tư duy. Sự xuất hiện của tư

<small>(1).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và phápluật, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009, tr. 66.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

duy đồng thời với sự xuất hiện của ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy,

V.I. Lênin nói “lịch sử của tu duy bằng lich sử của ngôn ng).

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu âm thanh, chữ viết hoặc cử chỉ

hành động chứa đựng thông tin về đối tượng phản ánh để làm

<small>phương tiện giao tiếp giữa con người với con người. Ngơn ngữ là</small>

hình thức tồn tại và thể hiện của tư duy. Vì thế, ngơn ngữ mang

<small>tính vật chất, tư duy là phi vật chất. Ngôn ngữ và tư duy tạo thành</small>

thể thống nhất biện chứng, bắt nguồn từ trong q trình nhận thức.

<small>Nhờ ngơn ngữ, con người trừu tượng hố, khái qt hố những</small>

thuộc tính và quan hệ của khách thể nhận thức, có thể suy nghĩ

tách khỏi vật cảm tính. Cũng nhờ ngơn ngữ kinh nghiệm được truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác nên nó là hình thức tồn tại của tư duy.

Ngơn ngữ cũng phản ánh tồn tại khách quan, thông báo về thực tại đó, ghi lại kết quả nhận thức trước đây và hiện nay của xã hội. Nó là hiện thực trực tiếp của tư duy. Nghiên cứu tư duy không

thể tách khỏi cái “vỏ vật chất” là ngôn ngữ.

II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CUA

<small>LOGIC HỌC</small>

1. Đối tượng nghiên cứu của logic học

<small>1.1. Sự khác biệt giữa logic hình thức và logic biện chứng</small>

Với tư cách là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, tư duy

cũng có q trình vận động và phát triển. Trong quá trình ấy, tư

duy bao hàm trong nó sự thống nhất của cả hai trạng thái: trạng

<small>thái tinh và trạng thái động. Vì vậy, khi nghiên cứu tư duy cũng</small>

cần xem xét nó ở cả hai trạng thái.

<small>(1).Xem: V.I. Lénin toàn tap, Tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1987, tr. 97.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>Logic hình thức nghiên cứu tư duy ở trạng thái tinh, đó là tư</small>

duy phản ánh sự vật tồn tại trong những phẩm chất xác định mà

khơng tính tới sự vận động và biến đổi của nó. Chẳng hạn, pháp

luật là hiện tượng xã hội, từ khi ra đời đến nay đã có bốn kiểu và ba hình thức tồn tại nhưng đều có chung dấu hiệu để nhận biết và phân biệt nó với hiện tượng xã hội khác là: hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp

thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.

<small>Logic biện chứng nghiên cứu tư duy ở trạng thái động, đó là tư</small>

duy phản ánh sự vận động, phát triển của đối tượng và sự vận động, phát triển của các khái niệm. Chẳng hạn, nghiên cứu hiện tượng pháp luật, logic biện chứng làm rõ sự vận động và phát triển của kiểu pháp luật cũng như từ kiểu pháp luật này sang kiểu pháp luật khác: chúng có sự kế thừa lẫn nhau; hoặc sự vận động đổi mới nội

dung của khái niệm nào đó trong lĩnh vực pháp luật theo trình độ

nhận thức và nhu cầu địi hỏi của thực tiễn phát triển xã hội.

So sánh đối tượng nghiên cứu của logic hình thức và logic

biện chứng sẽ giúp cho việc hiểu rõ đối tượng của mỗi môn học, nhất là hiểu rõ và sâu sắc hơn đối tượng của logic hình thức:

Một là logic hình thức và logic biện chứng đều nghiên cứu quy luật và hình thức của tư duy nhưng mỗi ngành nghiên cứu

<small>chúng ở những trạng thái khác nhau:</small>

<small>- Logic hình thức nghiên cứu các hình thức tư duy bên ngồi</small>

sự phát triển của chúng (trạng thái tinh), không nghiên cứu nội dung cụ thể phản ánh trong tư duy, không nghiên cứu quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của tư duy mà chỉ nghiên cứu tư duy trong trạng thái vốn sẵn có va chủ yếu là sắp xếp, chỉnh lí

các khái niệm, phán đốn, suy luận... về mặt hình thức.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>- Logic biện chứng nghiên cứu tư duy trong sự thống nhất giữa</small>

nội dung và hình thức, khảo sát tư duy trong quá trình phát triển

(trạng thái động), khái quát về mặt logic quá trình nhận thức của con người đồng thời chỉ ra những nội dung biện chứng của những

<small>hình thức tư duy và quan hệ biện chứng giữa chúng.</small>

Hai là logic hình thức và logic biện chứng đều phản ảnh thế

<small>giới khách quan nhưng ở những cấp độ khác nhau:</small>

- Logic hình thức phản ánh sự đứng im tương đối và ranh giới xác định của các sự vật, hiện tượng. Khi con người nhận thức vự

vật, hiện tượng ở trạng thái ổn định, khơng quan tâm tới sự phát triển của chúng thì mơn logic hình thức với những phạm trù cố

định là cần thiết và có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hố vai trị của logic hình thức sẽ dẫn đến sai lầm.

<small>- Logic biện chứng không chỉ phan ánh sự khác nhau giữa các</small>

sự vật mà còn phản ánh mối liên hệ, tác động qua lại giữa chúng; không chỉ phan ánh sự đứng im tương đối mà còn phan ánh quá

trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.

Ba là logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau: - Những quy luật và quy tắc của logic hình thức yêu cầu bắt buộc đối với tư duy trong mọi lĩnh vực và ở mọi trình độ, kể cả tư duy biện chứng đều phải tuân theo, nó là điều kiện cần để nhận thức hiện thực. Chang hạn, nếu vi phạm quy luật logic hình thức sẽ dẫn đến mâu thuẫn logic, khơng thể phân tích, làm rõ được mâu

thuẫn khách quan của các sự vật, hiện tượng.

