Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA GIBBERELLIN ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY XÀ LÁCH (LACTUCA SATIVA L ) TẠI XÃ ĐIỆN HỒNG, THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 57 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM KHOA: LÝ – HÓA – SINH </b>

------

<b>NGUYỄN THỊ PHƯỢNG HẰNG </b>

<b>NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA GIBBERELLIN ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY </b>

<b>XÀ LÁCH (LACTUCA SATIVA L.) TẠI XÃ ĐIỆN HỒNG, THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM </b>

<i><b> </b></i>

<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC</b>

<i><b>Quảng Nam, tháng 4 năm 2015 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CẢM ƠN </b>

Qua quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Qua đây tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến:

- TS. Trần Thanh Dũng - thầy luôn tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tơi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

- BGH trường Đại học Quảng Nam đã tạo điều kiện, cơ sở vật chất cho chúng tôi có thể hồn thành tốt đề tài nghiên cứu.

- Quý thầy cô giáo trong tổ bộ môn Sinh đã cho phép chúng tôi được sử dụng thiết bị, dụng cụ thí nghiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong q trình xử lí mẫu vật.

- Gia đình và bạn bè luôn động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tôi xin cam đoan:

Những nội dung trong khóa luận là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn TS. Trần Thanh Dũng.

Mọi tham khảo trong khóa luận đều được trích dẫn rõ ràng.

Kết quả nghiên cứu này là do chính tơi làm khơng sao chép của bất kì ai khác.

<b> TÁC GIẢ </b>

<b>Nguyễn Thị Phượng Hằng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

IAA : Axit Indolyaxetic

KHKTNN : Khoa học kĩ thuật nông nghiệp

LSD<small>05</small> : Độ sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức xác xuất 95% NAA : Axit naphtylaxetic

NSLT : Năng suất lý thuyết NSTT : Năng suất thực thu WHO : Tổ chức Y tế thế giới

2,4D : Axit 2,4 dicloro-phenoxiaxetic

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC CÁC BẢNG </b>

Số hiệu bảng

1 Một yếu tố khí hậu thời tiết vụ Đông xuân năm 2015 tại Quảng Nam

22

3.2 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến thời gian sinh trưởng của xà lách

28

3.3 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến số lá trên cây xà lách 29 3.4 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến chiều cao cây xà lách 31 3.5 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến tăng trưởng chiều dài lá

xà lách

33

3.6 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến chiều rộng lá xà lách 34 3.7 Ảnh hưởng của GA<small>3 </small>đến trong lượng tươi và trọng

lượng khô cây xà lách

37

3.8 Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất cây xà lách

38

3.9 Hiệu quả kinh tế của việc xử lý GA<small>3</small> trên cây xà lách vụ Đông xuân năm 2015 tại Điện Hồng – Điện Bàn - Quảng Nam

40

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ </b>

Số hiệu hình/ Biểu đồ

3.1 Số lá/cây qua các thời kỳ theo dõi ở các công

3.5 Trọng lượng tươi và trọng lượng khô của cây 37 3.6 Năng suất lý thuyết và năng suất thực thu cây xà

lách ở các cơng thức thí nghiệm

39

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>MỤC LỤC </b>

PHẦN MỞ ĐẦU ... 1

1. Lý do chọn đề tài ... 1

2. Mục tiêu của đề tài ... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 2

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ... 2

1.2. Sơ lược về cây xà lách ... 5

1.2.1. Nguồn gốc, phân loại ... 5

1.2.1.1. Nguồn gốc ... 5

1.2.1.2. Phân loại ... 5

1.2.2. Đặc điểm sinh học của cây xà lách ... 6

1.2.3. Giá trị của cây xà lách ... 6

1.3. Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đối với cây xà lách ... 7

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

1.4.5. Phân bón ... 9

1.4.6. Chăm sóc ... 9

1.4.7. Phòng trừ sâu bệnh ... 9

1.4.8. Thu hoạch và bảo quản ... 9

1.5. Tổng quan tài liệu về GA<small>3</small> ... 9

1.5.1. Lịch sử nghiên cứu về GA<small>3</small> ... 9

1.5.2. Vai trò và tác dụng của GA<small>3</small> đối với cây trồng ... 11

1.5.3. Cơ chế tác dụng của Gibberellin ... 16

1.5.4. Nguyên tắc và phương pháp sử dụng chất điều hòa sinh trưởng GA<small>3</small> ... 17

1.5.5. Tình hình nghiên cứu về GA<small>3</small> trên cây rau ... 18

1.6. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của xã Điện Hồng, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. ... 21

1.6.1. Vị trí địa lí ... 21

1.6.2. Điều kiện khí hậu thời tiết vụ Đơng xn 2015 tại xã Điện Hồng, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ... 22

CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 23 2.1. Vật liệu ... 23

2.1.1. Giống xà lách ... 23

2.1.2. Hóa chất ... 23

2.1.3. Dụng cụ dùng trong nghiên cứu ... 23

2.2. Phương pháp nghiên cứu ... 23

2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm ... 23

2.2.2. Phương pháp xử lí GA<small>3</small> cho cây ... 24

2.2.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu ... 24

2.2.3.1. Tỉ lệ cây sống sau khi cấy ... 24

2.2.3.2. Thời gian từ lúc trồng đến khi bén rễ hồi xanh ... 24

2.2.3.3. Thời gian sinh trưởng, phát triển của cây xà lách ... 24

2.2.3.4. Tăng trưởng chiều cao của cây xà lách ... 24

2.2.3.5. Tăng trưởng số lá trên cây ... 25

2.2.3.6. Tăng trưởng chiều dài lá cây xà lách ... 25

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2.2.3.7. Tăng trưởng chiều rộng lá cây xà lách ... 25

2.2.3.8. Trọng lượng tươi, trọng lượng khô ... 25

2.2.3.9. Đánh giá màu sắc và hình dạng của lá so với đối chứng ... 25

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ... 27

3.1. Ảnh hưởng của việc phun GA<small>3</small> ở các nồng độ đến sinh trưởng và phát triển của cây xà lách ở vụ Đông Xuân năm 2015. ... 27

3.1.1. Tỉ lệ cây sống sau khi cấy ... 27

3.1.2. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến thời gian sinh trưởng của xà lách ... 27

3.1.3. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến số lá trên cây xà lách ... 29

3.1.4. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến tăng trưởng chiều cao cây xà lách ... 30

3.1.5. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến tăng trưởng chiều dài lá xà lách ... 32

3.1.6. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến tăng trưởng chiều rộng lá xà lách ... 34

3.2. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến hình dạng, màu sắc lá ... 36

3.3. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến trọng lượng tươi và trọng lượng khô của cây ... 36

