Tải bản đầy đủ (.pdf) (216 trang)

Luận Án Tiến Sĩ Nghệ Thuật Nghệ Thuật Trang Trí Ở Lăng Thiệu Trị - Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.03 MB, 216 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH </small>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b> </b>

<b>Nguyễn Vũ Lân </b>

<b>NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ Ở LĂNG THIỆU TRỊ - HUẾ </b>

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

<b> </b>

<b>Tp. Hồ Chí Minh, 2023 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH </small>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b>Nguyễn Vũ Lân </b>

<b>NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ Ở LĂNG THIỆU TRỊ - HUẾ </b>

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ với đề tài Nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị - Huế là cơng trình nghiên cứu do tơi thực hiện, các thống kê, </i>

số liệu, trích dẫn và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và có nguồn xuất xứ rõ ràng.

<i>Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 5 năm 2023 </i>

<b>Tác giả luận án </b>

<b>Nguyễn Vũ Lân </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ... 7</b>

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 8</b>

<b>4. Câu hỏi nghiên cứu... 8</b>

<b>5. Giả thuyết nghiên cứu ... 9</b>

<b>6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ... 9</b>

<b>7. Những đóng góp mới của luận án ...11</b>

<b>8. Kết cấu của luận án ...12</b>

<b>Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ Ở LĂNG THIỆU TRỊ... 13</b>

<b>1.1. Cơ sở lý luận và một số khái niệm về vấn đề nghiên cứu ...13</b>

<b>1.2. Khái quát về mỹ thuật thời Nguyễn, lăng Thiệu Trị và một số cơng trình liên quan ...24</b>

<b>1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về mỹ thuật thời Nguyễn và nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị ...43</b>

<b>Chương 2NHẬN DIỆN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ Ở LĂNG THIỆU TRỊ592.1 Nhận diện nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị thơng qua nội dung đề tài chủ đạo. ...60</b>

<b>2.2. Nhận diện nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị từ hình thức thể hiện bố cục “Nhất thi, nhất họa”, “Nhất tự, nhất họa” ...73</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>2.3. Hình thức biểu đạt nghệ thuật trang trí qua các chất liệu ở lăng Thiệu Trị ...80</b>

<b>LĂNG THIỆU TRỊ, LUẬN BÀN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ... 1053.1. Đặc điểm nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị qua yếu tố dân gian DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ... 153TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 154MỤC LỤC PHỤ LỤC ... 164</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Nghệ thuật triều Nguyễn (1802 - 1945) đã được hình thành và phát triển trải qua chặng đường dài lịch sử, tạo nên một diện mạo kiến trúc cung đình, lăng tẩm rất đặc trưng trên đất Huế. Những di sản văn hóa và các giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình là sự kết tinh cơng sức, trí tuệ và thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân của cả nước. Các đề tài trong nghệ thuật phong kiến nói chung ln hàm chứa tính đa nghĩa tượng trưng bên cạnh các ý nghĩa tâm linh, thẩm mỹ khác nhau. Đặc biệt đối với thời Nguyễn, ý nghĩa đề tài thể hiện ra rõ nét khi chúng được đặt trong những quan hệ với không gian mà các nghệ nhân thời Nguyễn đã đưa vào sử dụng.

Về tương quan nghệ thuật, thời Nguyễn lấy Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo, đồng thời dung hòa với nghệ thuật dân gian, đan xen với yếu tố nghệ thuật khác như nghệ thuật Phật giáo, Champa… Nghệ thuật thời Nguyễn đã thể hiện qua nhiều chủ đề tư tưởng, kiểu thức trang trí, điêu khắc, hội họa, tất cả làm cho diện mạo tạo hình trở nên đặc sắc và phong phú. Nghệ thuật thời Nguyễn được nhìn nhận trên hai bình diện là nghệ thuật trang trí cung đình và dân gian. Từ đó đã phản ánh diện mạo của một kinh đô trong quá khứ với các kiểu thức trang trí qua các chất liệu chủ đạo như: nề, đồng, đá, gỗ, gốm, pháp lam… Dưới thời Nguyễn, kiến trúc thường rất quy mô, cấu trúc tuân thủ những nguyên tắc kết cấu qua đề tài, chủ đề và kiểu thức của các loại hình kiến trúc, bên cạnh đó còn phải tuân theo nguyên tắc phong thủy liên quan đến các thực thể địa lý tự nhiên như sông, núi, ao hồ, khe suối… Những đặc điểm ấy đã được nhận thấy thông qua hệ thống kiến trúc trang trí thời Nguyễn. Cấu trúc lăng thường có la thành, nghi môn, tượng chầu hai bên, trụ biểu, nhà bia, hồ, cầu, điện, cổng tam quan… được thể hiện một cách hợp lý, hài hòa và đầy sinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

động. Trong đó việc lựa chọn các hoa văn họa tiết kiến trúc là vấn đề mà các nghệ nhân đặt lên hàng đầu trong việc đưa vào trang trí cung đình.

Một trong những nét nổi bật của nghệ thuật thời Nguyễn là nghệ thuật kiến trúc cung điện và lăng tẩm, góp phần tạo nên một hình hài đặc sắc của mỹ thuật Nguyễn và đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong mỹ thuật của dân tộc. Trong hệ thống lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, sau hai lăng của các vua tiền nhiệm là lăng vua Gia Long và lăng vua Minh Mạng, đến lăng vua Thiệu Trị có những nét chuyển đổi một cách vượt bậc trong nghệ thuật tạo hình trang trí, tạo cho kiến trúc lăng mang một nét khác lạ riêng biệt, trang nhã, lãng mạn. Quá trình xây dựng lăng Thiệu Trị, vua Tự Đức kết hợp một số nghệ thuật kiến trúc hai lăng trước đó để đưa ra đồ án tối ưu khi xây dựng lăng.

Lăng Thiệu Trị (Xương lăng) cách trung tâm thành phố Huế khoảng 11km về phía Tây Nam. Đây là lăng thứ ba trong hệ thống kiến trúc lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, trước đó có lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, về sau cịn có các lăng như: lăng Tự Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định… Có một điểm chung là tất cả các lăng vua đều nằm ở phía tây thành phố Huế, nơi mặt trời lặn (khuất núi) biểu thị ẩn dụ về cõi vĩnh hằng. Quá trình xây dựng lăng Thiệu Trị chỉ trong vòng chưa đầy 10 tháng (1848) đã hồn tất các cơng trình chủ yếu và vua Thiệu Trị được an táng tại chân một dãy núi thấp tên là núi Thuận Đạo, thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy. Lăng được xây dựng thành hai tiểu khuôn viên song song với khoảng cách chừng 100m trên núi Thuận Đạo, tổng diện tích là 475 ha. Phía trước là dịng sơng Hương chảy qua tạo cho kiến trúc lăng hòa hợp với thiên nhiên, thơ mộng, từ xa có đồi Vọng Cảnh và núi Ngọc Trản hình thành thế phong thủy rồng chầu, hổ phục.

Kiến trúc lăng Thiệu Trị được thể hiện bởi ngôn ngữ kiến trúc, phong thủy khá riêng biệt, mang ý nghĩa thâm sâu qua từng chi tiết về bố cục, đề tài, kiểu thức hoa văn trang trí hịa quyện vào thiên nhiên. Với triết lý dung hòa

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

giữa đạo và đời, khiến cho kiến trúc lăng không chỉ giàu tính nghệ thuật mà còn là dấu ấn cõi trần của người đã khuất.

Khi xây dựng lăng triều đình đã có những cải tạo, biến đổi một phần không gian để thích ứng với địa hình, địa mạo, lẫn nguyên vật liệu chế tác, thích hợp với khí hậu, thời tiết. Do điều kiện hết sức hạn hẹp về sức người và sức của, khi xây dựng lăng triều đình cho tận dụng thiên nhiên xung quanh và những gì có sẵn để trang trí, vì vậy mà ở lăng, từ kiến trúc đến trang trí cho ta thống nhìn rất đơn sơ, giản dị, nhưng khi chuyên sâu vào từng mảng hoa văn, họa tiết và chất liệu trang trí mới thấy được sự phát triển nghệ thuật một cách khác lạ so với các lăng tẩm thời Nguyễn khác.

Lăng Thiệu Trị có những nét riêng biệt góp phần trong việc tạo dựng phong cách nghệ thuật trang trí thời Nguyễn phong phú hơn. Tuy nhiên, cho đến nay các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước chưa quan tâm và đề cập nhiều đến vấn đề này, nếu có chỉ mang tính khái qt về lịch sử, văn hóa. Việc nghiên cứu, đánh giá nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị từ trước tới nay vẫn chưa được đi sâu một cách đầy đủ, toàn diện những giá trị riêng biệt, độc đáo và rất xứng đáng được trân trọng lưu giữ. Nghệ thuật trang trí thể hiện rất rõ nét một phần dấu ấn đặc trưng của lăng Thiệu Trị và những giá trị sáng tạo của các nghệ nhân cung đình thế kỉ XIX trong chặng đường dài của lịch sử là vô cùng to lớn. Điều này cho thấy việc đi sâu nghiên cứu, khẳng định, làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị là điều rất cần thiết.