- Để nhận thức đúng đắn quá trình phát triển của các sự vật,

<small>hiện tượng thì các phạm trù của logic hình thức chưa đủ mà phải vậndụng những quy luật của logic biện chứng một cách tự giác.</small>

1.2. Đối tượng của logic hình thức

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Logic hình thức là mơn khoa học nghiên cứu về các hình thức

và quy luật tư duy (phản ánh trạng thái tương đối ổn định của các sự vật, hiện tượng); đồng thời nghiên cứu thao tác, quy tắc logic, qua đó, khẳng định tinh đúng đắn của tư duy là điều kiện cần để

<small>đạt tới chân lí trong quá trình phản ánh hiện thực.1.2.1. Hình thức tu duy</small>

Tư duy bao giờ cũng có nội dung xác định. Nội dung của tư

<small>duy do hiện thực khách quan quy định. Đó là những thuộc tính,</small>

những mối liên hệ của những đối tượng cụ thể của hiện thực

khách quan được phản ánh vào đầu óc con người. Nội dung của tư

duy theo C. Mác: “la cái vật chất được di chuyển vào trong đầu

6c con người và được cải biến ở trong đó”, theo V.I. Lénin: “là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Hình ảnh của “cái vật chất” ở “trong đầu óc con người” là nội dung tư duy cũng luôn

vận động và biến đổi theo sự vận động và biến đổi của “cái vật chất”. Nội dung tư duy được thể hiện bằng một kết cấu bên trong tương đối ổn định. D6 là hình thức tư duy - đối tượng nghiên cứu

<small>của logic học hình thức.</small>

<small>Hình thức tư duy là phương thức liên kết các bộ phận cấu</small>

thành của nội dung tư tưởng tạo nên ý nghĩ tương đối hoàn chỉnh

về đối tượng, qua đó có thể đánh giá được tính chân thực hay giả

<small>dối của tư tưởng. Có các hình thức tư duy như khái niệm, phánđoán, suy luận...</small>

1.2.2. Về quy luật tu duy

Phân theo lĩnh vực tác động của quy luật có: quy luật tự nhiên,

<small>quy luật xã hội và quy luật tư duy. Quy luật tự nhiên là mối liên</small>

hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các hiện tượng và các quá trình tự nhiên; quy luật xã hội là mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>của các hiện tượng và các quá trình xã hội. Những quy luật đó,</small>

khơng thuộc đối tượng nghiên cứu của logic học. Logic học chỉ

<small>nghiên cứu quy luật tư duy.</small>

Quy luật tư duy là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ

biến giữa các tư tưởng tạo thành kết cấu bên trong của quá trình tư

<small>duy, kết cấu này đã hình thành trong lịch sử, thích ứng với những</small>

mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Trên cơ sở những quy luật của phép biện chứng, logic biện

chứng làm rõ những đặc điểm, những nguyên tắc của các quy luật phổ biến tác động trong tư duy và ý nghĩa của chúng đối với sự

vận động của tư duy đi đến chân lí. Logic hình thức nghiên cứu những quy luật phản ánh những quan hệ giữa các đối tượng đã được định hình trong tư duy như quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba và quy luật lí do đầy đủ.

1.2.3. Thao tác và quy tắc logic

Thao tác logic là những phương thức tiến hành để tạo lập, xây dựng hoặc làm thay đổi kết cấu logic của các hình thức tư duy nhằm chỉ ra cách xác định đối tượng phản ánh hoặc thay đổi cách

tiếp cận khác nhau về vấn đề nghiên cứu. Chẳng hạn, thao tác định

nghĩa khái niệm, phân chia khái niệm, biến đổi phán đoán Quy tắc logic là sự khái quát ngắn gọn các thao tác cần thiết, nêu lên những điều phải làm theo trong những điều kiện nhất định, để bảo đảm tính đúng đắn, chuẩn xác của các thao tác logic. Chang hạn, quy tac định nghĩa, quy tắc phân chia khái niệm hoặc quy tắc của luận ba đoạn.

Như vậy, từ lí luận về các hình thức, quy luật tư duy đến việc

vận dụng lí luận đó để hình thành những thao tác logic đúng đắn, chính xác trong q trình nhận thức nhằm đạt tới chân lí là phạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>vi và nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản của logic học hình thức.</small>

2. Phương pháp nghiên cứu của logic học

Nghiên cứu kết cấu logic của tư duy là nghiên cứu mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành tư tưởng hoặc mối liên hệ giữa các tư

tưởng, qua đó làm rõ mối liên hệ tất yếu của chúng. Để làm rõ kết

cấu logic, ta sử dụng các phương pháp như: phân tích, so sánh,

tổng hợp, trừu tượng hố, khái qt hố, mơ hình hố...

Phân tích là thao tác tư duy phân chia chỉnh thể phức tạp thành

các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành vốn có của nó.

<small>Phân tích trong logic học là phân tích mối quan hệ giữa các tư</small>

tưởng trong quá trình tư duy. Đó là chỉ ra các bộ phận, các yếu tố

cấu thành và các kiểu liên kết đúng của các tư tưởng trong chỉnh thể thống nhất.

Khi phân tích phải dùng các kí hiệu chữ viết, biểu đồ, biểu thức để mô tả các thành phần, các yếu tố, các bộ phận cấu thành và các mối liên hệ, các kiểu liên kết, sau đó khái qt hố thành

<small>những cơng thức. Từ công thức chung, vận dụng vào thực tế chophép ta nghiên cứu những trường hợp tương tự. Việc kí hiệu hố,</small>

cơng thức hố q trình tư tưởng phức tạp, làm rõ kết cấu của nó

<small>gọi là phương pháp hình thức hố.</small>

<small>Như vậy, nghiên cứu kết cấu logic của tư tưởng hoặc những</small>

mối liên hệ giữa các tư tưởng, phải đồng thời sử dụng cả phương

pháp phân tích và hình thức hố nên có thể gọi đó là phương pháp

<small>kép: phương pháp phân tích và hình thức hố. Day là phương pháp</small>

đặc trưng của logic học hình thức.

Ngồi phương pháp trên, chúng ta còn sử dụng các phương

<small>pháp khác như: phương pháp so sánh, phương pháp trừu tượng</small>

hoá, khái qt hố, hệ thống-cấu trúc v.v.. Thậm chí sử dụng cả

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

những phương pháp của bản thân logic học như diễn dịch, quy

<small>nạp, tương tự...</small>

IV. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA LOGIC HỌC

1. Khái lược về lịch sử phát triển của logic học

<small>Cùng với lao động, ngôn ngữ và quan hệ xã hội, tư duy được</small>

hình thành, phát triển đạt đến trình độ nhất định, con người lấy

chính bản thân tư duy làm đối tượng nghiên cứu, khi đó, khoa học

<small>logic ra đời.</small>

Thời Cổ-Trung đại, tư tưởng triết học ở phương Đông rất phát

triển như triết học Trung Quốc, Ấn Độ... trong đó, một số học

thuyết đã dé cập vấn dé của logic học như giáo phái Nyaya

Vaisesika (Ấn D6) có “Nhân minh học” hay một số nhà triết học

Trung Quốc đề cập nội dung và hình thức biểu đạt khái niệm là

<small>“thực” và “danh”... nhưng chưa có tác giả nào xây dựng một cách</small>

có hệ thống các phạm trù, quy luật của logic học. Điều đó, vào thế ki V - IV trước Cơng nguyên ở phương Tây, người Hy Lap đã làm. Người có cơng đầu trong việc xây dựng mơn logic học là Aristotle

(384 - 322 tr. CN) - nhà triết học Hy Lạp thời kì cổ đại.