3.4. Ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ... 38

3.5. Hiệu quả kinh tế ... 39

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng cao. Con người quan tâm hơn đến chất lượng bữa ăn hằng ngày. Khi lương thực và các thực phẩm giàu đạm đã được đảm bảo về nhu cầu dinh dưỡng thì rau xanh có vai trị như một nhân tố đảm bảo cân bằng về dinh dưỡng. Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế (IFPRI, 2002), hầu hết các hộ đều tiêu thụ rau tăng hơn so với năm trước đó và 93% hộ tiêu thụ quả. Các loại rau quả được tiêu thụ rộng rãi nhất là rau muống (95% số hộ tiêu thụ), cà chua (88%) và chuối (87%). Hộ gia đình Việt Nam tiêu thụ trung bình 71 kg rau quả cho mỗi người mỗi năm, trong đó tiêu thụ rau chiếm tới 3/4. [21]

Xà lách là loại rau ăn sống quan trọng và phổ biến ở nhiều nước. Rau xà lách có giá trị dinh dưỡng cao, nó cung cấp chất tươi, chất xơ cho cơ thể để cân bằng và tiêu thụ lượng đạm, mỡ từ thịt cá trong thức ăn. Trong xà lách còn chứa nhiều vitamin A, C, các loại axit amin không thay thế như Thiamin, Riboflavin và các chất khoáng như K, Ca, Fe… [9]

Xà lách là cây rau ăn lá cho nên thường được thu hoạch vào lúc cây sinh trưởng mạnh và đạt sinh khối tối đa. Vì vậy, từ lúc trồng đến lúc thu hoạch thường nằm trong khoảng 40-50 ngày.

Ngày nay, với việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật, năng suất, chất lượng của các loại rau nói chung và rau xà lách nói riêng đã được cải thiện và tăng lên. Khuynh hướng hiện nay là vừa nâng cao năng suất, chất lượng vừa an toàn cho người sử dụng. Tuy nhiên, ngồi vấn đề năng suất, chất lượng thì vấn đề rút ngắn thời gian gieo trồng, nâng cao hệ số sử dụng đất và hiệu quả kinh tế là vấn đề luôn được người nông dân quan tâm.

Một trong những giải pháp đó là sử dụng các chất điều hòa sinh trưởng và đối với các loại rau thì việc sử dụng chất kích thích sinh trưởng là vấn đề đang được quan tâm. Trong các chất kích thích sinh trưởng, Gibberellin (GA<small>3</small>) có tác dụng kích thích sinh trưởng kéo dài của thân, kéo dài lóng cây, làm tăng sinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khối của cây trồng và làm tăng nhanh sự sinh trưởng dinh dưỡng. Ngồi ra, GA<small>3</small>

cịn kích thích sự nảy mầm của hạt và củ, kích thích sự ra hoa và tạo quả không hạt… Tuy nhiên, việc phun vào thời điểm nào và liều lượng bao nhiêu sẽ cho hiệu quả kinh tế cao nhất là vấn đề cần phải đặt ra và nghiên cứu nghiêm túc.

<i><b>Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên </b></i>

<i><b>cứu ảnh hưởng của Gibberellin đến sinh trưởng và phát triển của cây xà lách (Lactuca sativa L.) tại xã Điện Hồng, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”, với </b></i>

mục đích rút ngắn được thời gian gieo trồng, nâng cao hệ số sử dụng đất và hiệu

<b>quả kinh tế cho người trồng rau. 2. Mục tiêu của đề tài </b>

- Đánh giá ảnh hưởng của GA<small>3</small> đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây xà lách.

- Xác định nồng độ GA<small>3</small> tối ưu đối với cây xà lách vừa rút ngắn thời gian sinh trưởng, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

- Nghiên cứu nồng độ phun GA<small>3</small> trên cây xà lách địa phương ở vụ Đông xuân 2015 tại xã Điện Hồng, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

- Thời gian nghiên cứu: Từ 12/2015 – 02/2016.

<i><b>4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài </b></i>

- Góp phần nâng cao năng suất cây trồng, rút ngắn thời gian thu hoạch, tăng hiệu suất sử dụng đất trồng rau màu và tăng hiệu quả kinh tế.

- Qua nghiên cứu đề tài đã giúp bản thân tiếp cận được với thực tiễn sản xuất và làm tăng năng lực nghiên cứu cho bản thân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>5. Bố cục của đề tài </b>

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài bao gồm các chương sau: Chương 1: Cơ sở khoa học và tổng quan tài liệu về vấn đề nghiên cứu. Chương 2: Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Kết quả và thảo luận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>PHẦN NỘI DUNG </b>

<b>CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU </b>

<b>1.1. Cơ sở khoa học </b>

Cây trồng nói chung và cây rau nói riêng ln tồn tại cơ chế điều hịa các q trình sinh trưởng và phát triển nhằm thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, duy trì sự sống. Cơ chế này do các chất điều hòa sinh trưởng có trong cây, nó điều chỉnh các hoạt động sinh lý cũng như sự hình thành các cơ quan sinh sản, cơ quan dự trữ có tác dụng quyết định tới năng suất thu hoạch. Năng suất, chất lượng sản phẩm thu hoạch của cây rau phụ thuộc vào giống, khả năng sinh trưởng phát triển và sự tác động của điều kiện tự nhiên cũng như các biện pháp kỹ thuật canh tác. Biện pháp kỹ thuật hợp lý có tác động rất lớn đến cây trồng phát triển được tiềm năng năng suất, thậm chí nâng cao chất lượng sản phẩm thu hoạch. Ngược lại, nếu tác động không hợp lý sẽ gây thiệt hại không nhỏ trong sản xuất.

Vậy cần có biện pháp điều chỉnh q trình sinh trưởng phát triển của cây nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch. Đặc biệt, cây rau xà lách là loại cây trồng ăn lá, việc tăng sinh khối có ý nghĩa quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao năng suất chất tươi luôn được quan tâm. Một trong những giải pháp đó là sử dụng chất điều hịa sinh trưởng, trong đó Gibberellin (GA<small>3</small>) được nghiên cứu rộng rãi trên một số cây trồng, đặc biệt là

<b>trên các loại rau ăn lá. </b>

Các nghiên cứu đều khẳng định, khi sử dụng các chất điều hòa sinh trưởng với nồng độ thấp sẽ có tác dụng kích thích sự sinh trưởng, tăng lượng chất khô dự trữ, nên làm tăng sản phẩm thu hoạch. Trong lĩnh vực ứng dụng này có thể sử dụng các chất như gibberellin (GA<small>3</small>), axit -∝ naphtin axêtic (∝-NAA). Ðặc biệt sử dụng GA<small>3</small> đem lại hiệu quả cao đối với những cây lấy sợi, lấy thân lá vì nó có tác dụng lên tồn bộ cơ thể cây làm tăng chiều cao cây và chiều dài của các bộ phận của cây. Các kết quả nghiên cứu cho thấy phun dung dịch GA<small>3</small> nồng độ 20 - 50 ppm cho cây đay có thể làm tăng chiều cao gấp đôi mà chất lượng sợi đay