Từ những vấn đề đặt ra và hướng tiếp cận trên, nghiên cứu sinh (NCS)

<i><b>chọn đề tài Nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị - Huế để nghiên cứu, góp </b></i>

thêm tiếng nói trong việc phát huy và gìn giữ các giá trị nghệ thuật, hướng đến vận dụng trong bảo tồn, trùng tu nghệ thuật lăng Thiệu Trị đang được đặt ra cấp thiết hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Mục đích nghiên cứu </b></i>

Dựa trên cơ sở lý thuyết mỹ thuật học, luận án xác định và phân tích nghệ thuật tạo hình trang trí mang tính đặc thù ở lăng Thiệu Trị - Huế. Qua đó khẳng định vị trí của kiến trúc lăng Thiệu Trị với sự tiếp nối của mỹ thuật thời Nguyễn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX trong dòng chảy mỹ thuật truyền thống dân tộc.

Luận án hướng đến đúc kết và thực tiễn để phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và là nguồn dữ liệu tham khảo trong hoạt động phục hồi, trùng tu, tôn tạo công trình kiến trúc lăng Thiệu Trị trong quần thể kiến trúc lăng tẩm thời Nguyễn tại Huế.

<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>

Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị

Tìm hiểu nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị với các mơ típ trang trí, phong cách, hình tượng, đặc trưng, ý nghĩa nhân văn và tính tượng trưng của các đề tài.

Xác định những giá trị tạo hình độc đáo, tiêu biểu trong trang trí kiến trúc lăng vua Thiệu Trị; đối chiếu, so sánh giá trị nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị với các hệ thống lăng tẩm khác dưới thời Nguyễn, qua đó làm rõ những nét riêng biệt và những đóng góp của di sản kiến trúc này.

Xây dựng luận cứ khoa học trong hoạt động trùng tu, tôn tạo lăng Thiệu Trị nói riêng cũng như các di sản kiến trúc thời Nguyễn ở Huế nói chung trong tương lai, qua đó góp phần vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa Cố đơ Huế đã được thế giới vinh danh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Luận án tập trung nghiên cứu nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị - Huế từ các khía cạnh: các chất liệu tạo hình, đề tài và hiệu quả của nghệ thuật trang trí.

<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

<i>Về phạm vi không gian nghiên cứu </i>

Luận án nghiên cứu nghệ thuật trang trí ngoại thất, nội thất gắn liền với kiến trúc, bao gồm các chất liệu trang trí, hội họa, điêu khắc, ở lăng Thiệu Trị, Huế.

Tuy nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp dưới góc độ nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị, luận án nghiên cứu ở một số cơng trình lăng tẩm thời Nguyễn khác ở Huế dưới góc nhìn liên hệ, so sánh.

<i>Về phạm vi thời gian nghiên cứu </i>

Luận án tập trung nghiên cứu nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị, tuy nhiên khi phân tích những vấn đề liên quan, NCS mở rộng phạm vi thời gian về trước và sau để đưa ra những nhận định, đánh giá về các giá trị nghệ thuật, yếu tố tạo hình trang trí ở lăng Thiệu Trị.

<b>4. Câu hỏi nghiên cứu </b>

Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu của luận án, NCS đã đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu sau:

Nghệ thuật trang trí thời Thiệu Trị có những đặc điểm nổi bật gì so với trang trí lăng tẩm khác dưới thời Nguyễn?

Nho giáo là tư tưởng chủ đạo, nhưng tại sao Phật giáo và Đạo giáo có ảnh hưởng khá rõ nét đến nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị? Khơng chỉ tác động đến nghệ thuật trang trí ở lăng mà yếu tố Phật giáo còn in đậm nét trong hệ thống trang trí kiến trúc qua ý nghĩa đề tài và cách thức thể hiện?

Yếu tố Champa đã xuất hiện như thế nào trên các cơng trình kiến trúc trang trí lăng Thiệu Trị?

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Nét đặc sắc và nổi bật của nghệ thuật trang trí dân gian ở lăng Thiệu Trị đã thể hiện sự tiếp biến và tương tác qua lại giữa các yếu tố văn hóa trực tiếp liên quan như thế nào?

<b>5. Giả thuyết nghiên cứu </b>

Luận án chỉ ra phong cách riêng của nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị so với các lăng tẩm khác thời Nguyễn qua nghệ thuật nề họa, pháp lam, chạm khắc gỗ thô mộc, đồ đồng nổi bật và tiêu biểu nhất, hệ thống bát bửu đan xen nhau theo lối bố cục “Nhất thi, nhất họa” chạm nổi trên chất liệu gỗ nhiều nhất… Những đặc trưng của nghệ thuật thời Thiệu Trị đã phản ánh được giá trị thẩm mỹ, yếu tố tạo hình trang trí, hình thức biểu hiện, hay các chủ đề. Đặc điểm riêng về nghệ thuật tạo hình, kiến trúc, mơ típ trang trí hoa văn có sự ảnh hưởng của văn hóa Champa hay Trung Hoa và q trình Việt hóa.

Ảnh hưởng Phật giáo trong nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị đã tạo nên một nét độc đáo của nghệ thuật trang trí thời Nguyễn. Những hoa văn trang trí được chọn lọc một cách hài hòa, mang tính gắn kết sâu sắc với tư tưởng của Phật giáo. Từ đó làm sáng tỏ các giá trị tư tưởng và đặc trưng nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị.

Tính dân gian trong trang trí lăng Thiệu Trị đã góp phần vào sự hình thành phong cách tạo hình, bố cục, khơng gian họa tiết một cách gần gũi với đời sống. Điều này cho thấy, nghệ thuật trang trí dân gian đã tạo được ấn tượng, đồng thời làm tăng thêm tính chất đặc trưng trong trang trí kiến trúc lăng.

<b>6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu </b>

<i><b>6.1. Phương pháp luận </b></i>

Trên cơ sở nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật, từ các phương pháp luận, đề tài

<i>luận án nhìn nhận đối tượng nghiên cứu nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị </i>

về tổng thể là một hiện tượng văn hóa nghệ thuật lịch sử, ở đó thể hiện sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

tương tác giữa các lĩnh vực mỹ thuật - kiến trúc đã và đang tồn tại khách quan và nằm trong mối quan hệ tổng thể với những phương diện khác...

Coi trọng sự trải nghiệm khảo sát trên thực địa và việc tiếp cận các vấn đề lý thuyết của các học giả trong và ngoài nước, kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình đi trước, trên cơ sở đó vận dụng hài hịa giữa lý thuyết và thực tiễn vào giải quyết các vấn đề khoa học của luận án.

<i><b>6.2. Cách tiếp cận </b></i>

Xuất phát từ việc nhận diện đối tượng nghiên cứu từ góc độ tổng thể là

<i>một hiện tượng văn hóa nghệ thuật, NCS đã lựa chọn và vận dụng cách tiếp cận liên ngành - cách tiếp cận đang là xu thế của khoa học xã hội và nhân văn trong </i>

thời gian gần đây để nhìn nhận hiện tượng, lý giải các vấn đề nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Theo hướng tiếp cận liên ngành, các giá trị nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị, với tư cách là “cái tổng thể” - tức là một hệ thống phức tạp hợp thành từ nhiều thành phần (chất liệu, đề tài, ý nghĩa...), ở đó có những thuộc tính của cái tổng thể và có cả thuộc tính của các thành phần.

<i><b>6.3. Phương pháp nghiên cứu </b></i>

Luận án sử dụng cách tiếp cận liên ngành, với sự kết hợp và hỗ trợ của nhiều ngành khoa học khác nhau nhằm tìm hiểu và khai thác các khía cạnh nhiều mặt của đối tượng nghiên cứu. Trong đó, bao gồm các thao tác nghiên cứu cụ thể sau đây:

Khảo sát điền dã tại quần thể kiến trúc lăng Thiệu Trị và các công trình có liên quan, kết hợp với các phương pháp quan sát tham dự, tiếp cận với các nguồn sử liệu, điều tra hồi cố...

Vận dụng phương pháp Mỹ thuật học trong phân tích, đánh giá, so sánh, tạo hình và tiếp biến thẩm mỹ của nghệ thuật trang trí tại lăng Thiệu Trị. Từ các nguyên lý mỹ thuật, tiếp cận sâu về đặc trưng tạo hình, trang trí, lý giải các đặc điểm và sự vận dụng của bố cục trang trí, nét mảng, cấu trúc và tính chất,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

sự chuyển dịch của màu sắc, khối trong trang trí tạo hình lăng Thiệu Trị

Sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...trong việc thu thập những cứ liệu cụ thể nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận án.

Lưu ý đến mối quan hệ, ảnh hưởng tác động qua lại giữa các yếu tố lịch sử - văn hóa - mỹ thuật - kiến trúc. Đây là hướng tiếp cận cần thiết khi nghiên cứu về nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị trong tư cách là một hiện tượng nghệ thuật mang tính tổng thể

Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài luận án ở nhiều hình thức khác nhau: các tài liệu đã xuất bản thành sách, các bài đăng trên báo, tạp chí, các tài liệu còn ở dạng bản thảo đánh máy, tư liệu thư tịch gồm chính sử, hương ước, sắc phong... đang được lưu giữ tại địa phương, các viện nghiên cứu và thư viện. Sử dụng những tiện ích của Internet (ở những mức độ phù hợp) trong việc thu thập tài liệu cũng là một thao tác được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài này.

<b>7. Những đóng góp mới của luận án </b>

Kết quả nghiên cứu của luận án là sự bổ sung hữu ích vào lịch sử nghiên cứu về nghệ thuật thời Nguyễn vốn đã được nhiều thế hệ học giả khảo cứu và bồi đắp... Từ trường hợp nghiên cứu cụ thể là nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị, luận án cịn góp phần hướng mọi người quan tâm hơn nữa đến vấn đề gìn giữ các di sản văn hóa nghệ thuật thời Nguyễn nói riêng và vốn di sản văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung.