Aristotle là học trị xuất sắc của Platon, mặc dù rất yêu quý và

<small>kính trọng thầy giáo của mình nhưng ơng vẫn phê phán và bác bỏ</small>

nhiều luận điểm và học thuyết của Platon. Là nhà bách khoa toàn thư, Aristotle đã để lại cho nhân loại nhiều cơng trình khoa học có

giá trị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có logic học. Tác

phẩm logic học của Aristotle lần đầu tiên được Anđrônik Rôđôski (nhà triết học theo trường phái ““Tiêu dao” La Mã cổ đại) cho xuất

bản vào thế kỉ thứ I trước Công nguyên, dưới tên gọi "Organon".

<small>Organon nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là “cơng cụ”. Với tên gọi đó,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Anđrônik Rôđôski muốn thể hiện rõ quan điểm của Aristotle cho rằng logic học là học thuyết về công cụ nghiên cứu khoa học.

<small>nN .é€</small>

Trong bối cảnh như vậy, có thể hiểu “organon” là “cơng cụ của

<small>nhận thức”, “công cụ của tư duy”. Organon được tập hợp từ 5 tác</small>

phẩm của Aristotle là "Các phạm trù", "Phân tích", "Về sự giải

thích”, “Nghệ thuật tranh biện” và "Bác bỏ phái ngụy biện". Logic học của Aristotle dựa trên cơ sở phân biệt giữa chân lí và sai lầm. Theo ông, chân lí là sự phù hợp của tư tưởng với hiện thực, cịn sai lầm là sự khơng phù hợp của tư tưởng với hiện thực. Đúng như V.I. Lênin đã nhận xét về vấn đề này cua Aristotle trong But kí triết học: - Lí tinh (li trí), tư tưởng, ý thức mà khơng có tự

nhiên, khơng phù hợp với nó là sai lâm. = chủ nghĩa duy vat.

Logic học của Aristotle gồm hai phan: logic lí thuyết và logic

<small>thực hành. Trong logic lí thuyết, Aristotle đã nêu các phương pháp</small>

cơ bản của việc xây dựng lí thuyết về khái niệm, phạm trù, phán

<small>đốn, suy luận.</small>

Trong lí thuyết về khái niệm, phạm trù ông coi khái niệm là cái chung. Khái niệm được chia làm nhiều cấp độ. Từ khái niệm

<small>chung, ơng đã tiến lên trình độ khái quát logic cao hơn là phạm</small>

trù. Ông tiến hành phân loại các phạm trù và nêu ra 10 phạm trù

cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau... Trong lí thuyết về phán

đốn ơng cho rằng để nhận thức thực tại ngày càng sâu, rộng hơn

<small>con người phải sử dụng phán đoán. Phán đoán là sự kết hợp giữa</small>

các khái niệm, các phạm trù theo những nguyên tắc và trật tự nhất

định để khẳng định hoặc phủ định về cái gì đó. Ơng chia phán

<small>đốn thành ba loại, loại được phân theo chất, loại được phân theo</small>

<small>(1). Xem: VJ. Lénin toàn tập, Tap 29, Nxb. Tiến bộ Matxcơva, 1981, tr. 306(tiếng Việt).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

lượng và loại phân theo tình thái... Về suy luận, ơng coi suy luận

<small>là phán đoán mới được rút ra trên cơ sở những mối liên hệ của</small>

những phán đốn tiền đề. Ơng xây dựng những quy tắc về luận ba đoạn để tìm ra kết luận tất yếu đúng... Ông cố gắng giải quyết

<small>mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng nhưng ông đã khơng giải</small>

quyết được vấn đề chuyển hố từ cái riêng thành cái chung.

Một trong những đóng góp to lớn của Aristotle về logic học là việc ông nêu ra ba quy luật cơ bản của tư duy: quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn và quy luật loại trừ cái thứ ba.

Phần logic thực hành, Aristotle đã nghiên cứu về thuật tranh biện; bác bỏ phái nguy biện.

Như vậy, với việc đưa ra hệ thống lí luận nghiên cứu về khái

<small>niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và các quy luật cơ bản của tư</small>

duy, tuy chưa hồn chỉnh nhưng ơng đã đặt nền tảng cho việc hình

<small>thành mơn logic học, đem lại cho nhân loại mơn khoa học rất lí</small>

thú. Đồng thời, Aristotle khơng chỉ quan tâm tới logic hình thức mà cịn quan tâm cả tới logic biện chứng. Đó là xem xét vấn đề thống nhất và mâu thuẫn giữa logic chủ quan và logic khách quan. Hơn thế nữa, ông muốn hiện thực hố tư tưởng của mình là đưa lí

<small>thuyết logic vào cuộc sống nên đã quan tâm đến việc xây dựnglogic thực hành. Aristotle xứng đáng được coi là "cha đẻ của logic</small>

hoc" như Ph. Héghen - nhà triết học vĩ đại người Đức cuối thé ki

XVIII đầu thế ki XIX đã khẳng định.

Đến thời kì Trung cổ do ảnh hưởng của triết học kinh viện, logic học của Aristotle không có điều kiện để phát triển và hồn

<small>thiện. Mãi đến thời kì Phục hưng, logic học mới được tiếp tục</small>

phục hồi và phát triển.

Sang thời kì Cận đại, do nhu cầu phát triển của khoa học thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

nghiệm và sự phát triển của kĩ thuật phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế của giai cấp tư sản đang lên, khoa học về phương pháp tư duy ngày càng được chú trọng. Sự phát triển của logic học trong thời kì này gắn liên với sự phát triển của khoa học tự nhiên

và tri thức của các khoa học khác như triết học, toán học... Những

tác giả có đóng góp cho sự phát triển của logic học trước hết phải kể đến các nhà triết học lớn như F. Bacon, R. Descartes, G.V.