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

không kém hơn. Ðối với các cây rau việc tăng sinh khối có ý nghĩa quan trọng, người ta thường phun GA<small>3</small> cho bắp cải, rau cải các loại với nồng độ dao động trong khoảng 20 -100 ppm làm tăng năng suất rõ rệt. Tuy nhiên, tùy theo từng loại rau mà có nồng độ xử lý khác nhau [18]. Trên cây xà lách, một số kết quả nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy phun GA<small>3</small> ở nồng độ từ 20 – 30 ppm cho năng suất cao nhất, tùy theo điều kiện canh tác và đất đai, tuy nhiên cũng chưa đưa ra được nồng độ cụ thể và tối ưu. Tại Quảng Nam, tại các vùng trồng rau cũng chưa có kết quả nghiên cứu về việc xử lý GA<small>3</small> trên rau xà lách.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu xử lý GA<small>3</small> trên cây xà lách tại Quảng Nam cần phải đặt ra. Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tài liệu bổ sung cho việc sử dụng GA<small>3</small> trên các loại rau. Đồng thời có thể áp dụng vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho người trồng rau.

<b>1.2. Sơ lược về cây xà lách </b>

<i><b>1.2.1. Nguồn gốc, phân loại </b></i>

<i>1.2.1.1. Nguồn gốc </i>

Xà lách là tên gọi được đọc sang tiếng Việt, xuất phát từ sự phát âm tiếng Anh là Salad. Đây là loại cây ôn đới thuộc họ Cúc, thường được trồng chủ yếu dùng để làm rau ăn sống và cùng với các loại rau gia vị khác là món ăn phổ biến ở nước ta và các nước trên thế giới.

Theo nghiên cứu của Ryder và Whitaker, xà lách có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và sau đó được du nhập ra khắp thế giới. Đặc biệt, xà lách được phát triển rộng rãi và có mặt trong nền văn minh của La Mã và Hy Lạp cổ đại, sau đó phát triển sang Tây Âu và các nước khác. Các dấu hiệu sớm nhất cho thấy xà lách đã tồn tại cách đây hơn 4500 năm trước Công nguyên thơng qua các hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>- Chi: Lactuca </i>

<i>- Loài: Lactuca sativa L.[9] </i>

<i><b>1.2.2. Đặc điểm sinh học của cây xà lách </b></i>

- Bộ rễ: Xà lách có bộ rễ chùm phát triển mạnh. Trên rễ chùm cịn có các rễ phụ. Bộ rễ làm nhiệm vụ giữ cây, bám chắc đất, hút nước và các chất dinh dưỡng nuôi cây. Bộ rễ ăn nông 10-15cm, phân bố hẹp, phát triển nhanh, tái sinh mạnh nên thường gieo cây con sau đó nhổ đi trồng. Rễ xà lách ưa ẩm, chịu úng tốt hơn chịu hạn.

- Thân: xà lách thuộc loại thân thảo, mềm, ngắn, không phân nhánh. Thân là nơi kết nối giữa bộ rễ và lá, vận chuyển chất khoáng do bộ rễ hút lên và chất hữu cơ do bộ lá tổng hợp ni cây. Thân xà lách giịn, dịch trắng như sữa trong thân tiết ra có thể dùng làm thuốc trong y học. Thời gian đầu thân phát triển rất chậm nhưng ở giai đoạn sau khi cây đạt cao nhất về sinh khối, thân cây phát triển cao vống rất nhanh và bắt đầu ra hoa.

- Lá: Lá xà lách thường mọc dày trên trục thân với số lượng lớn, lá sắp xếp trên thân hình xoắn ốc. Lúc đầu, mật độ lá rất dày, giai đoạn sau mật độ lá thưa dần. lá ngồi có màu xanh đậm, xanh hoặc xanh nhạt, lá trong có màu xanh nhạt, xanh trắng hoặc trắng ngà. Các lá phía trong mềm, chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn các lá ngồi. Bề mặt lá khơng phẳng mà lồi lõm, gấp khúc do đặc tính di truyền của lồi. Lá làm nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp chất hữu cơ nuôi cây. - Hoa: Chùm hoa dạng đầu, mang số lượng hoa lớn. Hoa mẫu có 5 đài, tràng, nhị nhưng có hai lá nỗn (nhụy hoa). Tự thụ phấn rất cao, hạt phấn và noãn ln ln có độ hữu thụ cao. Cơng thức cấu tạo của hoa: K<small>5</small>C<small>5</small>A<small>5</small>G<small>2</small>.

- Quả và hạt: Quả xà lách thuộc loại quả bế đặc trưng và hạt khơng có nội nhũ. Hạt hơi dài và dẹt, có màu nâu vàng. Độ nảy mầm tương đối cao, đạt 80-90%. [9]

<i><b>1.2.3. Giá trị của cây xà lách</b></i>

Xà lách là một loại rau xanh quen thuộc và giàu dinh dưỡng. Bên cạnh đó, rau xà lách cịn có nhiều tác dụng trong cải thiện, hỗ trợ sức khỏe.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Trong Đông y, xà lách được biết đến là một loại rau có vị ngọt đắng, tính mát, tác dụng giải nhiệt, lọc máu, kích thích tiêu hóa, giảm đau, chống ho…

Theo nghiên cứu của khoa học hiện đại, trong 100g xà lách có khoảng 2,2g cacbohidrate, 1,2g chất xơ, 90g nước, 166mg vitamin A, 73g Folate. Ngoài ra, đây là một loại rau giàu chất sắt, canxi, kẽm, đồng, kali, vitamin C… Ngoài ra, trong xà lách cịn có nhiều muối khống với các ngun tố kiềm cùng một lượng khá cao magie, nhờ đó giúp cơ thể tỉnh táo, giảm stress, tăng cường chức năng não và các mơ cơ. [9]

Ngồi tác dụng bảo vệ, cải thiện sức khỏe, xà lách còn được phái đẹp lựa chọn trong làm đẹp, ăn kiêng, giảm cân. Bên cạnh đó, xà lách cịn là vị thuốc hỗ trợ phái mạnh ngăn chặn xuất tinh sớm, cải thiện tình trạng hói sớm do rụng tóc.