Nghiên cứu nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị góp phần bổ sung những thơng tin tư liệu về nghệ thuật thời Nguyễn, qua đó đóng góp vào việc nghiên cứu và cung cấp những cứ liệu cho công tác bảo tồn các giá trị nghệ thuật thời Nguyễn ở Cố đô Huế trong bối cảnh hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>8. Kết cấu của luận án </b>

Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (04 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang) và Phụ lục (49 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận, thực tiễn và tổng quan tình hình nghiên cứu nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị (46 trang)

Chương 2. Nhận diện nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị (46 trang)

Chương 3. Đặc điểm và giá trị nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị, luận bàn kết quả nghiên cứu (44 trang)

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>Chương 1 </b>

<b>CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ Ở LĂNG THIỆU TRỊ </b>

Mỹ thuật thời Nguyễn nói chung và ở lăng Thiệu Trị nói riêng đã được nghiên cứu, đánh giá qua nhiều cơng trình khoa học, bài báo, các hội thảo khoa học trong nhiều năm qua. Trong quá trình đó, nhiều khái niệm, thuật ngữ về văn hóa Huế đã được hình thành và ứng dụng, triển khai trong nghiên cứu văn hóa mỹ thuật thời Nguyễn, trong đó có một phần đáng kể được sử dụng trong nghiên cứu, đánh giá về mỹ thuật thời Thiệu Trị ở bình diện thẩm mỹ, nghệ thuật với những giá trị đích thực của nó.

Trong nghiên cứu trang trí ở lăng Thiệu Trị, những cơ sở học thuật, khái niệm, thuật ngữ và những vấn đề nghiên cứu tổng quan đó đã được các nhà nghiên cứu vận dụng thành công khi tiếp cận nghiên cứu mỹ thuật ở lăng Thiệu Trị. Từ đó hình thành nên một hệ thống lý luận và cơ sở lịch sử xã hội, văn hóa giúp cho việc nghiên cứu nghệ thuật Nguyễn được triển khai có kết quả.

<b>1.1. Cơ sở lý luận và một số khái niệm về vấn đề nghiên cứu </b>

<i><b>1.1.1.Cơ sở lý luận </b></i>

Nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị từ góc độ tạo hình với tư cách là đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án được nhìn nhận là một hiện tượng văn hóa mỹ thuật, ở đó thể hiện mối tương tác giữa các lĩnh vực mỹ thuật - kiến trúc trên nền tảng văn hóa Việt Nam, nó tồn tại và vận động trong một khu vực/vùng địa lý - văn hóa cụ thể, với quan niệm như vậy NCS đã chọn một số lý thuyết, luận điểm làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu của mình, đó là:

<i>1.1.1.1 Lý thuyết tiếp biến văn hóa </i>

Lý thuyết tiếp biến văn hóa, là một lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, xã hội, tập trung vào sự phát triển và thay đổi của văn hóa qua thời gian. Nó được áp dụng để hiểu q trình tiến hóa văn hóa, khơng những chỉ tồn tại

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

trong mỗi cá nhân mà còn được truyền đạt và thay đổi qua các thế hệ. Đồng thời, nó được xem như một hệ thống thông tin, kiến thức, giá trị và thực hành mà con người học hỏi chia sẽ với nhau trong phong cách sống, kỹ thuật, quy tắc xã hội, truyền đạt tạo nên sự thay đổi và phát triển của văn hóa.

Lý thuyết tiếp biến văn hóa đóng vai trị rất lớn trong q trình tiếp xúc và trao đổi văn hóa giữa các thời kỳ với nhau bao gồm ngôn ngữ, phong cách thời trang, quá trình phát triển và thay đổi các yếu tố văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình trang trí. Đây là q trình mà phong cách, kỹ thuật, ý tưởng và hình thức nghệ thuật tiếp xúc thay đổi và phát triển theo thời gian thông qua tương tác với các yếu tố văn hóa khác.

Lĩnh vực nghệ thuật tạo hình thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa xung quanh nó và điều này thể hiện sự ảnh hưởng từ các nền văn hóa truyền thống, giá trị xã hội, tôn giáo. Từ sự tiếp xúc và tương tác với các yếu tố văn hóa có thể tạo ra sự thay đổi và phát triển trong nghệ thuật. Tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn cho thấy đã in dấu sâu đậm trong nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị và tạo ra dấu ấn sâu sắc trong nghệ thuật trang tri thời kỳ này.

Sự tiếp xúc và tiếp biến văn hóa Champa và ảnh hưởng nghệ thuật Phật giáo là điều tất yếu của quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa. Nhờ sự tiếp biến sinh động đó mà ở nghệ thuật lăng Thiệu Trị đã tạo ra sự đa dạng và đặc sắc trong trang trí. Các nghệ nhận đã tìm ra cách sử dụng và biến đổi các vật liệu trước đó như gốm, sành sứ, đồng, gỗ… để tạo ra sự phù hợp cho những đề tài, kiểu thức, hoa văn trang trí rất tinh tế và độc đáo. Như vậy, tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật trang trí đã phản ảnh sự phát triển, tương tác của nghệ thuật với môi trường xã hội qua các thời kỳ tạo nên một nền văn hóa mà đặc biệt là dưới thời Nguyễn đã khẵng định một phong cách, kỹ thuật, ý tưởng và hình thức thể hiện một nền văn hoá riêng biệt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i> 1.1.1.2. Lý thuyết, luận điểm về mỹ thuật học </i>

Có thể nói, các yếu tố thẩm mỹ trong nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị chính là sự thể hiện theo một cách riêng - điều kiện lịch sử - văn hoá, phần nào thể hiện được quan niệm thẩm mỹ, tính đặc thù về phong cách sống của chủ thể đó. Trong phạm vi đề tài luận án, khi nghiên cứu về nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị chúng ta có thể thấy rằng giá trị tạo hình và hoa văn trang trí độc đáo, đặc trưng cùng ý nghĩa nhân văn và tượng trưng của đề tài mang một phong cách riêng in đậm dấu ấn, thể hiện những khát vọng và lý tưởng của một thời kỳ lịch sử với sự biến đổi phù hợp theo quan niệm thẩm mỹ cũng như ý nghĩa biểu hiện vương quyền của triều đại.

Từ các luận điểm mỹ thuật học đã phần nào giúp NCS tiếp cận trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu từ góc độ mỹ thuật mang tính chun ngành của nghệ thuật tạo hình tác động của phương pháp đến đối tượng nghiên cứu một cách hiệu quả. Nghiên cứu mỹ thuật có một lợi thế là bám sát và xoáy sâu vào được các thuộc tính ngơn ngữ trong nghệ thuật tạo hình trang trí, tạo cơ sở cho việc lý giải một cách thuyết phục các kỹ thuật, các thủ pháp xử lý ngơn ngữ và biểu hiện hình tượng, trong đó cấu trúc hình thái của ngơn ngữ trang trí được nhận diện rõ nét nhất cả về chiều sâu khơng gian tạo hình, về đặc trưng thẩm mỹ ngôn ngữ và các thuộc tính của đường nét, hình mảng, nhịp điệu, trang trí, đồng thời nó cũng giúp NCS có thể đúc rút được những đặc điểm nổi bật tiêu biểu và bản chất nhất của đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên phương pháp mỹ thuật học có những hạn chế nhất định khi đánh giá về những đặc trưng văn hóa, lịch sử, tư tưởng thẩm mỹ và đời sống nội tâm, đặc trưng sáng tạo của nghệ nhân. Điều đó cũng cho thấy lý thuyết, luận điểm về mỹ thuật học nếu được vận dụng một cách nhuần nhuyễn đúng lúc và tạo nên bình diện tác động đa chiều thì sẽ góp phần vơ cùng quan trọng đối với người nghiên cứu khi tiếp cận một cách có chiều sâu các nội dung cơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

bản. Mặt khác, luận điểm mỹ thuật học cũng không thể đứng độc lập một cách tuyệt đối mà nó phải có sự chia sẻ, tương tác với các phương pháp như: phương pháp thông tin, , phương pháp thống kê, điền dã thực địa, phân tích, đánh giá, so sánh, đối chiếu… Việc đánh giá, xác định là những phương pháp định hướng cho việc nghiên cứu của đề tài, ngoài ra giúp cho luận án đi vào tìm hiểu giá trị nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị ở Huế dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật nên tác giả đã lựa chọn thêm một số lý thuyết, luận điểm khác của các nhà nghiên cứu mỹ thuật trong hệ thống cơ sở lý luận cho nghiên cứu của mình.

<i><b>1.1.2. Khái niệm về tính biểu tượng, hình tượng, hoa văn trang trí </b></i>

<i>1.1.2.1. Khái niệm về tính biểu tượng </i>

<b>Trong một số nghiên cứu về nghệ thuật trang trí kiến trúc truyền thống </b>

của một số tác giả đã trình bày luận điểm về tính biểu tượng trong nghệ thuật trang trí kiến trúc, biểu tượng là những tính chất đặc thù tiêu biểu nhất, tác phẩm nghệ thuật thông qua các tính chất đặc thù này để biểu hiện nội dung muốn truyền tải. Ước lệ là sự hiện thực hố một cách cơ đọng trong sáng tạo thẩm mỹ, khả năng biểu đạt cùng một nội dung của nhiều hệ thống ký hiệu bằng những phương tiện cấu trúc khác nhau. Biểu tượng là hình ảnh cụ thể trong đó bao hàm nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng sâu sắc đối với người xem. Biểu tượng nghệ thuật được coi là ký hiệu thẩm mỹ đa nghĩa, bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Ước lệ và biểu tượng thường được dùng nhiều trong nghệ thuật và dần trở thành phương tiện diễn đạt có tính cơ đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của người xem.