<small>Leibniz, LM. Kant, Ph. Héghen...</small>

<small>Francis Bacon (1561 - 1626) nhà triết học duy vật người Anh.</small>

Tác phẩm chủ yếu đề cập logic hoc của F. Bacon là "Neo organon"

(công cụ mới). Theo ông, logic học dạy lí trí và hướng dẫn lí trí đi đến chỗ phải thật sự phân tích giới tự nhiên, tìm ra những đặc tính

và những tác dụng của các vật thể cũng như những quy luật của các vật thể xác định trong vật chất... Do đó, khoa học logic khơng

<small>những chỉ xuất phát từ bản chất của trí tuệ mà cịn xuất phát từ</small>

bản chất của chính các sự vật... F. Bacon coi phương pháp thực

<small>nghiệm là công cu chủ yếu của khoa học. Theo ông, cần "tra khảo</small>

tự nhiên" bằng những công cụ tỉnh xảo và sự giải thích chân chính về giới tự nhiên là ở những thí nghiệm được tổ chức một cách tỉ mỉ, đúng đắn. F. Bacon cho rằng cơ sở của phương pháp khoa học

<small>là quy nạp. Quy nạp xuất phát từ việc tri giác những sự vật riêng</small>

rẽ, sau đó, nó tiến dần lên và đi đến tận những nguyên lí chung nhất; cần tránh quy nạp một cách hấp tấp và thô sơ, nhất là thông

qua "sự liệt kê một cách giản đơn". Ông đã đưa ra một số phương

<small>pháp quy nạp khoa học như: Phương pháp đi tìm sự giống nhau;</small>

phương pháp đi tìm sự vắng mặt trong cái gần nhất; phương pháp dựa trên sự biến đổi tương ứng.

Trong "Neo organon", F. Bacon khơng những nói đến quy nạp

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

mà cịn nói đến diễn dịch. Đó là khi ơng coi "rút ra hay lấy ra

<small>những kinh nghiệm mới từ định lí”. Tuy nhiên, F. Bacon chưa thấyđược sự thống nhất của phương pháp quy nạp và phương pháp</small>

diễn dịch.

Phương pháp quy nạp của F. Bacon còn nhiều điểm chưa

<small>nghiên cứu thấu đáo nhưng khi ấy, đã có tác dụng lớn trong sự</small>

phát triển của tri thức thực nghiệm, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, góp phần phát triển và hồn thiện thêm một

<small>bước môn logic học.</small>

<small>René Descartes (1596 - 1650) - nhà triết học người Pháp đại</small>

biểu của trường phái duy lí. Tác phẩm chủ yếu đề cập những vấn

đề của logic học: "Luận về phương pháp"; “Ngun lí triết học”.

Ơng cho rằng lí trí của con người chỉ được coi là chân lí những cái

gi mà nó thấy rõ ràng và rành mạch, những cái gì khơng thể nghi

ngờ được, cho nên nó khơng bao giờ phạm sai lầm, nó là quan tồ

tối cao cơng bằng, xét xử những cơng việc của chân lí. Qua đó thấy rằng R. Descartes đã khơng nhìn thấy biện pháp đối chiếu

khái niệm với đối tượng của thế giới bên ngoài phản ánh vào trong khái niệm, khơng thấy vai trị của thực tiễn đối với nhận thức. Vì tách rời tư duy khỏi thế giới bên ngồi nên ơng khơng tìm thấy

tiêu chuẩn thực tiễn khách quan của chân lí... Quan niệm của ơng cịn mang tính chất chủ quan và duy tâm nhưng quan điểm đó

cũng đã góp phần bác bỏ chủ nghĩa kinh viện và thuyết thần bí

thời Trung cổ, thay thế lịng tin bằng tri thức, thay thế cái phi lí bằng cái hợp lí, thay thế sự quy lụy trước uy tín bằng sự chứng

<small>minh logic.</small>

Nếu F. Bacon đưa phương pháp quy nạp lên hàng đầu làm

<small>phương pháp của khoa học tự nhiên thực nghiệm thì R. Descartes,</small>

xuất phát từ tài liệu của toán học lại nhấn mạnh ý nghĩa của phương

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

pháp diễn dịch duy lí mà ông đem đối lập với chủ nghĩa kinh viện

trừu tượng. Theo ông, những nguyên tắc cơ bản của logic học và của toán học là những cái “bẩm sinh”, khơng phụ thuộc vào kinh

<small>nghiệm và tiến trình tư duy đi từ nguyên lí chung (rõ ràng, rành</small>

mạch, khúc chiết) đến nhận thức về những đối tượng cụ thể.

<small>Xuất phát từ nguyên lí chung (tư tưởng phải rõ ràng, rành</small>

mạch) chứng tỏ R. Descartes rất quan tâm đến tính logic của tư

tưởng. Đó cũng là cơ sở để học trị của ông phát triển logic học

<small>thành trường phái mạnh. Trường phái R. Descartes đã giữ vai trò</small>

quan trọng trong lịch sử logic học. Những môn sinh của R.

Descartes ở Po Roayan là Antôn Ácnôn (1612 - 1694) và Pie Nicôlơ

(1625 - 1695) đã viết cuốn sách giáo khoa logic hoc: "Logic học,

<small>hay là nghệ thuật suy nghĩ" mà người ta biết dưới cái tên "Logic</small>

học của Po Roayan". Logic học ấy gần gũi với chủ nghĩa duy lí của R. Descartes, xuất phát từ quan niệm của R. Descartes về tiêu

chuẩn của chân lí và bác bỏ nguồn gốc thực nghiệm của các tư

<small>tưởng. "Logic hoc cua Po Roayan" đánh giá cao tính chất rõ ràngvà rành mạch của tư tưởng, nên trên một mức độ lớn, nó đã thốt</small>

khỏi gánh nặng cứng nhắc của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ.

<small>Goftfried Wilhelm Leibniz (1646 - 1716) nhà toán hoc và triếthọc người Đức. G.V. Leibniz là người kết hợp một số yếu tố củachủ nghĩa kinh nghiệm với chủ nghĩa duy lí. Theo ơng, bên cạnhnhững chân lí của lí trí có tính chất là tính tất nhiên logic và không</small>

thể xác định được bằng kinh nghiệm, ông thừa nhận là có những chân lí của sự thật, xác định bằng con đường kinh nghiệm dựa vào

phương pháp quy nạp. Ông cho rằng tất cả chân lí của logic học và

tốn học đều thuộc về chân lí của lí trí cịn những chân lí của khoa học tự nhiên thì thuộc về chân lí của sự thật. Loại thứ nhất là tất

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

nhiên. Loại thứ hai là "ngẫu nhiên”. Muốn tìm ra những chân lí loại thứ nhất thì chỉ cần dùng logic học của Aristotle với những quy luật đồng nhất, cấm mâu thuẫn, loại trừ cái thứ ba là đủ, nhưng đối với chân lí của sự thật thì cần phải có lí do đầy đủ.

Ơng nhấn mạnh, những phán đốn của chúng ta dựa trên hai

nguyên tắc vĩ đại: nguyên tắc cấm mâu thuẫn và ngun tắc có lí do đầy đủ. Theo ngun tắc có lí do đầy đủ, chúng ta thấy rằng, khơng hiện tượng nào lại có thể là chân lí, khơng sự thật nào lại có thể là hợp lí nếu khơng có lí do đầy đủ, xem xét sự việc tại sao lại như thế này mà lại không như thế khác... Từ quan điểm đó, G.V.