<b>1.3. Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đối với cây xà lách</b>

<i><b>1.3.1. Nhiệt độ </b></i>

Xà lách là cây ưa lạnh, truy nhiên qua quá trình trồng trọt, chọn lọc và thuần hóa, ngày nay xà lách có thể trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau. Xà lách sinh trưởng, phát triển tốt ở 8- 25<small>0</small> C, nhiệt độ thích hợp nhất là 13-16<small>0</small> C. Ở 25<small>0</small> C, xà lách vẫn sinh trưởng tốt nhưng lá không cuộn, cứng và nhiều nhựa. [3]

<i><b>1.3.2. Ánh sáng </b></i>

Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho sự sống của cây. Đối với xà lách, ánh sáng thích hợp là ánh sáng vùng cận nhiệt đới với cường độ khoảng 17000 Lux và thời gian chiếu sáng khoảng 16giờ/ ngày. Cường độ chiếu sáng 17000 Lux không chỉ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp chất hữu cơ và giúp cây tăng nhanh sinh khối mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành nụ hoa. Để xà lách ăn lá sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao cần thời gian chiếu sáng từ 10 đến 12 giờ. [3]

<i><b>1.3.3. Chế độ nước </b></i>

Do có bộ lá lớn và tốc độ thoát nước cao nên xà lách rất cần nước cho sự phát triển. Tuy nhiên, nếu mưa kéo dài hay đất bị ngập úng sẽ ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, phát triển của cây xà lách. Độ ẩm thích hợp 70-80%. [3]

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i><b>1.3.4. Đất và chất dinh dưỡng </b></i>

Xà lách có bộ rễ chùm, ăn nông, không kén đất nhưng yêu cầu đất tơi xốp, thoát nước tốt, pH 5,8- 6,6 và yêu cầu hàm lượng dinh dưỡng cao. Sau trồng 30-50 ngày có thể thu hoạch được nên đòi hỏi phân dễ tiêu. Cần bón lót các loại phân hữu cơ chủ yếu như phân chuồng hoai mục, bánh dầu đậu phộng… để làm tăng chất lượng. Bón phân vơ cơ NPK 16:16:18 sẽ thích hợp để cây phát triển nhanh, tăng năng suất.[3]

<b>1.4. Quy trình canh tác</b>

Xà lách là loại rau ăn sống phổ biến, chất lượng rau ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng, do đó người trồng rau cần tuân thủ nghiêm ngặt quy trình trồng rau an tồn đối với các loại rau ăn sống.

<i><b>1.4.1. Giống xà lách </b></i>

- Ngồi các giống xà lách địa phương cịn có thể sử dụng giống xà lách của các công ty Đại địa, Công ty giống cây trồng miền Nam. Thời gian từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch khoảng 45- 50 ngày.

- Lượng hạt giống từ 90-100g/ sào. - Xà lách có 2 loại:

+ Xà lách trứng: lá trắng, chịu được mưa nắng, cuốn chắc. + Xà lách li ti: lá xanh, tán lớn, ít cuốn, xốp, chịu úng. [7]

<i><b>1.4.2. Thời vụ trồng </b></i>

Xà lách có thể trồng được quanh năm nhưng thông thường vụ Đông – Xuân cho năng suất cao (từ tháng 8 đến tháng 4 năm sau). Vào mùa mưa rất khó trồng do mưa nhiều, do đó cần có giàn che hạn chế mưa. [7]

<i><b>1.4.3. Làm đất </b></i>

Xà lách có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau nhưng mọc tốt nhất là đất tơi xốp, màu mỡ, thoát nước tốt. Đất trồng phải được chuẩn bị kĩ, làm sạch cỏ dại và các tàn dư cây trồng thuộc vụ trước. Cày phơi ải khoảng từ 3 đến 5 ngày trước khi lên luống.

Lên luống có bề rộng khoảng 0.8- 1m. Nếu mùa khô lên luống thấp 5-7cm, mùa mưa lên luống cao 20-30cm. [7]

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i><b>1.4.4. Gieo hạt và trồng cây </b></i>

- Xà lách được gieo sau đó mới chuyển cây con ra luống trồng. Tuổi cây con 15-20 ngày. Hạt giống cần xử lí bẳng nước ấm (2 sơi, 3 lạnh), sau đó được ủ qua đêm rồi mới đem gieo. Sau khi gieo hạt cần phủ lớp đất mỏng, hạt nhỏ hoặc có thể phủ thêm một lớp rơm rạ rồi tưới ẩm.

- Khoảng cách trồng: 10-15cm × 10-15cm.

<i><b>1.4.5. Phân bón </b></i>

- Phân chuồng hoai mục: 3.5-5 tạ/ sào. - Phân urê: 1.5- 2kg/ sào.

* Bón lót: Tồn bộ phân chuồng. Phân được bón vào đất trước khi cấy cây.

* Bón thúc: Sau cấy cây khoảng 10-15 ngày: hịa urê 2% (2g/ 1 lít) tưới quanh gốc, sau đó tưới đẫm nước để rửa lá. [7]

<i><b>1.4.6. Chăm sóc </b></i>

- Làm dàn che bằng lưới (mùa nắng giảm nhiệt). Thường xuyên chăm sóc, nhổ cỏ, tưới nước đủ ẩm.

- Tưới nước: trồng xong cần tưới nước ngay và tưới 1-2 lần/ ngày để giữ ẩm. Dùng thùng ơ doa hoặc vịi phun tưới nhẹ.

<i><b>1.4.7. Phòng trừ sâu bệnh </b></i>

Xà lách bị bệnh nhiều hơn sâu hại với các bệnh phổ biến như: bệnh thối nhũn cây, bệnh thối gốc…

<i><b>1.4.8. Thu hoạch và bảo quản </b></i>

- Tiến hành thu hoạch khi rau đủ tuổi, chú ý không để xà lách quá già nhất là vào mùa hè vì sẽ làm mất giá trị của rau. Nhổ bỏ các lá già gần gốc, rửa sạch gốc và xếp vào giỏ tránh làm dập lá.

<b>1.5. Tổng quan tài liệu về GA<small>3 </small></b>

<i><b>1.5.1. Lịch sử nghiên cứu về GA<small>3 </small></b></i>

Từ lâu người nông dân Nhật Bản đã thấy hiện tượng cây lúa cao sớm hơn bình thường. Họ nghĩ rằng đó là sự sinh trưởng tốt và sẽ có một mùa bội thu. Tuy nhiên, khi vụ mùa đến thì những cây này trở nên lỏng thỏng, bất thụ, hột lép.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Thay vì một mùa bội thu, 40% năng suất đã bị mất đi hàng năm do triệu chứng này. Bệnh này đã được người nông dân Nhận Bản gọi nhiều tên dựa theo triệu chứng quan sát được, vài tên thông dụng là bakanae (mạ ngu), ahonae (mạ khùng), yrei (ma), somennae …Thuật ngữ quen<small> </small>thuộc được dùng là mạ bakanae. Ở Việt Nam, triệu chứng này cũng rất dễ thấy ở lúa mùa. Vào<small> </small>năm 1898, Hori là người đầu tiên cho rằng bệnh Bakanae gây ra bởi sự xâm nhiễm của<small> </small>một loài nấm thuộc chi Fusarium (Hori, 1898). Sawada (1912) cho rằng sự vươn dài của lóng là do chất kích thích từ sợi nấm. Kurosawa (1926) chứng minh rằng chính chất được tiết ra bởi nấm Bakanae gây ra sự vươn dài. Năm 1931 khi Wollenweber