Các yếu tố được sử dụng trong nghệ thuật trang trí thường mang tính ước lệ với những mức độ khác nhau, một số được nhìn từ góc độ của mối liên hệ giữa việc sử dụng chúng một cách thông thường bên ngoài nghệ thuật và một số khác được nhìn vào ý nghĩa mà chúng có được đằng sau sự biểu hiện của các hình thức đã được sắp đặt theo chủ ý có yếu tố ước lệ. Theo đó, một

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

hệ thống biểu đạt ước lệ được sử dụng cho các yếu tố trong nghệ thuật trang trí, tạo hình nếu thành công, tất yếu sẽ dẫn dắt và chuyển tải những nội dung, những quy định mà đôi lúc người tiếp nhận khơng nhận ra, thay vào đó những nội dung, những quy định được xem là một cái gì đó vốn dĩ tự nhiên, phi ước lệ. Chẳng hạn, con rồng thời Nguyễn ở nhiều cơng trình kiến trúc các nghệ nhân thể hiện sâu sắc, vẻ đẹp uy nghiêm, huyền diệu đặc trưng của biểu tượng. Nhưng hình tượng rồng lăng Thiệu Trị lại mang những điểm khác biệt so với hai thời kỳ trước như: sừng dài có chạc vịng cung cuộn trịn như ngọn sóng, mắt lồi to trịn với những đường nét sắc nhọn, râu và bờm căng đầy, vây lưng chạy dài suốt thân mình, móng rồng diễn tả sắc nhọn, hai chân trước ôm lấy quả cầu được mô phỏng theo hoa văn mai rùa, đuôi uốn lượn với những đường nét chạm sâu dài thẳng, với thân mập tròn đầy đặn, ít khúc kết hợp với những hoa văn mây chồng lên nhau, tạo cho hình tượng rồng bay bổng, nhẹ nhàng, thanh thốt và mang một vẻ đẹp hiền hịa nhưng vẫn khơng mất đi vẻ uy nghiêm, đặc trưng của biểu tượng chốn cung đình. Rồng chủ yếu là cách điệu thành hoa văn mây chồng nhiều lớp, những hình tượng đó chúng ta rất dễ bắt

<i>gặp trong quần thể lăng Thiệu Trị đúng với tinh thần như trong Từ điển biểu tượng văn hóa Thế giới, tác giả Jean Chevalier, Alain Gheerbrant đã đề cập: </i>

Là sức mạnh thần thánh, sáng tạo, xếp đặt, rồng đương nhiên là biểu tượng của đế vương… Thật vậy, rồng được gắn với sét (nó khạc ra lửa) và với sự phì nhiêu (nó mang mưa đến). Như vậy, nó tượng trưng cho các chức năng của vua chúa và các nhịp điệu đảm bảo trật tự và phồn vinh. Vì vậy nó trở trành phù hiệu của hồng đế [43, tr.781]. Ở một khía cạnh khác, trong các kiểu thức mặt rồng ngang, hay mặt hổ phù cũng được sử dụng khá nhiều trên các cơng trình kiến trúc, nhiều kiểu thức mặt rồng được diễn tả làm nổi bật cả một hệ thống trang trí ở lăng Thiệu Trị. Như vậy, các kiểu thức rồng trong hệ thống các giá trị nghệ thuật trang trí ở lăng mang ý nghĩa tượng trưng thể hiện sức mạnh, uy quyền của nhà vua và triều đại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Chính vì vậy, kiểu thức rồng hiện diện trên tồn bộ hệ thống kiến trúc cơng trình như: bậc thềm, đỉnh mái, các góc ngách bờ thành, cổng tam quan, nghi môn, bên trong nội thất điện Biểu Đức… Nhìn chung: “Các mơ - típ thể hiện trên trang trí Huế, đại bộ phận đều mang biểu tượng cát tường, những ước vọng xuất phát từ nền văn hóa phương Đơng” [86, tr.176].

Việc tìm hiểu, nghiên cứu nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị cần được nhìn nhận dưới luận điểm lý thuyết về tính ước lệ và tính biểu tượng, đây cũng chính là một trong những lý thuyết quan trọng của đề tài luận án. Tác giả

<i>Nguyễn Hữu Thơng trong cơng trình Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và </i>

<i><b>biểu tượng có viết: “Biểu tượng (Symbol), trong tiếng Hán biểu có nghĩa là: </b></i>

dấu hiệu, đặt riêng một dấu hiệu để người ta dễ biết mà nhận ra; tượng là hình

<i><b>tượng” [86, tr.50]. Trong khi đó, tác giả Đinh Hồng Hải ở cơng trình Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lý thuyết đã nhận định rằng: </b></i>

Biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng do con người tạo ra, tồn tại trong đời sống của con người và có tác động đến đời sống văn hóa của con người. Việc nghiên cứu các biểu tượng đã được con người tìm hiểu nhiều góc độ khác nhau thơng qua triết học, văn học, lịch sử, tôn giáo [38, tr.12].

Trong nghệ thuật trang trí, các nghệ nhân phải sử dụng trí tưởng tượng nhiều hơn khi quan sát phân tích, đơi khi là nhằm diễn đạt tính oai vệ, linh thiêng các đề tài trang trí vốn đã là sự kế thừa trong nghệ thuật. Một số biểu tượng trang trí là cái đẹp và nét sinh động, với bản chất hiền đức đã làm cho biểu tượng mang tính chất hồn mỹ, ít ra là trong quan niệm của người thể hiện với những ý nghĩa và biểu tượng thiêng liêng, cao quý. Điều này rất dễ nhận ra khi nghiên cứu nghệ thuật tạo hình trang trí tại lăng Thiệu Trị. Chất liệu làm nên những giá trị không chỉ trong chức năng sử dụng mà luôn kết hợp như một thuộc tính khơng tách rời với yếu tố thẩm mỹ. Sử dụng đúng chất liệu làm nên tác phẩm, cũng có nghĩa là đã tạo nên cho nó chất biểu cảm đặc thù, tạo nên

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

những cảm quan nghệ thuật cần thiết, tạo được những ấn tượng về phong cách thể hiện, phản ánh những đặc trưng của một biểu tượng trong tiến trình phát triển của mỹ thuật. Tác giả Nguyễn Hữu Thơng đã có nhận xét:

Mọi ứng xử của con người đều bắt nguồn từ việc sử dụng biểu tượng. Biểu tượng làm biến đổi tổ tiên vượn người của chúng ta thành người và làm cho họ mang những đặc trưng nhân tính? Mọi nền văn minh được tạo ra và trường tồn chỉ từ việc sử dụng các biểu tượng [86, tr.50].

Các dạng biểu tượng ấy xuất phát và hằn sâu trong cấu trúc của trí tưởng tượng, ý nghĩa của chúng có thể là những quy ước hoặc hiển nhiên nhưng vẫn bao hàm một điều gì đó mơ hồ chưa biết hay còn ẩn giấu đối với chúng ta.

<i>1.1.2.2 Khái niệm về hình tượng </i>

Mặc dù biểu tượng (symbol) và hình tượng (image) được xem là hai khái niệm có mối tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau thuộc phạm trù nghệ thuật, dễ nhận thấy nhất là chúng đều là những ký hiệu (sign) nằm trong một tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, theo giới nghiên cứu, xét về bản chất, có sự khác biệt nhất định giữa hai khái niệm này. Nhìn từ phương diện “mỹ học”, cho dù biểu tượng có sự tương tác với hình tượng song chúng khơng đồng nhất hồn tồn với nhau bởi lẽ khơng phải mọi hình tượng đều trở thành biểu tượng, mỗi hình tượng chỉ khi vượt khỏi chính bản thân nó (ký hiệu hiển ngơn) và hàm chứa những “ý nghĩa” mang giá trị trừu tượng (ký hiệu mật ngơn) thì mới trở thành biểu tượng [38].

Nhìn chung, hình tượng thường được hình thành trong mối quan hệ giữa hiện thực khách quan với nhận thức chủ quan của con người, nó nói lên phương thức nhận thức và sáng tạo lại hiện thực theo cách riêng biệt và độc đáo. Tuy nhiên, hình tượng khơng phải là sự sao chép máy móc theo nguyên mẫu của thế giới hiện thực khi nó là sản phẩm của sự sáng tạo (vốn là một mặt của thế giới tinh thần). Hình tượng không chỉ đơn giản là phản ánh hiện thực mà cịn phải đạt tới trình độ khái qt hóa, điển hình hóa thế giới hiện thực, thơng qua đó phát hiện ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

những yếu tố căn bản và cốt lõi nhất của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Trong mỗi tác phẩm nghệ thuật, khác với các khái niệm mang tính

<i><b>trừu tượng, hình tượng mang tính biểu hiện sinh động, độc đáo, nó được coi như </b></i>

là “tế bào” của tác phẩm. Nói cách khác, khơng có hình tượng thì sẽ khơng có

<i><b>cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của một tác phẩm nghệ thuật. </b></i>

Như vậy, khái niệm hình tượng theo nghĩa rộng được dùng để chỉ những đặc điểm chung các loại hình nghệ thuật, để phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình thức ý thức xã hội khác. Cịn theo nghĩa hẹp, trong phạm vi mỗi tác phẩm nghệ thuật, hình tượng mang tính cụ thể về một con người/nhóm người, một sự vật, hiện tượng… Ở đó hàm chứa những thơng điệp về quan niệm sống, những trải nghiệm hay là những triết lý nhân sinh sâu sắc. Hiển nhiên, hình tượng của mỗi tác phẩm nghệ thuật không chỉ dừng lại ở giá trị thẩm mỹ (giá trị nghệ thuật) mà nó cịn vươn tới giá trị văn hố (giá trị nhân văn) thơng qua các hình tượng cụ thể, không chỉ dừng lại ở việc cảm thụ, thưởng thức cái đẹp, hay tiếp cận với nguồn tri thức sáng tạo vô tận của các thế hệ nghệ nhân mà trên hết là những thông điệp, triết lý nhân sinh và thế giới quan đã được gửi gắm, chuyển tải trong các hình tượng nghệ thuật. Đó chính là những biểu hiện đỉnh cao của các hình tượng đã được tái hiện thông qua việc sử dụng nhiều phương tiện vật chất cụ thể như: màu sắc, đường nét, hình khối, nghệ thuật, bài trí, bố cục… Do vậy, hình tượng ngoài việc là phương thức tái hiện thế giới khách quan, nó cịn là nhân tố thể hiện tâm hồn, bản ngã, tài năng, phong cách của những người đã sáng tạo nên tác phẩm.