Leibniz xây dựng thành quy luật lí do đầy đủ và đã góp phần hoàn

<small>thiện thêm một bước hệ thống quy luật của logic hoc.</small>

<small>Thêm vào đó, G.V. Leibniz đi tìm "soi dây nhận thức” là</small>

phương pháp chung, cho phép nắm được thực chất của tư duy.

Ông xây dựng khoa học đem lại phương pháp chung được gọi là

<small>logic học mới. Khác với logic học trước kia dùng làm phương tiện</small>

để chứng minh, logic học mới, theo ông, phải trở thành "nghệ

<small>thuật phát minh".</small>

G.V. Leibniz đã phân tích và dùng các kí hiệu để miêu tả đối

tượng của tư duy. Ông cho rằng sự vận dụng các kí hiệu sẽ phản

ánh được mọi sự kết hợp có thể có của các đối tượng ấy và bản

thân sự kết hợp các kí hiệu logic phải đem lại khả năng phát hiện sự kết hợp sai lầm giữa các khái niệm. Thế là logic học biến thành

thứ tính tốn, biến thành "sự giám định phổ biến". Theo ơng, chúng ta sử dụng các kí hiệu không phải chi là để diễn đạt sự suy nghĩ của ta cho người khác mà là để đơn giản hố chính q trình

<small>suy nghĩ của chúng ta.</small>

Phân tích cấu trúc ngơn ngữ, qua đó dùng kí hiệu để miêu tả kết cấu logic của tư duy, tạo tiền đề cho tốn học hố các hình thức tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

duy, G.V. Leibniz đã phát triển logic học theo hướng mới, đặt nền

<small>móng cho sự ra đời của ngành khoa học logic mới là logic kí hiệu</small>

hay cịn gọi là logic toán. Logic toán là hướng phát triển tương đối độc lập trong sự phát triển của logic học truyền thống từ thời kì

<small>Aristotle đến G.V. Leibniz. Những ý tưởng logic tốn G.V. Leibniz</small>

dat nền móng, sau này đã được các nhà toán hoc như Bun (1815 - 1864)

<small>người Anh; Phréghé (1841 1902) người Đức; Pochenxki (1846 </small>

-1907) người Nga... phát triển thành ngành khoa học độc lập.

Việc ứng dụng toán học vào logic học là những phương tiện bổ trợ rất thuận lợi để trình bày các lí thuyết logic và đồng thời cũng hình thành một số phương pháp tính tốn để giải các bài tốn khó.

<small>Người ta đã xác định được các ngun lí xây dựng các lí thuyết</small>

logic cho phép phát hiện ra những vấn đề logic mới và quan trọng. Từ đây những hướng nghiên cứu mới về logic được mở ra.

- Sau G.V. Leibniz, ngồi hướng phát triển logic tốn cịn hướng phát triển khác của khoa học logic là logic biện chứng. Logic biện chứng được bắt đầu từ "logic tiên nghiệm" của LM. Kant sau đó được Ph. Héghen tiếp tục phát triển.

<small>Hégen không dừng lại ở việc nghiên cứu trạng thái tinh trongcác hình thức tư duy mà nghiên cứu tư duy trong trạng thái vận</small>

động. Chính Ph. Angghen đã nhận xét: “Sau Aristotle chỉ có Hégen là người duy nhất đã nắm lấy việc giải quyết một cách có hệ thống

<small>nhiệm vụ này (nhiệm vụ nghiên cứu tu duy trong trạng thái vận</small>

dong)” Hêghen đã phá vỡ “chân trời” chật hẹp của logic học truyền

thống, “Héghen đòi một logic mà những hình thức phải là những hình thức có nội dung, những hình thức có nội dung thực tế, sinh

<small>(1).Xem: C. Mác va Ph. Angghen toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà</small>

<small>Nội, 1994, tr.732.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

động, gắn liền chặt chế với nội dung.” Nhưng, logic học biện chứng

của Héghen lại bị hạn chế bởi thế giới quan triết học duy tâm.

Bằng phương pháp luận biện chứng duy vật, C. Mác, Ph. Angghen đã phê phán và “ước bỏ cái vỏ ngồi thần bí” trong hệ thống triết học Hêghen, gắn phép biện chứng với chủ nghĩa duy

vật làm cho nó trở thành “khoa học về những quy luật về thế giới

khách quan và về tu duyL ì.“) Trên cơ sở phương pháp luận đó, các ơng đã xác định đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của logic học

<small>trong nhận thức khoa học.</small>

V.I. Lênin cũng đề cập nhiều vấn đề của logic học trong các tác

phẩm: “Chu nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,

“Bút kí triết học”, “Lại bàn về cơng đồn”... Những vấn dé mà V.I. Lênin đề cập là: đối tượng, phương pháp, ý nghĩa của logic học,

<small>mối quan hệ giữa logic học, lí luận nhận thức và phép biện chứng...</small>

Đến nay, ngoài logic học truyền thống (từ Aristotle đến

Leibniz đã phát triển tương đối đây đủ), chúng ta thấy xuất hiện nhiều môn khoa học logic khác. Trong đó logic tốn đã phát triển

thành ngành khoa học logic đồ sé gồm các môn như logic xác

<small>suất, logic tinh thái, logic mờ, logic kiến thiết, logic tap hợp... các</small>

môn logic học đều đã được triển khai giảng dạy trong các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới.

2. Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu logic học

Thứ nhất, học tập và nghiên cứu logic học góp phần nâng cao năng lực tư duy của mỗi người.

Muốn nâng cao năng lực tư duy phải có sự hiểu biết về tư duy

<small>(1).Xem: V.I. Lénin toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1981, tr.101.(2).Xem: C. Mác và Ph. Angghen tồn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, HaNội, 1994, tr. 201.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>và những ki năng thao tác logic cơ bản của nó. Học tập, nghiên cứulogic học, một mặt, cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản</small>

để hiểu biết về tư duy một cách hệ thống, sâu sắc và toàn diện, biết vận dụng một cách tự giác sự hiểu biết đó vào lĩnh vực tư duy; mặt

<small>khác, thơng qua quá trình học tập, nghiên cứu thực hiện các thao</small>

tác logic là điều kiện để rèn luyện các kĩ năng tư duy.

Chẳng hạn, qua nghiên cứu các quy luật cơ bản của tư duy, điều <small>rút ra là phải luôn chú ý tới tính hệ thống, sự nhất quán, tính không</small>

mâu thuẫn và sự rõ ràng, mạch lạc trong tư duy. Nó rèn luyện cho

chúng ta biết tư duy theo đúng những quy tắc, quy luật vốn có là điều kiện cần để đạt tới chân lí trong q trình nhận thức thế giới.