<i>đặt tên giai đoạn bất tồn (vơ tính) Fusarium moniliforme (Sheldon), và giai đoạn hồn tồn (hữu tính) Gibberella fujikuroi (Saw.) Wr. Vào năm 1935, Yabuta đã </i>

phân lập một chất dạng tinh thể có hoạt tính từ dịch lọc mơi trường thanh trùng

<i>nấm Gibberella fujikuroi. Chất này đã kích thích sự sinh trưởng khi được áp </i>

dụng vào rễ mạ lúa và được gọi là gibberellin A. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ gibberellin được dùng trong danh pháp khoa học. Yabuta và Sumiki (1938) đã thành cơng trong việc tinh thể hố gibberellin A và gibberellin B. Vào thập niên 1950, các nhà khoa học Anh, Mỹ và Nhật Bản đã có những nghiên cứu sâu hơn về đặc tính điều hòa sinh trưởng của gibberellic acid. Các gibberellic trong những dịch trích nấm đã được định danh và chúng cũng đã được phát hiện ở thực vật bậc cao. Vào năm 1954, những nhà nghiên cứu người Anh (Brian và cộng tác viên, 1954) đã nhận thấy những đặc tính điều hịa sinh trưởng của gibberelic acid

<i>từ dịch trích nấm Gibberella fujikuroi. Vào năm 1955, những nhà khoa học Mỹ </i>

đã nhận diện được chất mà họ gọi là gibberellin A và gibberellin X từ dịch trích

<i>mơi trường thanh trùng nấm Gibberella fujikuroi và xác định được cơng thức hóa học của nó là C19H22O6. Cũng vào năm 1955, những nhà khoa học Nhật Bản đã </i>

thấy rằng gibberellin A chứa ba hợp chất phân biệt được gọi là GA<small>1</small>, GA<small>2</small>, GA<small>3</small>. Ngày nay, gibberellic X, gibberellic acid và GA3 được biết là cùng hợp chất. Radley (1956) đã phát hiện ra những hợp chất tương tự với gibberellic acid trong thực vật bậc cao. Takahashi và cộng tác viên (1951), đã phát hiện GA<small>4</small> từ nấm Gibberella fujikuroi. MacMillan và Takahashi (1968) đã đề nghị cách gọi tên

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

gibberellin A1-Ax bất chấp nguồn gốc của chúng. Cách nầy vẫn còn dùng đến

<b>ngày nay cho khoảng 136 gibberellin đã được phát hiện. [8], [12] </b>

Như vậy, Gibberellin là nhóm phytohormone thứ hai được phát hiện sau auxin. Từ những nghiên cứu bệnh lý “bệnh lúa von” do loài nấm ký sinh ở cây

<i>lúa Gibberella fujikuroi (nấm Fusarium moniliforme ở giai đoạn dinh dưỡng) gây </i>

nên. [24 ]

Trong đó gibberellin A<small>3</small> (GA<small>3</small>) là acid gibberellic có tác dụng sinh lý mạnh nhất. Người ta đã tìm được gibberellin ở nhiều nguồn khác nhau như ở các loại nấm, ở thực vật bậc thấp và thực vật bậc cao. Gibberellin được tổng hợp trong phôi đang sinh trưởng, trong các cơ quan đang sinh trưởng khác như lá non, rễ non, quả non... và trong tế bào thì được tổng hợp mạnh ở trong lục lạp. Gibberellin vận chuyển không phân cực, có thể hướng ngọn và hướng gốc tùy nơi sử dụng. Gibberellin được vận chuyển trong hệ thống mạch dẫn với vận tốc từ 5- 25 mm trong 12 giờ. Gibberellin ở trong cây cũng tồn tại ở dạng tự do và dạng liên kết như auxin, chúng có thể liên kết với glucose và protein. [ 24]

<i><b>1.5.2. Vai trò và tác dụng của GA<small>3</small> đối với cây trồng </b></i>

Gibberellin được phát hiện lần đầu tiên bởi nhà khoa học người Nhật

<i>Kurosawa được sản sinh từ chủng nấm Gibberella fujikuroi. Về sau, gibberellin </i>

được tìm thấy ở hầu hết các loài thực vật chứng tỏ nó hoạt động như một hormone thực vật nội sinh tự nhiên. Các GA hoạt tính (trong đó có GA<small>3</small>) có tác dụng chính là kéo dài tế bào thơng qua việc phân hủy một nhóm protein kìm hãm sinh trưởng ở thực vật là DELLA protein. Ngoài ra, GA cịn có tác dụng kích thích nảy mầm hạt, kích thích ra hoa và hình thành quả khơng hạt. Trên thế giới, GA được sử dụng rộng rãi để tăng năng suất cây trồng do kéo dài thân hoặc tăng kích thước lá. Từ năm 1995, Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (nơi cấp phép cho các hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp) đã xếp GA<small>3</small> nằm ở nhóm chất độc nhóm 3 và nhóm 4, nghĩa là nhóm có độc tính nhẹ nhất và gần như không đáng kể. EPA cho phép sử dụng GA<small>3</small> ở Hoa Kỳ mà khơng hề có bất kỳ cảnh báo về ảnh hưởng của nó đối với môi trường cũng như vật nuôi và sinh vật hoang dã. [23]

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Ứng dụng cơ bản của chất điều hịa sinh trưởng thực vật nói chung và GA<small>3</small>

nói riêng khơng chỉ giới hạn trong việc điều chỉnh ra hoa ra trái mà cịn có thể tác động hầu hết các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhằm phục vụ yêu cầu của con người. Những kết quả nghiên cứu và các mô hình thực nghiệm ứng dụng GA<small>3</small>

trên cây trồng đã cho những hiệu quả rõ rệt. Những ứng dụng đó là:

<i><b>1/ Kích thích nhanh sự sinh trưởng của cây tăng chiều cao, tăng sinh khối </b></i>

Đây là lĩnh vực được ứng dụng phổ biến và quan trọng nhất của GA<small>3</small>. Với những cây trồng cần chiều cao như cây lấy sợi, cây mía…thì sử dụng GA<small>3</small>

(Gibberellin) đều có thể đạt mục đích. Phun dung dịch GA<small>3</small> nồng độ 20 – 50 ppm có thể làm chiều cao cây đay tăng gấp 2 lần. Phun GA<small>3</small> cho mía cũng làm tăng chiều dài lóng và tăng sản lượng rõ rệt. Đối với các cây bị đột biến lùn, xử lý GA<small>3</small> làm cây trở nên cao bình thường.