Thông qua hệ thống các hình tượng/biểu tượng đã làm rõ hơn giá trị nghệ thuật, chúng đóng vai trị quyết định đối với chất lượng của mỗi tác phẩm. Trong tư cách là sản phẩm của hoạt động nghệ thuật hay hoạt động sáng tạo, được xem là một hình thái của giá trị thẩm mỹ. Đó là một phức thể bao hàm những phương diện nhất định của các giá trị mang tính chuẩn mực

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

về cái đẹp, đạo đức, nhận thức, tư tưởng... Do cấu trúc phức hợp các ý nghĩa ấy mà giá trị nghệ thuật còn hàm chứa bản chất xã hội, thể hiện dấu ấn dân tộc, giai cấp, thời đại nhất định.

Trên bình diện nghiên cứu, chúng ta có thể bắt gặp những biểu tượng nghệ thuật độc đáo với nhiều kiểu thức sinh động mang tính biến thể, chuyển hóa hoa văn và nhiều ý nghĩa tượng trưng khác nhau, cụ thể là những biểu tượng, tượng trưng cho bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông ứng với mai, lan, cúc, trúc hay đào, sen, liễu, tùng, với các hình tượng bát bửu mang ý nghĩa tam giáo, hay các con vật linh như: long, lân, quy, phụng, dơi, mặt hổ phù… được sáng tạo mang đậm dấu ấn bởi sự tài hoa của các nghệ nhân. Cũng như dấu ấn của nghệ thuật tạo hình ở một thời kỳ lịch sử, ở đó ẩn chứa một dung lượng lớn các phương diện thẩm mỹ của đời sống, thậm chí đơi khi cịn có tính gợi mở, dự báo những khát vọng trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, giữa con người với xã hội và giữa con người với chính mình.

Có thể nói, một trong những điểm nổi bật trong nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị chính là những giá trị tạo hình gắn liền với các biểu tượng thẩm mỹ nghệ thuật cung đình cộng với những nguyên tắc chung trong nghệ thuật trang trí kiến trúc thời Nguyễn. Qua những biểu tượng tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ - nhân văn sâu sắc đã mang trong đó những ý nghĩa giáo dục phẩm chất, lối sống, ứng xử văn hóa… vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.

<i>1.1.2.3. Khái niệm về trang trí và hoa văn trang trí - Khái niệm về trang trí: </i>

Khái niệm trang trí được phân định ra thành hai yếu tố khác nhau, đó là trang trí hoạ tiết bằng đường nét trên mặt phẳng và trang trí hoạ tiết nổi trên bề mặt chất liệu; những hình được chạm khắc hay đắp nổi lên một bề mặt có không gian hai chiều, một số khác được thể hiện trên các hoạ tiết chạm nông của không gian ba chiều như ở các tượng, các hoạ tiết chạm lộng, có loại phù điêu

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

đắp nổi cao và có loại thấp hoặc khắc chìm (lõm) xuống, chúng mang tính tâm linh và tính dân gian trong các ô hộc như án thờ, các cấu kiện ở điện Biểu Đức, nhà bia và các mảng tường... Nghệ thuật phù điêu trên các hoạ tiết trang trí được tồn tại và biểu trưng văn hóa của thời Nguyễn, mỗi mảng họa tiết trong trang trí được vẽ tồn bộ bằng đường nét sẽ làm cho cơng trình ấy buồn tẻ và có cảm giác nhàm chán đối với thị giác; nhưng ở đây người thợ vận dụng nghệ thuật tạo hình đắp nổi phù điêu trong trang trí làm cho họa tiết có nhiều lớp khá cơng phu, từ hính dáng, mãn khối tạo nên lối thể hiện trang trí tồn cảnh của lăng. Điều này

<i>được nêu trong Những nền tảng của mỹ thuật với sự phân tích: </i>

Những yếu tố nghệ thuật - đường nét, hình dạng, sắc độ, cách sắp xếp và màu sắc - qua đó bố cục dùng làm những thành phần chính, hiếm khi tự chúng hiện diện. Chúng kết hợp lực trong toàn bộ tác phẩm. Những đóng góp cá thể của chúng có thể được nghiên cứu một cách riêng lẻ, nhưng trong sự phát triển của một tác phẩm, thì những cách thức qua đó chúng liên quan đến nhau, là điều luôn phải được cân nhắc [57, tr.94].

Điểm đặc biệt trang trí ở lăng Thiệu Trị đó là chạm nổi, chạm thủng, phù điêu trên những tác phẩm chạm khắc gỗ, đá. Hoa văn trang trí thể hiện bằng nhiều chất liệu khác nhau, mỗi chất liệu có kỹ thuật riêng của nó, chất liệu được dùng nhiều nhất trong nghệ thuật trang trí là gỗ, ngồi ra cũng có các chất liệu khác rất phổ biến được dùng trong trang trí như gốm, gốm tráng men, pháp lam… Các nghệ nhân đã vận dụng để tạo nên các kiểu thức hoa văn trang trí một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó, họa tiết trang trí hoa lá, tứ thời, tứ linh, bát bửu đã được phô diễn bản chất của sự vật bằng những đường nét khép kín, dứt khoát, chắc khỏe và tuân thủ các nguyên tắc hoa văn đã được quy ước. Hoa văn trang trí thường tạo nên những bố cục chặt chẽ gắn kết với nhau tạo thành nhiều lớp họa tiết to - nhỏ, đơn giản - phức tạp, có nội dung, vị trí khác nhau làm nên vẻ đẹp riêng trong tổng thể. Các

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

hoa văn hoạ tiết như hoa, lá, quả, động vật..., thể hiện phong cách nghệ thuật trang trí riêng, đường nét cụ thể, dứt khốt, có hình thể độc đáo, dễ nhận thấy qua hình tượng bát bửu hay tứ thời được trang trí ở lăng.

Màu sắc là một trong những yếu tố quan trọng trong hoa văn trang trí, tạo nên những giá trị biểu cảm từ cảm thụ thị giác trực tiếp đầy cảm xúc của con người. Màu chủ đạo trong trang trí cung đình hay các lăng tẩm đó chính là hoa văn sơn son thếp vàng, bên cạnh các màu khác như bạc, màu đỏ của gỗ phủ sơn... Ngồi ra, các hình mảng hoa văn trang trí được tô điểm những tấm pano pháp lam, mảng sành sứ, thủy tinh đầy màu sắc, rực rỡ được trang trí trên các nghi mơn, cổng tam quan, bình phong, cổ diêm…, màu sắc trang trí rực rỡ nhưng vẫn hài hòa với sắc màu phong cảnh của lăng.

Qua nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị có thể cho thấy được một phần dấu ấn đặc trưng của mỹ thuật Nguyễn và những giá trị sáng tạo của các nghệ

<i>nhân trong một chặng đường dài lịch sử. Trong tập san Những người bạn Cố đô Huế, tập XXVI, bài “Lăng Thiệu Trị”, tác giả G. Langrand đã nhận định rằng: </i>

… là ngôi lăng phong phú hơn nhiều, lộng lẫy hơn nhiều, với một dãy lâu đài, điện các cổ kính như các kiểu mẫu Trung Hoa mà nó đã phỏng theo, với sân chầu cao quý vẻ tự hào như toàn bộ cảnh lăng, Điếu Ngư Đình và các hồ rất hài hòa trong tổng thể cảnh quan” [47, tr.24].

<i>- Khái niệm về hoa văn trang trí: </i>

Hoa văn là một cách khái quát, là hình trang trí được vẽ, chạm, khắc trên các đồ vật, cấu kiện kiến trúc. Hoa văn trang trí được thể hiện bằng nhiều chất liệu khác nhau, mỗi chất liệu lại có kỹ thuật riêng của nó, chất liệu được dùng nhiều nhất trong nghệ thuật trang trí là gỗ, ngồi ra cũng có các chất liệu khác rất phổ biến được dùng trong trang trí như gốm, gốm tráng men, pháp lam, đá, đồng, nề họa… Các hoa văn, họa tiết trang trí hoa lá, tứ thời, tứ linh, bát bửu đã được phô diễn bản chất của sự vật bằng những

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đường nét khép kín, dứt khốt, chắc khỏe và tuân thủ các nguyên tắc đã được quy ước. Có thể nói, hoa văn trang trí là một tổ hợp được kết hợp rất nhiều lớp họa tiết to - nhỏ, đơn giản - phức tạp có nội dung, vị trí khác nhau làm nên vẻ đẹp riêng trong tổng thể. Các hoa văn họa tiết như hoa, lá, quả, động vật..., thể hiện phong cách nghệ thuật trang trí riêng, đường nét cụ thể, dứt khốt, có hình thể độc đáo dễ dàng được nhận thấy qua nghệ thuật trang trí ở nhiều cơng trình kiến trúc lăng Thiệu Trị.