<small>Thêm vào đó, kiến thức logic học có tính chất gợi mở cách tiếp cận</small>

vấn đề và hướng phát triển tư tưởng trong quá trình tư duy.

Thứ hai, logic học góp phần hỗ trợ cho việc học tập, nghiên

<small>cứu các môn khoa học khác.</small>

Mỗi môn khoa học đều có kết cấu logic riêng và thể hiện rõ

<small>tính đặc thù trong hệ thống các môn khoa học. Tuy nhiên, khi trình</small>

bày nội dung và kết cấu đặc thù của mỗi môn khoa học, phải tuân

theo những vấn đề chung của logic học. Chăng hạn như khi đưa ra

khái niệm đều phải làm rõ nội hàm và phạm vi khái niệm phản ánh,

đều phải tuân theo quy tắc định nghĩa khái niệm; phân chia chương, mục đều phải tuân theo quy tắc phân chia khái niệm hoặc khi phân tích, chứng minh vấn đề đều phải tuân theo các hình thức và quy tắc suy luận, chứng minh. Nắm vững kiến thức logic học giúp cho

<small>chúng ta nhanh chóng tiếp cận được phương pháp được trình bày và</small>

kết cấu nội dung của vấn đề. Nói cách khác, nó giúp cho chúng ta

<small>biết phân tích và nhanh chóng tiếp cận được tư tưởng của người</small>

khác. Đồng thời, logic học giúp cho chúng ta kiểm tra lại tính chính

<small>xác của các định nghĩa, các khái niệm... xem xét tính hợp lí của kết</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

cấu giáo trình, bài giảng, biết hệ thống lại kiến thức theo quan điểm riêng (xây dựng lược đồ theo quy tac logic) dé nhớ, dễ thuộc. Từ những tri thức đã tiếp thu được dựa theo các quy tắc suy luận biết

<small>rút ra những hệ quả của nó một cách tất yếu...</small>

<small>Thứ ba, học tập, nghiên cứu logic học cũng chính là học tập</small>

phương pháp và rèn luyện tư duy để nhận biết và tránh những lỗi

logic đồng thời đấu tranh với những tư tưởng nguy biện. Bởi vì, logic học cung cấp cơ sở lí luận cho việc rèn luyện ki năng tư duy, biết cách bảo vệ những tư tưởng đúng; biết phát hiện lỗi logic của

người khác qua nói chuyện, tranh luận và qua các bài viết; kiểm

tra lỗi logic trong lời nói và bài viết của chính bản thân mình; bác bỏ những tư tưởng sai hoặc lối tư duy ngụy biện.

Thứ tu, tư duy logic cần thiết cho hoạt động tư duy trong moi

<small>lính vực xã hội; đặc biệt, với lĩnh vực hoạt động pháp luật, tư duylogic có vai trò rất quan trọng trong xây dựng pháp luật, thực hiệnvà áp dụng pháp luật.</small>

Chẳng hạn, trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tư duy logic

giúp cho người soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, soạn ra các điều luật vừa mang tính khái quát nhưng đồng thời lại phải rõ

ràng, cụ thể, dễ hiểu... Để làm được điều đó, các nhà làm luật phải nắm vững các quy tắc định nghĩa, quy tắc phân chia khái niệm và các thao tác logic khác trên khái niệm, nguyên tắc quan hệ giữa

<small>các khái niệm trong phán đoán và quan hệ giữa các phán đốntrong q trình suy luận.</small>

<small>Trong hoạt động xét xử, tư duy logic chặt chẽ sẽ giúp cho</small>

công tố viên và thẩm phán đấu tranh lí lẽ với bị cáo, làm cho họ phải tâm phục, khẩu phục; khi tham gia tranh tụng, trình bày vấn đề khúc chiết, rõ ràng, đúng pháp luật và giải quyết vấn đề một

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

cách đúng đắn, không sai lầm.

Trong thực tiễn công tác điều tra tội phạm, cán bộ điều tra

<small>phải có tư duy logic linh hoạt, chính xác, biết rút ra những kết</small>

luận đúng đắn từ hàng loạt các sự kiện cụ thể; biết chứng minh và

bác bỏ vấn đề đúng logic, phù hợp với thực tế. Các thao tác và suy luận logic giúp cho những người làm cơng tác điều tra có sự nhạy

cảm và sắc bén trong công tác nghiệp vụ của mình.

CÂU HOI VA NOI DUNG ON TẬP

Phan tich dac diém cua tu duy. Phân tích đặc điểm của tu duy logic.

<small>Phân tích đối tượng nghiên cứu của logic học.</small>

BP bệ tr

<small>Phân tích cơ sở hình thành các phương pháp nghiên cứu củalogic học.</small>

<small>a</small> Khái lược về lich sử phát triển của logic hoc.

6. Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu logic học. Liên hệ với

<small>chuyên ngành đang được đào tạo.</small>

BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM

<small>— . Logic học là gi? Hãy chọn phương án đúng.</small>

a) Khoa học về tư duy

<small>b) Khoa học nghiên cứu các hình thức và quy luật của tư duy</small>

nhằm nhận thức chân thực thế giới hiện thực khách quan

c) Khoa học nghiên cứu hình thức tồn tại của tư duy

<small>d) Khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tựnhiên, xã hội và của sự nhận thức</small>

2. Phuong án nào day đủ nhất về nghĩa của thuật ngữ logic?

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

a) Chỉ mối liên hệ tất yếu giữa các sự vật, hiện tượng b) Chỉ một cách thức tư duy

c) Chi quá trình tư duy tuân theo những quy tac nhất định

phản ánh chân thực logic khách quan d) a, b, c đều đúng

3. Mệnh đề nào sau đây đúng?

a) Tư duy là hình ảnh tri giác được lưu lại ở trong đầu óc con người

<small>b) Tu duy là hiện tượng khơng mang tính xã hộic) Tư duy là hiện tượng xã hội</small>

<small>d) Tư duy là quan niệm cá nhân</small>

4. Mệnh đề nào sau đây đúng?

<small>a) Tư duy logic là tư duy hình tượngb) Tư duy logic là tư duy chính xác</small>

c) Tư duy logic là sự tổng hợp của giai đoạn nhận thức cảm tính d) Tư duy logic là tư duy kinh nghiệm được tổng hop lại 5. Chọn quan niệm đúng về đặc điểm của tư duy logic?

a) Trừu tượng, khái quát, cụ thể, cảm tinh, sinh động b) Trực tiếp, sâu sắc, sinh động, năng động - sáng tạo

<small>c) Tu duy hệ thống, tất yếu, chặt chẽ, chính xác</small>

d) Gian tiếp, năng động, sáng tạo, trừu tượng, khái quát, cụ thể 6. Quan điểm nào sau đây về mối quan hệ giữa tư duy và ngôn