Với các cây rau, việc tăng sinh khối có ý nghĩa rất quan trọng vì làm tăng sản lượng nơng sản thu hoạch. Để đạt mục đích này thường sử dụng các chất kích thích sinh trưởng Auxin và GA<small>3</small>. Phun dung dịch Auxin hoặc GA<small>3</small> cho các loại rau ăn lá đều làm tăng năng suất rất nhiều so với đối chứng. [18]

<i><b>2/ Tăng kích thước và năng suất quả </b></i>

Đây là hướng ứng dụng rất quan trọng đối với các cây ăn quả. Đối với cây nho, việc xử lý GA<small>3</small> là biện pháp phổ biến ở nhiều nước để làm tăng năng suất và phẩm chất nho. Ở Mỹ và Nhật từ năm 1952 đã bắt đầu dùng GA<small>3</small> trong nghề trồng nho. [18]

<i><b>3/ Kích thích sự ra rễ phụ của cành giâm, cành chiết </b></i>

Hướng này được ứng dụng vào việc nhân giống vơ tính cây trồng. Nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu cơ sở sinh lý của sự tái sinh rễ phụ và ứng dụng vào việc nhân giống vơ tính nhiều loại cây ăn quả, cây cơng nghiệp, cây cảnh, cây làm thuốc. Chất điều hòa sinh trưởng có hiệu quả cao và thường sử dụng để kích thích ra rễ là các Auxin như NAA, AIB, 2,4D, GA<small>3</small>… Nồng độ xử lý tùy thuộc vào phương pháp xử lý, vào đối tượng cây trồng và mùa vụ xử lý. [18]

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i><b>4/ Điều khiển sự ngủ nghỉ của cơ quan thực vật </b></i>

Người ta đã sử dụng chất điều hòa sinh trưởng thực vật để phá bỏ thời gian ngủ nghỉ của hạt, củ và căn hành tùy theo mục đích của mình.

Để phá bỏ trạng thái ngủ nghỉ thường sử dụng chất GA<small>3</small>. Khi xâm nhập vào cơ quan đang ngủ nghỉ, GA<small>3</small> sẽ làm mất cân bằng hormon lệch về phía thuận lợi cho sự nảy mầm. Việc phá ngủ nghỉ cho củ khoai tây mới thu hoạch bằng GA<small>3</small> đã được ứng dụng từ khá lâu ở nhiều nước và ở nước ta. Trường Đại Học Nông Nghiệp I ở Hà Nội đã nghiên cứu thành công biện pháp phá ngủ nghỉ cho củ khoai tây thu hoạch vụ Đơng để có mầm kịp trồng cho vụ Xuân bằng phun dung dịch GA<small>3</small>. Kết quả tỷ lệ nảy mầm hạt trên 90% trong 5 – 7 ngày. Nếu xử lý GA3 kết hợp với nhiệt độ thấp (7 – 10<small>o </small>C) thì có thể phá ngủ nghỉ cho bất kỳ đối tượng ngủ nghỉ nào. [18]

<i><b>5/ Điều chỉnh sự ra hoa của cây </b></i>

Việc sử dụng cất điều hòa sinh trưởng để kích thích sự ra hoa sớm của cây cũng là một ứng dụng phổ biến và có hiệu quả trong trồng trọt.

Người ta cũng xử lý GA<small>3</small> kích thích cho xà lách, bắp cải, xu hào…ra hoa để lấy hạt trong điều kiện nhiệt độ cao, không cần qua nhiệt độ thấp của mùa đông, hạt vẫn đạt tỷ lệ mầm cao.

Chất điều hòa sinh trưởng cũng được sử dụng để tăng số lượng hoa, rút ngắn thời gian ra hoa ở cây cảnh (cúc, huệ, loa kèn, lay ơn…). Trường Đại Học Nông Nghiệp I Hà Nội xử lý GA<small>3</small> phối hợp nhiệt độ thấp cho cây loa kèn ra hoa sớm 1 – 2 tháng, làm tăng hiệu quả kinh tế lên rất nhiều.

Cây cà phê thường ra hoa kéo dài trong nhiều tháng làm cho thời gian chín của trái cũng kéo dài, gây khó khăn cho việc thu hoạch. Tại Bảo Lộc (Lâm Đồng) đã phun GA<small>3</small> vào giai đoạn hoa bắt đầu hình thành đã làm cho 80% hoa nở tập trung trong thời gian ngắn 15 – 20 ngày. [18]

<i><b>6/ Điều chỉnh giới tính của hoa </b></i>

Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng nếu xử lý GA<small>3</small> sẽ kích thích sự hình thành hoa đực, sự phát triển của bao phấn và hạt phấn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Xử lý GA<small>3</small> cho bầu, bí, các loại dưa… làm tăng tỷ lệ hoa đực. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc sản xuất hạt lai của các cây họ bầu bí. Người ta có thể biến một hàng thành cây mang hoa cái và xen một hàng là cây mang hoa đực. Chúng thụ tinh cho nhau tạo nên hạt lai. [18]

<i><b>7/ Hạn chế sự rụng của lá, hoa và quả </b></i>

Sự rụng lá, nụ, hoa và quả là do hình thành tầng rời ở cuống lá, nụ, hoa và quả. Sự hình thành tầng rời là do tác dụng của các chất ức chế sinh trưởng như AAB, Ethylen… Những chất này lại bị ức chế bởi các chất kích thích sinh trưởng, nhất là Auxin để làm thay đổi sự cân bằng hormon trong cơ quan theo hướng khơng thuận lợi cho sự hình thành tầng rời.

Để hạn chế hiện tượng rụng quả non người ta phun lên nụ hoa hoặc quả non dung dịch GA<small>3</small> hoặc Auxin (NAA, 2,4D). Có thể phun các chất kích thích này khi quả lớn để hạn chế rụng quả trước khi thu hoạch. [18]

<i><b>8/ Tăng đậu quả và tạo quả không hạt </b></i>

Sau khi thụ tinh sẽ hình thành phơi. Phơi sinh trưởng là trung tâm sinh sản ra các chất kích thích sinh trưởng có bản chất Auxin và GA<small>3</small>. Các chất này khuếch tán vào bầu nhụy và kích thích bầu lớn lên thành quả. Vì vậy, nếu khơng được thụ tinh thì hoa sẽ rụng.

Trong tự nhiên, ở nhiều loại cây, do nhiều lý do mà tỷ lệ hoa không thụ tinh rất cao, có khi tới trên 905 (nhãn, vải, vú sữa, chôm chôm…), phần lớn hoa sẽ rụng, quả ít. Nếu xử lý thêm Auxin và GA<small>3</small> cho hoa trước khi thụ tinh thì có thể thay thế được nguồn Phytobormon nội sinh từ phôi làm cho quả được hình thành mà khơng cần thơng qua thụ tinh, quả có hạt lép hoặc khơng có hạt. Ngồi ra, GA<small>3</small> cịn hạn chế sự hình thành tầng rời, do đó cũng góp phần hạn chế sự rụng hoa, rụng quả.