Từ những yếu tố trên lý giải cho lý do NCS lựa chọn các lý thuyết, luận điểm này vào nghiên cứu của đề tài luận án.

<b>1.2. Khái quát về mỹ thuật thời Nguyễn, lăng Thiệu Trị và một số công trình liên quan </b>

<i><b>1.2.1. Lịch sử - văn hóa mỹ thuật thời Nguyễn </b></i>

Nhà Nguyễn đã chọn Huế làm kinh đô trải qua hơn một thế kỉ (1802 - 1945) với 13 đời vua. Đây là vùng đất có vị trí địa lý quan trọng, với đầy những khó khăn về khí hậu. Ở phía Tây là Trường Sơn trùng điệp, phía Đơng là biển, thảm thực vật hai miền Bắc - Nam hội lại đa dạng. Hướng Nam hơi chếch về hướng Đông để song song với đoạn sông Hương ngoặt dòng “chi thuyền thủy” ngay sát trước mặt và nhìn thẳng vào núi Ngự Bình làm tiền án ở đằng xa, trên sơng Hương có cồn Dã Viên ở phía Tây làm Bạch Hổ và Cồn Hến ở phía Đơng làm Thanh Long để cùng chầu vào.

Kinh thành Huế do vua Gia Long xác định, song dưới thời Gia Long việc xây dựng còn vừa phải. Sau khi vua Minh Mạng nối ngôi đã tu sửa cung điện và quy hoạch lại Hoàng thành như ngày nay. Kinh thành Huế gồm ba vòng thành gần vuông lồng với nhau cùng trên một trục chính từ núi Ngự Bình chạy về vng góc với sơng Hương. Vịng ngồi là Phịng thành chu vi chừng 10 km, trổ 10 cửa ra vào có sơng chảy bao quanh. Vịng giữa có các khu vực đại lễ, khu thờ cúng tổ tiên nhà Nguyễn. Vòng trong là Tử Cấm thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

dành riêng cho sinh hoạt của nhà vua và gia đình. Ngồi Phịng thành cịn có các cơng trình khác như Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Văn Miếu (Văn Thánh Miếu), Võ Miếu (Võ Thánh Miếu), Đàn Nam Giao, Hổ Quyền… Ngồi ra, bên hữu ngạn sơng Hương trong khu núi đồi trập trùng có bảy lăng mộ của vua nhà Nguyễn. Lăng nào cũng có phần lăng mộ và tẩm thờ, song bố cục của mỗi lăng đều có sáng tạo riêng, tùy thuộc vào thẩm mỹ của chủ nhân và yếu tố địa hình, phong thủy.

Có thể nhận định, mỹ thuật thời Nguyễn mang một phong cách và tìm ra con đường đi riêng của mình, mang giá trị thẩm mỹ, thống nhất, đậm tính nhân bản với trình độ kỹ thuật thể hiện cao.

Kiến trúc cung đình Huế cũng như các lăng tẩm với các hoa văn, kiểu thức trang trí hịa nhập cùng cảnh quan để nâng lên giá trị nghệ thuật. Sau những cơng trình kiến trúc cung điện lộng lẫy là hệ thống các lăng mộ của các đời vua. Hệ thống lăng mộ các vị vua thời Nguyễn mang tính uy nghi, tẩm thờ lớn riêng biệt cho từng lăng, mỗi lăng tẩm được xây trên một vùng đồi rộng lớn, cơng trình kiến trúc có ý nghĩa về địa lý, phong thủy. Thời Nguyễn là một triều đại quân chủ chuyên chế phong kiến, điều đó thể hiện rõ rệt qua những tấm bia trong hệ thống lăng vua đã khắc bốn chữ “Thánh Đức Thần Công” trên những tấm bia đá có kích thước cao to, điển hình như: lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Khải Định. Trong đó, lăng Tự Đức là một trong những lăng có tấm bia lớn nhất, do chính Tự Đức soạn cho mình nên khơng gọi là “Thánh Đức Thần Công” mà là “Khiêm Cung ký”. Bệ bia là hai khối đá Thanh rất lớn đỡ tấm bia cao chừng 5m, rộng 2,6m, dày 0,50m, nặng 20 tấn. Bia khắc hai mặt với khoảng 5.000 chữ rất sắc sảo, đó là bài “Khiêm Cung ký” nổi tiếng của vua Tự Đức viết năm 1871, khắc vào bia năm 1875.

Mỗi lăng có một kiến trúc riêng biệt tùy theo từng thời kỳ để xây dựng. Trước hết phải kể đến lăng vua Gia Long, được bắt đầu xây dựng từ năm 1814

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đến năm 1820 mới hoàn tất. Đây được biết đến là lăng mộ song táng, theo quan niệm “Càn khôn hiệp đức” tượng trưng cho sự vĩnh cửu, chung thủy.

Lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng), xây dựng trong 3 năm (1840 - 1843), đây là một cụm kiến trúc khép kín lấy điện thờ làm tâm và đường thần đạo là trục để quy tụ những kiến trúc phụ, tập trung những đặc điểm của kiến trúc lăng, ln tạo sự hịa nhập thiên - địa - nhân.

Lăng vua Thiệu Trị (Xương lăng) với diện tích 475ha, được xây dựng dưới thời Tự Đức vào năm (1847-1848) ở vùng núi Thuận Đạo, trước mặt là dịng sơng Hương. Lăng khơng có la thành, hai trục lăng và tẩm song song với nhau, làm cho kiến trúc lăng Thiệu Trị trở nên rộng lớn và thơ mộng.

Lăng vua Tự Đức (Khiêm lăng), xây dựng năm 1864 - 1867 đây là hành cung của nhà vua, đến năm 1883 vua băng hà mới trở thành lăng mộ. Cận kề cịn có các lăng vua khác như: lăng vua Đồng Khánh (Tư lăng), lăng Kiên Thái Vương (thân sinh 3 vị vua: Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi).

Lăng vua Khải Định (Ưng lăng) khởi công xây dựng từ năm 1920 - 1931, kéo dài 11 năm. Lăng Khải Định là sự tổng hịa của nhiều dịng văn hóa Đơng Tây kết hợp. Đây có thể xem là một cơng trình có giá trị nghệ thuật khác lạ so với các lăng tẩm thời Nguyễn khác.

Có thể nói, hệ thống lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí, điêu khắc, hội họa. Mỗi lăng có một kiến trúc riêng và hàm chứa những giá trị nghệ thuật riêng biệt lấy tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo để trang trí cho lăng tẩm.

Một điều khá đặc biệt trong quy hoạch và xây dựng lăng tẩm đó là chính các vị vua triều Nguyễn xây dựng: Vua Gia Long chọn đất, địa hình, địa thế để xây dựng lăng cho mình, vua Minh Mạng tự thiết kế kiến trúc lăng tẩm, sau khi vua Thiệu Trị nối ngơi tiếp tục hồn thiện lăng cho vua cha, vua Tự Đực thiết kế

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

xây dựng lăng Thiệu Trị. Ngoài ra, vua Tự Đức và vua Khải Định tự quy hoạch và cho xây dựng lăng riêng của mình

<i><b>1.2.2. Khái quát về lăng vua Thiệu Trị </b></i>

<i>1.2.2.1. Vị trí địa lý </i>

Lăng Thiệu Trị nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 9km về phía Tây Nam, là một cơng trình quan trọng trong hệ thống kiến trúc cung đình, lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, với những giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, trang trí... Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, vua Thiệu Trị dặn lại: “... chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc” [3, tr.41]. Vua Tự Đức vừa lên kế vị, đã sai các thần địa lý trong triều đình đi tìm đất xây lăng. Quá trình xây dựng Xương lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, chỉ sau 3 tháng thi cơng các cơng trình chủ yếu đã hoàn thành, từ ngày bắt đầu đến ngày hồn tất lăng Thiệu Trị chỉ trong vịng chưa đầy 10 tháng (11/2/1848 - 19/11/1948), khơng vì vậy mà quy mơ lăng mất đi vẻ hồnh tráng và đồ sộ. Đề cập đến việc xây dựng lăng Thiệu Trị, trong Đại Nam nhất thống chí đã mô tả: “Trên mặt đất xây bảo thành, dưới mặt đất đào toại đạo (đường ngầm),…” [64, tr.43]. Bên cạnh lăng Thiệu Trị chếch về phía trước có lăng Hiếu Đơng (lăng bà Hồ Thị Hoa) mẹ của vua. Phía sau là Xương Thọ lăng (lăng bà Từ Dũ) vợ vua và còn các ngôi mộ con của vua Thiệu Trị mất lúc cịn nhỏ (tảo thương). Tất cả qy quần, đồn tụ với vẻ giản đơn, gần gũi và trầm lắng. Trong quần thể di tích lăng mộ thời Nguyễn, phía bên phải sơng Hương gồm có các lăng Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định, còn bên trái có lăng Gia Long, Minh Mạng. Có thể nói, lăng Thiệu Trị nằm ở vị trí giữa các lăng, khoảng cách mỗi lăng trên cũng vào khoảng 3 đến 5 km.