<small>ngữ là sai?</small>

<small>a) Ngơn ngữ là hình thức tư duy</small>

b) Ngơn ngữ là hình thức tồn tại của tư duy

<small>c) Ngơn ngữ là vỏ vat chất của tư duy</small>

<small>d) Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

7. Đối tượng của logic học là gì?

a) Nghiên cứu kết cấu ngôn ngữ của tư tưởng và các sơ đồ lập

b) Nghiên cứu về su phù hợp của tư tưởng với hiện thực

c) Nghiên cứu hình thức, quy luật, thao tác và quy tắc logic

của tư duy

d) Nghiên cứu các hình thức tồn tại của tư duy

8. Quan điểm nào về hình thức của tư duy sau đây là đúng?

a) Quan hệ của tư tưởng với hiện thực b) Một bộ phận của nội dung tư tưởng

c) Những kí hiệu, công thức, sơ đồ để diễn đạt nội dung tư tưởng

d) Là phương thức liên kết các bộ phận cấu thành nội dung tư tưởng

<small>9. Phương pháp đặc trưng nghiên cứu logic học là gì? Hãy chọnphương án đúng nhất.</small>

<small>a) Phân tích</small>

b) Phân tích và tổng hợp

<small>c) Phân tích và hình thức hố (mơ hình hố)</small>

d) Quy nap và diễn dịch

10. Ai là người đã đưa toán học vào logic học, tạo tiền đề cho việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

CHƯƠNG II

KHÁI NIỆM

1. BẢN CHAT VÀ HÌNH THỨC BIỂU ĐẠT KHÁI NIỆM

<small>1. Khái niệm là gì?</small>

Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan có vơ

<small>vàn các thuộc tính, các mối liên hệ. Những thuộc tính, những mối</small>

liên hệ được con người nhận biết và nằm trong miền hoạt động

nhận thức của con người gọi chung là dấu hiệu. Có những dấu

hiệu quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật, đó là những dấu hiệu cơ bản thể hiện bản chất. Có dấu hiệu chỉ biểu hiện bề ngồi, thống qua giữ vai trị thứ yếu trong sự vận động và phát triển của sự vật là những dấu hiệu không cơ bản. Để nhận biết được sự vật,

<small>hiện tượng và phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác, phải căn</small>

cứ vào các dấu hiệu cơ bản thể hiện bản chất. Hơn nữa, đó phải là

<small>những dấu hiệu bản chất mang tính chất đặc trưng. Bởi vì, có dấuhiệu trong quan hệ này là dấu hiệu đặc trưng nhưng trong quan hệ</small>

khác lại không phải là đặc trưng. Chẳng hạn, dấu hiệu có một góc

<small>vng là dấu hiệu đặc trưng của hình chữ nhật trong các đối tượngcùng loại là hình bình hành, trong đó có hình vng nhưng dấu</small>

hiệu tất cả bốn cạnh đều bằng nhau lại là dấu hiệu đặc trưng của

<small>hình vng trong đối tượng cùng loại là hình chữ nhật.</small>

Thơng qua hoạt động thực tiễn, các sự vật, hiện tượng của thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>giới khách quan tác động vào các giác quan của con người tạo ra</small>

cảm giác, tri giác, biểu tượng là cơ sở ban đầu của tư duy. Những tri thức do giai đoạn nhận thức cảm tính mang lại chưa có thể

<small>phân biệt hoặc xác định được cái bản chất và không bản chất, cái</small>

tất nhiên và cái ngẫu nhiên mà mục đích của nhận thức là phải

nắm bắt bản chất của đối tượng và tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển của nó. Vì thế, tiếp tục giai đoạn nhận thức cảm

tính là nhận thức lí tính - giai đoạn cải biến những tri thức cảm

tính, trừu tượng hố, hệ thống hoá, khái quát hoá, nắm bắt những

<small>dấu hiệu bản chất đặc trưng của đối tượng và kết quả là sáng tạonên khái niệm.</small>

Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh những dấu hiệu bản chất đặc trưng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách

<small>quan. Khái niệm là hình thức tư duy, bởi vì khái niệm là tư tưởng</small>

tương đối trọn vẹn về đối tượng cụ thể nào đó của thế giới hiện

<small>thực, có kết cấu chặt chẽ. Nó là kết quả của q trình nhận thức </small>

-sản phẩm của tư duy đồng thời là hình thức phản ánh giới tự nhiên

<small>một cách trừu tượng, khái quát. Đúng như V.I. Lênin đã nói: “khái</small>

niệm là sản phẩm cao nhất của sự nhận thức, đồng thời là một hình thức phản ánh giới tự nhiên bởi con người”.

Thêm vào đó ta thấy con người chỉ có thể tư duy dưới hình thức khái niệm và sự nhận thức của con người cũng chỉ có thể thực

<small>hiện được trên cơ sở xây dựng nên các khái niệm và sử dụngchúng làm cơng cụ trong q trình tư duy.</small>

Hệ thống khái niệm được ví như những mắt lưới để con người thâu tóm sự hiểu biết của mình về thế giới. Vì vậy, trong tác phẩm

<small>“Bút kí triết học”, V.I. Lénin viết: “Trước con người, có màng lưới</small>

<small>(1).Xem: V.I. Lénin toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 192.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

những hiện tượng tự nhiên. Con người ban năng, con người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới. Chúng

là những điểm nút của màng lưới giúp ta nhận thức và nắm vững duoc màng lưới ˆ'.°)

2. Đặc trưng của khái niệm

Khái niệm là sự phản ánh - “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” nhưng hình ảnh khái niệm khác với hình ảnh cảm

giác, tri giác, biểu tượng ở chỗ một bên mang tính trực quan cảm

<small>tính, cịn khái niệm là sự phản ánh mang tính khái quát, gián</small>

tiếp. Căn cứ nội dung phản ánh của khái niệm, có thể rút ra một

<small>số đặc trưng sau:</small>

Thứ nhất, khái niệm là sự phan ánh tương đối toàn diện về đối tượng

<small>Những dấu hiệu bản chất, đặc trưng được phản ánh trong kháiniệm, chi phối toàn bộ các mặt, các mối liên hệ khác của đối</small>

tượng. Vì thế, hiểu biết đối tượng ở trình độ khái niệm là sự hiểu

biết tương đối tồn diện (tương đối đây đủ) về nó. Vi du: Trong

<small>khái niệm “gia đình”, hai dấu hiệu “hơn nhân” và “huyết thống”</small>

chi phối tất cả các quan hệ khác. Nghiên cứu các hình thức gia

đình trong lịch sử hoặc gia đình cụ thể nào đó trong xã hội qua việc làm rõ hai mối quan hệ bản chất đặc trưng đã nêu, sẽ hiểu

biết tương đối day đủ về các hình thức hoặc gia đình đó.