GA<small>3</small> làm tăng số hoa đực trên dưa leo. GA<small>3</small> cũng gây nên hiện tượng trinh quả sinh và tạo nên trái khơng hột. Hiện nay, sử dụng các chất kích thích sinh trưởng Auxin và GA<small>3</small> làm tăng đậu quả và quả không hạt là biện pháp được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đối với nhiều loại cây trồng như nho, táo, cam, chanh, cà chua, bầu bí….. Với nho, sử dụng GA<small>3</small> (5 – 20 ppm), với táo dùng GA<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

(400 ppm) hoặc phối hợp GA<small>3</small> (250 ppm) với Auxin (10 ppm). Với cà chua, bầu bí, có thể sử dụng GA<small>3</small> từ 20 –50 ppm tùy theo từng loại cây trồng. [18]

<i><b>9/ Điều chỉnh sự chín của quả </b></i>

Người ta cịn sử dụng GA<small>3</small> để làm chậm sự chín của quả, kéo dài thời gian tồn tại của quả trên cây để làm giãn thời vụ thu hoạch ồ ạt không đủ điều kiện bảo quản, tăng thời gian cung cấp quả tươi cho thị trường, nâng cao giá thành nông sản.

GA<small>3</small> cũng giúp cho trái to và trì hỗn sự lão hóa. Các loại trái nho khơng hột ở Nhật, Úc, Mỹ và châu Âu thường có xử lý GA<small>3</small>. Bằng cách giảm lão hóa, GA<small>3</small> giữ cho vỏ trái cam quít tươi lâu hơn, chậm mềm khi chín và kéo dài thời gian bảo quản hơn. GA<small>3</small> cũng làm cho vỏ táo đẹphơn, cây kiểng trổ hoa sớm và tập trung.

Thường phun chất kích thích sinh trưởng GA<small>3</small> nồng độ 10 ppm lên lá và quả khi quả già sắp chín. Đối với chanh, phun GA<small>3</small> nồng độ 40 ppm có thể làm chậm thời gian thu hoạch hàng tháng. [18]

<i>10/ Tăng tính chống chịu của cây trồng với các điều kiện bất lợi môi </i>

<i><b>trường </b></i>

Ở miền Bắc nước ta dùng GA<small>3</small> phun cho mạ để chống ngập úng do mạ phát triển nhanh và tăng chiều cao. [18]

<i><b>11/ Kích thích hoạt tính của enzyme trong kỹ nghệ sản xuất men bia </b></i>

GA<small>3</small> có khả năng kích thích nảy mầm của hạt lúa mì, mạch, lúa, ngơ, làm tăng hàm lượng và hoạt tính của enzyen thủy phân tinh bột. Cứ 1 tấn đại mạch cần đến 500 mg đến 1 g GA<small>3</small>. Chi phí làm men rút ngắn từ 8 ngày xuống còn 5 ngày. Đặc biệt đối với các lơ hạt có độ nảy mầm kém hoặc vào lúc thời tiết khơng thuận lợi thì hiệu quả càng rõ. Hiện nay kỹ thuật sử dụng GA<small>3</small> trong nghề làm bia được thực hiện ở hầu hết các hãng bia lớn trên thế giới. Khoảng 50% tổng số GA<small>3</small> sản xuất trên thế giới được sử dụng trong công nghiệp rượu bia. [18]

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i><b>12/ Điều khiển sự phát sinh rễ và chồi trong nuôi cấy mô </b></i>

Kỹ thuật nuôi cấy mô để nhân giống thực vật đang được áp dụng đối với nhiều loại cây trồng. Trong kỹ thuật nuôi cấy mô, thường sử dụng GA<small>3</small> và các

<i><b>Auxin khác để điều khiển sự phát sinh mô sẹo và rễ. [18] </b></i>

<i><b>1.5.3. Cơ chế tác dụng của Gibberellin</b></i>

Một trong những q trình có liên quan đến cơ chế tác động của gibberellin được nghiên cứu khá kỹ là hoạt động của enzyme thủy phân trong các hạt họ lúa nảy mầm. Gibberellin gây nên sự giải ức chế gen chịu trách nhiệm tổng hợp các enzyme này mà trong hạt đang ngủ nghỉ chúng hoàn toàn bị trấn áp bằng các protein histon. Gibberellin đóng vai trò như là chất cảm ứng mở gen để hệ thống tổng hợp protêin enzyme thủy phân hoạt động. Ngồi vai trị cảm ứng hình thành enzyme thì gibberellin cịn có vai trị kích thích sự giải phóng các enzyme thủy phân vào nội nhũ xúc tiến quá trình thủy phân các polime thành các monome kích thích sự nảy mầm của các loại hạt. [17]

Gibberellin xúc tiến hoạt động của auxin, hạn chế sự phân giải auxin do chúng có tác dụng kìm hãm hoạt tính xúc tác của enzyme phân giải auxin (auxinoxydase, flavinoxydase), khử tác nhân kìm hãm hoạt động của auxin.

Cơ chế kích thích giãn của tế bào bởi gibberellin cũng liên quan đến hoạt hóa bơm proton như auxin. Tuy nhiên các tế bào nhạy cảm với auxin và gibberellin khác nhau có những đặc trưng khác nhau. Ðiều đó liên quan đến sự có mặt các nhân tố tiếp nhận hormone khác nhau trong các kiểu tế bào khác nhau. [23]

Axít gibberellic là một hc mơn rất hiệu lực mà sự tồn tại tự nhiên của nó trong thực vật kiểm soát sự phát triển của chúng. Do các GA<small>3</small> điều chỉnh sự phát triển của thực vật, nên các ứng dụng với nồng độ rất thấp có thể có hiệu quả sâu rộng trong khi quá nhiều thì lại có tác động ngược lại. Nó thơng thường được dùng ở nồng độ khoảng 0,01-10 mg/L.

GA<small>3</small> là một hoạt chất có trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được phép sử dụng ở Việt Nam. Hiện nay trong danh mục GA<small>3</small> được đăng ký sử dụng trên nhiều loại rau như cải bắp, rau cải, cà chua, dưa chuột, cần tây, bầu bí,

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

đậu cove, đậu đũa, cà rốt … với 33 thương phẩm ở dạng đơn và 7 thương phẩm ở dạng hỗn hợp. Hoạt chất điều hòa sinh trưởng Gibberellin GA<small>4</small> và GA<small>7</small> chưa đăng kí trong Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam.