<i>1.2.2.2. Giá trị lịch sử </i>

Vua Thiệu Trị (1807- 1847) húy là Nguyễn Phúc Dung, sau cải thành là Nguyễn Phúc Miên Tông, và lên ngôi năm Tân Sửu 1841 đặt niên hiệu là Thiệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Trị, vị hoàng đế thứ 3 của triều Nguyễn. Vua Thiệu Trị là vị vua tài hoa, thông tuệ văn chương, kinh sử, thơ phú, trong một thời gian ngắn, vua đã để lại rất nhiều bài thơ chữ Hán, tiêu biểu là 20 bài thơ do ông sáng tác ca ngợi 20 cảnh đẹp ở đất Kinh thành, trong đó gắn liền với nhiều kiến trúc tiêu biểu một thời do chính ơng đã chọn và phân hạng, gọi là “Thần Kinh nhị thập cảnh” ghi trong “ Ngự đề Danh thắng Đồ hội thi tập”. Thời gian trị vì, vua Thiệu Trị đã để lại nhiều cơng trình kiến trúc đặc sắc, đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật thời Nguyễn. Nhiều cơng trình kiến trúc được coi là mẫu mực, đạt đến độ hoàn mỹ qua các chất liệu trang trí trên các cơng trình kiến trúc như nghi môn bằng đồng ở lăng Minh Mạng, nghệ thuật trang trí pháp lam ở tháp Phước Duyên chùa Linh Mụ, nghệ thuật chạm khắc gỗ điện Long An… Tất cả mang đậm dấu ấn văn hóa, lịch sử thời Thiệu Trị và vẫn được bảo tồn cho đến nay.

Dưới thời trị vì của vua Thiệu Trị, lúc bấy giờ đất Nam Kỳ có nhiều biến loạn, dân Chân Lạp nổi loạn và quân Xiêm sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp mãi tới năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên được. Vài tháng sau thì vua lâm bệnh nặng và băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm vua được 7 năm, thọ 41 tuổi.

<i>1.2.2.3. Giá trị văn hóa </i>

Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian Việt Nam, việc tôn thờ tổ tiên và những người thân được thể hiện thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Ý thức này đã trở thành truyền thống trong tiềm thức của mọi tầng lớp sĩ, nông, công, thương trong xã hội. Vua chúa khi mất được an táng trong lăng mộ với các cơng trình kiến trúc có quy mô và đồ sộ, thể hiện phong cách, và sáng tạo trong nghệ thuật trang trí. Ý thức tâm linh hướng thiện của Phật giáo giao thoa với tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo, đã hình thành một quan niệm về sự sinh, lão, bệnh, tử và biểu hiện rõ qua hệ thống lăng tẩm thời Nguyễn trong đó có lăng Thiệu Trị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<i>1.2.2.4. Tổng quan nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc - trang trí </i>

Nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị với tổng thể kiến trúc là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng Gia Long và kiểu thức trang trí lăng Minh Mạng. Lăng được xây dựng tách riêng ra thành hai tiểu khn viên đặt sóng đơi trên núi Thuận Đạo với tổng diện tích là 475 ha nằm ở phía Nam Hương Thủy. Từ xa có đồi Vọng Cảnh và núi Ngọc Trản hình thành thế rồng chầu, hổ phục. Tác giả G.Langrand có dẫn lại: “Theo địa bàn địa lý Trung Hoa, lăng này nằm hướng thìn, có hơi chênh về cung tốn, như thế đầu lăng quay về hướng tuất, có hơi chênh về cung kiền (can)” [47, tr.15]. Hướng này được hưởng mọi ảnh hưởng tốt của ngũ hành, âm dương - đất và trời, nước và núi đem lại một cuộc sống vĩnh tồn và thịnh vượng, đây cũng là một hướng mà rất ít dùng trong lăng tẩm các vua triều Nguyễn. Yếu tố phong thủy lúc bấy giờ rất được chú trọng trong việc chọn hướng, chọn đất để xây dựng cung

<i>điện, lăng tẩm. Trong Kinh Thành Huế, tác giả Phan Thuận An đã nhận định: </i>

“Khi xây dựng thành quách, cung điện, lăng tẩm các triều đại xa xưa trong lịch sử Việt Nam cũng đã tuân thủ những nguyên tắc phong thủy như thế” [2, tr.109]. Tuy nhiên, lăng Thiệu Trị khơng có la thành như lăng Minh Mạng mà cũng như lăng Gia Long với khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau. Với chủ ý để cho lăng Thiệu Trị trải rộng một cách tự nhiên, chính vì vậy mà các nghệ nhân sử dụng cảnh quan thiên nhiên bao quanh khu vực lăng như một la thành tự nhiên bao bọc. Mặt bằng tổng thể ngoài việc tuân thủ chặt chẽ các yếu tố phong thủy, cịn có sự độc đáo về bố cục, hài hòa với thiên nhiên. Kiến trúc lăng được bố trí với phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện ở trước khu tẩm qua một hệ thống cống ngầm và nối với hồ Ngưng Thủy ở trước Bửu Thành là các cầu bằng đá tạo thế “chi huyền thủy” đầy triết lý phong thủy, chảy quanh co trong khu lăng. Trên cầu là nghi môn bằng đồng được trang trí trước và sau cầu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Từng trụ nghi mơn được chạm nổi hình tượng rồng cuộn trịn ơm lấy tồn bộ thân trụ rất tinh xảo và đặc sắc. Sự kết hợp giữa các chất liệu bền vững lúc bấy giờ như đá, đồng và pháp lam đã làm cho nghi môn trở nên đặc biệt và nổi bật cả hệ thống trang trí kiến trúc ở lăng Thiệu Trị. Tiếp đến là hai hàng tượng đá voi, ngựa, quan võ, quan văn ở hai bên tả hữu của sân chầu là tiêu biểu của nghệ thuật chạm khắc, tạo hình trang trí tượng nữa đầu thế kỉ XIX. Không gian tiếp theo là bi đình, với bia Thánh Đức Thần Công và lầu Đức Hinh được xây dựng trên một đồi cong dạng mai rùa, bên phải và bên trái lầu Đức Hinh có hai trụ biểu, phía trên đầu trụ là hoa sen cách điệu xây bằng vôi gạch, để biểu dương công đức và quyền uy của nhà vua. Bắc qua Bửu Thành là ba chiếc cầu đá, chiếc ở giữa được gọi là Chánh Trung Kiều, phía đơng và phía tây được gọi là Đơng Hịa Kiều và Tây Định Kiều. Bên cạnh khu lăng là khu vực điện thờ cách nhau 100m về phía bên trái. Phía trước là bình phong tiền án xây bằng gạch, có mái giả cong hai đầu lợp ngói lưu ly, hai đầu hồi được trang trí hoa văn kiểu chữ triện cách điệu rồng, xung quanh là ô hộc là nề họa với các họa tiết bát bửu. Qua bình phong là hồ bán nguyệt, hồ có hệ thống lan can được xây dựng hình cuốn thư, ốp gốm tráng men. Phía trước hồ là nghi mơn bằng đá cẩm thạch, phía trên được trang trí ơ hộc pháp lam, ở giữa có bốn chữ Hán “Minh đức viễn hy”, có nghĩa là “Đức sáng cao xa vậy”. Bước lên ba bậc tam cấp là Hồng Trạch Môn, được xây dựng bằng chất liệu gỗ với kết cấu hai tầng, kiểu thức hoa văn trang trí ở đây như: bát bửu, tứ thời, long hồi, lưỡng long chầu nhật… Dẫn lối đi vào khu vực điện Biểu Đức hai bên bậc cấp được chạm khắc rất nhiều kiểu thức rồng, to nhỏ tùy thuộc vị trí đặt để trong kiến trúc của lăng. Trong chính điện có các cơng trình phụ như Tả, Hữu phối điện Tả, Hữu tùng viện quay quần xung quanh điện Biểu Đức. Nhóm điện chính này nằm trong khn viên hình chữ nhật, có tường ngăn và hai cổng nách hai bên. Hệ thống trang trí ở điện Biểu Đức với kết cấu gỗ đã tạo nên một

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

phong cách riêng, tạo hình đặc sắc được thể hiện trên các bộ phận, chi tiết vì kèo, thừa lưu, vách ngăn… Điện Biểu Đức là nơi thờ vua Thiệu Trị, điện được xây dựng theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng những cột gỗ lim được sơn thếp và trang trí hình tượng long ẩn vân - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngơi điện. Nhà trước và nhà sau của điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của hai mái nhà (thuật ngữ

<i>kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với nửa trong </i>

tạo ra một không gian liên tục, thống nhất, rộng rãi, khơng cịn cảm giác ghép nối hai tòa nhà. Việc ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây dựng điện, nó chẳng những che kín được sự lõm xuống điểm nối giữa hai mái mà còn tạo nên nhịp điệu kiến trúc trong trang trí. Ở điện Biểu Đức được phủ sơn son thếp vàng gần như kín tồn bộ nội điện. Trên những lớp sơn được đắp phủ những mảng vàng quỳ sáng chói trên nền màu đỏ chu. Với kết cấu chặt chẽ của một hệ thống cột, kèo từng mảng chạm chi tiết trên các cột đều khớp với các ơ hộc, trang trí hoa văn được sắp xếp bố trí trong nội thất nhưng rất trang nghiêm. Bên cạnh các cột phủ sơn mài thếp vàng hình rồng uốn lượn vịng quanh cột, cịn có những vật trang trí tơ điểm như án thờ, tủ sập, những bức hoành phi, bửu tán được sơn son đồng bộ hình thành một tổng thể rực rỡ. Ngoài cấu trúc tổng thể của cơng trình, trong nội thất các đồ dùng, bàn ghế, sập, các đồ thờ, được sơn son thếp vàng lộng lẫy và chạm trổ tinh tế với những kiểu thức trang trí long, lân, quy phụng, mặt hổ phù, hoa lá, chim thú... Chất vàng son rực rỡ được bài trí đầy ấn tượng ở nội thất đã gợi nên khơng khí trang nghiêm sâu lắng tâm linh ở điện Biểu Đức và ở Ngai vàng, bửu tán là nơi tơn nghiêm dành cho Hồng đế. Ngai vàng chạm rồng, bửu tán, những cặp rồng uốn lượn uy nghi, sơn son thếp vàng lộng lẫy đã thấm sâu vào tâm thức mọi người ở chốn triều

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nghi. Những chiếc khám thờ ở trong điện Biểu Đức được chạm trổ với kỹ thuật chạm lộng tinh tế, điêu luyện, gợi lên sự tơn nghiêm.