Thứ hai, khái niệm là sự phan ánh tương đối có hệ thống về đối tượng Các dấu hiệu được phản ánh trong khái niệm tuân theo trình tự nhất định, có quan hệ và quy định lẫn nhau một cách chặt chẽ, qua

đó cho ta hình ảnh tương đối trọn vẹn về đối tượng. Có thể nói

<small>(1).Xem: VI. Lénin tồn tập, tập 29, Sdd, tr. 102.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>tính hệ thống của khái niệm do tính hệ thống của đối tượng phản</small>

ánh quy định. Đúng như V.I. Lênin đã từng nói sự vật bắt đầu từ

đâu thì tư duy phải bắt đầu từ đó; cái logic chẳng qua là rút gọn <small>cái lịch sử.</small>

<small>Ví du: Trong khái niệm “pháp luật”, những dấu hiệu “hệ thống</small>

các quy tắc xử sự”, “do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện”, “thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội”, “nhân tố điều

chỉnh các quan hệ xã hội” tuân theo trật tự nhất định, chúng quy

định và bổ sung cho nhau thành hệ thống, thể hiện rõ nội dung

<small>khái niệm.</small>

Thứ ba, khái niệm là sự phản ánh tương đối chính xác về đối tượng Khái niệm phản ánh các sự vật, hiện tượng trong trạng thái

tương đối ổn định. Các dấu hiệu bản chất, đặc trưng được phản

ánh trong khái niệm là những dấu hiệu quyết định sự tồn tại của

trạng thái tương đối ổn định đó. Nêu đúng những dấu hiệu bản

chất đặc trưng là làm rõ mối tương quan phù hợp giữa khái niệm

<small>và đối tượng. Đó là bảo đảm tính chính xác của khái niệm.</small>

Một trong những chức năng của khái niệm là dùng để nhận

biết đối tượng mà khái niệm phản ánh và phân biệt nó với các đối tượng khác, do đó, khi nêu khái niệm phải hình dung ra đối tượng

<small>thì khái niệm mới thực hiện được chức năng giao tiếp và công cụ</small>

để tư duy.

Thứ tư, khái niệm là san phẩm của tư duy và kết quả của sự nhận thúc,

là sự sáng tao của con nguoi

<small>Khái niệm là sự phản ánh đối tượng trong hiện thực nhưng góp</small>

phần chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người trong quan hệ với đối tượng. Suy đến cùng, thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực của sự nhận thức. Nếu khơng có nhu cầu thực tiễn, con người

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<small>không đặt các sự vật, hiện tượng của thế giới hiện thực thành đốitượng của sự nhận thức và cũng không khái quát thành khái niệm.</small>

Vì vậy, xuất phát từ nhu cầu hoạt động thực tiễn và hoạt động

<small>nhận thức mà hệ thống khái niệm được con người xây dựng và sử</small>

dụng làm cơng cụ để tiếp tục q trình nhận thức. Hệ thống khái

niệm ngày càng được mở rộng cùng với hoạt động thực tiễn và

<small>hoạt động nhận thức của con người và xã hội.</small> 3. Hình thức ngơn ngữ biểu đạt khái niệm

Hình thức ngơn ngữ biểu đạt khái niệm là từ. Từ là đơn vị cơ

bản của ngôn ngữ - đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học.

<small>Từ, cụm từ là một hoặc một số kí hiệu âm được quy ước trong</small>

cộng đồng để biểu đạt khái niệm. Sự quy ước về từ, có tính chất

riêng biệt, do sử dụng lâu đời thành thói quen của mỗi cộng đồng người. Mỗi cộng đồng người có ngơn ngữ với hệ thống từ vựng

riêng biệt; nên cùng khái niệm nhưng mỗi cộng đồng biểu đạt

bằng những từ khác nhau:

<small>Ví du:</small>

Cộng đồng người | Từ (ngôn ngữ) Khái niệm (tư duy)

Người Việt Hàng hố Là sản phẩm của lao động

<small>Người Anh Goods có thé thoả mãn nhu cầu nàođó của con người thơng qua</small>

Người Nga Tobapb trao đổi mua bán với nhau.

<small>Khái niệm và từ thuộc hai lĩnh vực nghiên cứu của hai ngành</small>

khoa học khác nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ, là biểu hiện ở cấp độ cụ thể của mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ.

<small>Khái niệm là hình thức tư duy, là nội dung, mang tính chất quyết</small>

định đối với từ; còn từ là vỏ vật chất, hình thức biểu đạt nội dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

của khái niệm. Khái niệm bao giờ cũng được biểu đạt bằng một

<small>hay một số từ của thứ ngôn ngữ nhất định mà ta đã biết được ý</small>

nghĩa của chúng. Khơng có khái niệm tồn tại một cách thuần t

<small>bên ngồi hệ thống từ vựng của thứ ngơn ngữ nhất định. Một từ có</small>

thể biểu đạt nhiều khái niệm khác nhau, gọi là các từ đồng âm

khác nghĩa (từ đa nghĩa). Vi du: Từ đồng là danh từ chỉ loại kim loại (Cu) hoặc chỉ vị trí địa lí nơi canh tác nông nghiệp (như từ đồng trong câu: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu”)... Một ví dụ khác,

từ “mà” có thể là danh từ như trong câu: “Ếch làm mà”, có thể là

<small>liên từ nối các phán đốn đơn như trong phán đốn phức: “Khơng</small>

thể nói ơng A vi phạm pháp luật mà ơng A khơng bị xử lí theo pháp luật”, có thể là từ chỉ mục đích như trong câu: “Lam lấy mà ăn”.

Đồng thời, nhiều từ cùng biểu đạt một khái niệm (từ đồng nghĩa). Ví dụ: Các từ “hổ”, “hùm”, “cọp” đều chỉ một loài động vật;

hoặc, các từ đồng nghĩa như: “nhìn”, “trơng” cùng chỉ một hành vi.

<small>Như vậy, khái niệm là sự phản ánh hiện thực khách quan, còn</small>

từ là sự quy ước lâu đời thành thói quen của mỗi cộng đồng người.

Il. KẾT CẤU LOGIC CUA KHÁI NIỆM

Xét về mặt kết cấu, khái niệm gồm hai mặt là nội hàm và

<small>ngoại diên.</small>

1. Nội hàm của khái niệm

Nội hàm của khái niệm là tổng hoà các dấu hiệu bản chất đặc

trưng của đối tượng được phản ánh trong khái niệm.

<small>Ví dụ: Khái niệm “pháp luật”.</small>

Nội hàm của khái niệm “pháp luật” bao gồm các dấu hiệu:

- Hệ thống các quy tắc xử sự;

- Do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện;

</div>

×