* Độc lý của GA<small>3</small>

GA<small>3</small> là hoạt chất BVTV sinh học thuốc nhóm độc U (ít độc) theo phân loại của WHO có độc cấp tính (LD50 ) đường miệng > 10.000 mg/kg (chuột), đường da >2000 mg/kg (chuột), đường hô hấp > 0.502 mg/L (chuột trong 4 giờ). GA<small>3</small> gây kích thích mắt nhẹ, khơng có khả năng gây kích thích da, không gây dị ứng, ung thư, quái thai, gây đột biến gen, không gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. GA<small>3</small> không độc với cá, động vật thủy sinh, ong, chim và động vật hoang dã. Khơng tích lũy trong mơ, trong q trình chuyển hóa trong cây, trong đất và trong điều kiện tự nhiên. [26]

* Mức dư lượng tối đa cho phép (MRLs) của GA<small>3</small> trong nông sản:

Hiện nay các nước quy định khác nhau về MRLs của GA<small>3</small> trong nông sản. Ở Việt Nam MRLs của GA<small>3</small> trong nơng sản chưa có trong Qui định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm ban hành kèm theo Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 của Bộ Y tế; Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm (Codex Alimentarius Commission) của FAO và Mỹ không qui định MRLs cho GA<small>3</small> trong nông sản khi sử dụng liều lượng theo đúng hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc; Nhật Bản qui định 0,2 mg/kg; Đài Loan và EU qui định 5 mg/kg trong các loại rau ăn lá. [26]

<i><b>1.5.4. Nguyên tắc và phương pháp sử dụng chất điều hòa sinh trưởng GA<small>3</small></b></i>

<i><b>* Nguyên tắc sử dụng </b></i>

Khi sử dụng gibberellin chúng ta cần phải áp dụng theo 4 nguyên tắc sau:

<i>Nguyên tắc về nồng độ: hiệu quả của chất điều hòa sinh trưởng lên cây </i>

trồng hoàn toàn vào nồng độ sử dụng. Nồng độ thấp thường có hiệu quả kích thích, nồng độ cao thường gây hiệu quả ức chế, còn nồng độ rất cao có thể gây chết. Tùy theo chất sử dụng và loại cây trồng mà nồng độ kích thích, ức chế và hủy diệt khác nhau. Vì vậy, tùy theo mục đích sử dụng mà người ta chọn nồng độ xử lí khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i>Nguyên tắc không thay thế: các chất điều hịa sinh trưởng chỉ có tác dụng </i>

hoạt hóa q trình trao đổi chất và sinh trưởng mà khơng có ý nghĩa về dinh dưỡng nên không thể thay thế chất dinh dưỡng. Muốn áp dụng đạt kết quả tốt cầ phải thoải mãn nhu cầu dinh dưỡng và cung cấp đầy đủ nhu cầu nước cho cây.

<i>Nguyên tắc đối kháng sinh lí: Khi xử lý các chất ngoại sinh phải quan tâm </i>

đến các phytohormon trong cây có hoạt tính sinh lí đối kháng nhau thì mới có hiệu quả tốt được. Sự đối kháng thường xảy ra giữa chất kích thích và chất ức chế sinh trưởng. Ví dụ xử lí GA<small>3</small> thúc đẩy nảy mầm cần quan tâm đến hàm lượng abcixic acid trong cây. [14]

<i><b>1.5.5. Tình hình nghiên cứu về GA<small>3</small> trên cây rau </b></i>

Trong lĩnh vực sản xuất rau, trên thế giới có nhiều cơng trình và nhiều tác giả nghiên cứu về rau bao gồm về giống, kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật và ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất giống rau, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Trong kỹ thuật canh tác, một trong những biện pháp được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng đó là sử dụng chất điều hịa sinh trưởng GA<small>3</small>. Nhiều kết quả nghiên cứu việc sử dụng GA<small>3</small> trên các loại rau đều cho kết quả là làm tăng năng suất quả, tăng sinh khối của các loại rau ăn lá và không gây độc hại cho con người và gây ô nhiễm môi trường. George Tsiakaras và Spyridon A. Petropoulos (2004) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của GA<small>3</small> và Nitrogen được sinh ra và khả năng sử dụng của cây xà lách. Trong quá trình canh tác, người ta thấy GA<small>3</small> 25 mg/l làm cây tăng số lượng lá, chiều cao cây và trọng lượng cây. [27]

Trên cây rau, đặc biệt là các loại rau ăn lá (xà lách, cải cúc, các loại rau cải,…), nhiều tác giả đã nghiên cứu và cho thấy việc phun GA<small>3</small> đều giúp tăng năng suất, thời gian thu hoạch sớm hơn và có hiệu quả kinh tế.

Thực tế, tại nhiều vùng trồng rau trong cả nước, nông dân đã sử dụng GA<small>3</small>

để phun cho cây trồng của mình, tuy nhiên đa số phun theo khuyến cáo của người bán và đôi lúc đã phản tác dụng mà trong thời gian qua báo chí và các đài truyền hình đã đưa tin.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Các nghiên cứu của nhiều tác giả cũng cho thấy rằng việc sử dụng GA<small>3</small> trên cây rau ở nồng độ từ 10 - 30ppm cho kết quả tối ưu nhất, tuy nhiên trên từng loại rau, trên từng vùng sinh thái và trong từng thời vụ thì việc phun GA<small>3</small> ở nồng độ bao nhiêu chưa được khuyến cáo cụ thể.

Kết quả nghiên cứu của tác giả Võ Thị Phượng, Trường Đại học Đồng Tháp khi nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trường IAA và GA<small>3</small> đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất cây cà chua tại tỉnh Đồng Tháp cho thấy cà chua có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt khi xử lý phối hợp hoặc riêng lẽ IAA và GA<small>3</small>. Kết quả tốt nhất khi kết hợp IAA + GA<small>3</small>, năng suất đạt cao nhất, cao hơn khi xử lý riêng rẽ và cao hơn đối chứng có ý nghĩa so sánh. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất đều đạt cao nhất, khơng có dư lượng gây độc hại cho con người. [11]

Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Rau quả cũng cho thấy khi phun GA<small>3</small> cho bắp cải, rau cải các loại với nồng độ dao động trong khoảng 20 -100 ppm làm tăng năng suất rõ rệt. Đối với cải trắng khi cây bén rễ sau cấy có thể phun GA<small>3</small> ở nồng độ 20 ppm. Phun ba lần mỗi lần cách 2 ngày. Một tháng sau lại tiếp tục phun ba lần tương tự, sẽ làm tăng sinh khối rau rõ rệt. Đối với một số loại rau cải xanh có thể phun trước thu hoạch 2 tuần ở nồng độ 50-199 ppm (phun 2 lần). Tăng năng suất rõ rệt. Cũng có thể phun khi cây mới có 5-6 lá, phun 2-3 lần với nồng độ 20-30 ppm. Trong sản xuất giá đậu, để làm nảy mầm đều, tăng năng suất giá đậu, có thể ngâm hạt một đêm trong dung dịch GA<small>3</small> 10 ppm. [15]

Kết quả nghiên cứu của Viện KHKTNN Miền Nam khi nghiên cứu xử lý các chất điều hòa sinh trưởng trên cây rau muống nước cũng cho thấy: [16]

- Về sinh trưởng: giữa các nghiệm thức thí nghiệm so với đối chứng khơng có sự khác biệt. Riêng Progibb 10 SP (GA<small>3</small>) 1g/20ml nước phun vào lúc 18 ngày sau trồng có sự khác biệt so với đối chứng

- Về chất khô và năng suất: Năng suất cây rau muống nước ở các nghiệm thức phun thuốc kích thích tăng trưởng tăng cao hơn so với đối chứng 10 %.

- Về dư lượng: Không phát hiện Gibberellic acid ở nghiệm thức Progibb 10 SP và đối chứng ở giai đoạn 1, 3 ngày sau phun.

</div>

×