Trang trí ở lăng Thiệu Trị đã đạt đỉnh cao về sự sáng tạo trong hệ thống kiến trúc - hội họa - điêu khắc một phần sự sáng tạo đó được khơi nguồn từ chính vua Thiệu Trị khi cịn trị vì. Ơng đã cho xây dựng một số cơng trình và nghệ thuật trang trí mang đậm dấu ấn lúc trị vì, tiêu biểu như điện Long An, nghệ thuật chạm khắc gỗ trang trí theo lối “Nhất thi, nhất họa” được lấy từ những bài thơ do vua sáng tác, hay nghệ thuật trang trí nghi mơn bằng đồng được ông cho xây dựng tại lăng Minh Mạng và điện Thái Hịa, trang trí chất liệu pháp lam trên cổ diêm, gờ mái ở lăng Minh Mạng, Tháp Phước Duyên…, những hoa văn trang trí mang đậm dấu ấn Phật giáo được sử dụng một cách dày đặc trên các cơng trình kiến trúc lăng các bà hoàng.

Xuất phát từ những điều đó, nghệ thuật trang trí ở lăng Thiệu Trị đã được xây dựng và trang trí một cách đặc biệt, sự kết hợp từ các cơng trình kiến trúc đến chất liệu trang trí đóng vai trị to lớn để đưa vào trang trí thể hiện rất rõ trên kiến trúc ở lăng Thiệu Trị. Nghệ thuật trang trí ở lăng đều có sự bố trí rất hài hịa, thích hợp, từ khơng gian kiến trúc cho đến các cơng trình lớn nhỏ kết hợp với chất liệu trang trí cho ta cảm tưởng khơng đồng bộ, song khi khảo sát đi sâu vào từng họa tiết trang trí, từng mảng chạm khắc, từng cấu trúc đã được hồn thiện một cách tinh xảo, khơng bị tách rời, đều có sự thống nhất hài hòa, quán xuyến chung của tổng thể, tổ hợp trang trí và kết cấu tạo sự tơn kính, nghiêm trang.

Trang trí kiến trúc ở lăng Thiệu Trị, có một đặc điểm chung của trang trí thời Nguyễn đáng chú ý là được phân ra thành từng ô hộc để tạo hình vẽ và đề thơ văn trên những tấm gỗ được chạm trổ và sơn son thếp vàng theo lối “Nhất thi, nhất họa” xen nhau ô tranh, ô chữ, kéo dài phủ kín mặt thượng dập, học diệp, và được thể hiện ở các liên ba, đối bảy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Tranh gương cũng được xem là một loại trang trí khá đặc biệt ở lăng Thiệu Trị. Những bức tranh gương được đóng khung chạm thếp vàng treo trên các cột phía trước điện làm nổi bật cả khơng gian điện thờ. Nhìn chung, mỗi bức tranh gương đều có những nét độc đáo sự gợi cảm về màu sắc và nội dung có thể hiểu bằng nhiều chiều, trong đó có lúc lại lóe lên chút kỳ bí hấp dẫn mà khơng phải ai cũng hiểu và cảm nhận được. Phía trước tủ thờ là hai con lân bằng đồng chầu hai bên, góp phần nhấn mạnh không gian trang nghiêm của nội điện. Ngoài ra, nơi đây cịn có nhiều cổ vật xưa vẫn giữ được lối bày biện nội thất với những cổ vật mang tính truyền thống dân tộc như các bộ tràng kỹ, các đồ dùng vật dụng bằng pháp lam, chén bát, bầu, lọ, bình cổ, gợi lên về cảm quan nghệ thuật truyền thống, tồn tại và dường như chưa bao giờ bị lãng quên.

Tất cả cơng trình kiến trúc đã làm tăng thêm vẻ tơn nghiêm cũng như ta ̣o nên một vẻ đe ̣p hài hòa cho tổng thể cảnh quan lăng Thiệu Trị. Tuy nhiên hiện nay nhiều đơn nguyên quan trọng ở lăng Thiệu Trị đã bị hủy hoại và trở thành phế tích. Tương lai rất cần được phục hồi như tác giả Vĩnh Cao đã viết: “Các lăng tẩm trên là di sản chung mà mọi người đều có bổn phận giữ gìn” [29, tr.125]. Hay tác giả Phùng Phu đã từng nêu:

Những cơng trình lịch sử với những khoảng trống hữu ích và khơng gian tâm linh sẽ chịu cảnh cô đơn rời rạc nếu được bảo tồn một cách quá mức cực đoan trong một giới hạn không gian cứng nhắc của quá khứ và hiện tại và sẽ chuyển hóa một cách quá sôi động đến nổi làm lu mờ cả quá khứ nếu chỉ phiến diện nhìn về xu thế phát triển mới [60, tr.38].

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>1.2.2.5. Một số cơng trình kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thời Thiệu Trị </i>

Nghệ thuật thời Thiệu Trị góp phần quan trọng trong trang trí kiến trúc cung đình, lăng tẩm thời Nguyễn. Mặc dù, sự đổi mới và sáng tạo vẫn mang tính kế thừa, sự hài hịa với cảnh quan mà kiến trúc dựa trên những nguyên tắc, yếu tố trang trí thời kỳ trước đó cho thấy một số phong cách mỹ thuật trang trí lăng vua Gia Long, Minh Mạng. Nhưng đến thời Thiệu Trị, nghệ thuật đã phát triển mạnh mẽ, ấn tượng, đặc sắc về kiểu thức, đề tài, chất liệu trang trí, tạo thành một phong cách đặc trưng mang dấu ấn phong cách thời Thiệu Trị mà khó có thể nhầm lẫn với nghệ thuật các thời kỳ khác.

Trong nghệ thuật thời Thiệu Trị, sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo, đồng thời dung hòa Phật giáo, Lão giáo khá rõ nét qua hệ thống trang trí trên các cơng trình chính mà ơng đã cho xây dựng. Tuy nhiên, tất cả đều phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ, chính vì vậy đã chi phối kết cấu, đề tài trang trí được chọn lọc một cách kỹ càng, đòi hỏi các nghệ nhân phải chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng của mỗi đề tài làm sao phải hài hòa, hợp lý trên mỗi cơng trình kiến trúc. Ở thời kỳ này, những đề tài phổ biến nhất là đề tài tứ thời, bát bửu đan xen một ô hình một ơ chữ theo lối bố cục “Nhất thi, nhất họa”, “Nhất tự, nhất họa”. Bên cạnh những đề tài như tứ linh, tứ thời, thì các lồi thực vật được đưa vào trang trí khá dày đặc ở các lăng bà hoàng như: nho, đào, lê, mận, lan, hoa cúc, hoa mai, hoa đào…, tất cả đều chứa đựng những ý nghĩa biểu trưng nhất định.

Việc kết hợp nhiều kỹ thuật chất liệu với màu sắc trong phong cách thời Thiệu Trị được tác giả Nguyễn Thiện Đức đề cập đến:

… dưới thời Thiệu Trị mới xuất hiện kỹ thuật kết hợp và xử lý chất liệu với chạm khắc gỗ như một đặc trưng nổi trội, giúp cho chạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

khắc gỗ thêm đặc sắc, chuyển tải được nhiều nội dung đề tài, mang giá trị biểu cảm khác hẳn các giai đoạn khác [36, tr.113].

Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tế tại một số cơng trình kiến trúc thời Nguyễn nói chung và lăng Thiệu Trị đã cho thấy có sự thừa hưởng những nét riêng, khá độc đáo ở các cơng trình của các vua tiền nhiệm. Giai đoạn Thiệu Trị (1841-1847), dù chỉ trị vì 7 năm, nhưng được đánh giá là thời kỳ đỉnh cao của nghệ thuật thời Nguyễn. Sau khi lên ngôi, ông nối tiếp và hoàn thiện lăng vua Minh Mạng vào năm 1843. Vua Thiệu Trị là người am hiểu về Nho giáo và cũng mộ Phật giáo, chính vì vậy mà các kiểu thức trang trí, hình tượng, biểu tượng về Nho, Phật, Lão xuất hiện rất nhiều ở khu vực lăng này.

Lăng Hiếu Đông, lăng bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua Thiệu Trị, được xây dựng từ năm (1841-1843), kiến trúc lăng được thể hiện rất đặc biệt mà nhà vua đã xây cho mẹ, qua các kiểu thức, hình tượng, nghệ thuật trang trí ở lăng như muốn nói lên nỗi niềm khao khát tình thương của vua đối với mẹ… Ngồi ra ơng đã cho trùng tu hay tiếp nối nhiều cơng trình khác ở Huế

Đến năm 1842, vua Thiệu Trị cho xây dựng chùa Diệu Đế trên nền tiền đề của ông Phước Quốc công Hồ Văn Bôi, đây cũng chính là nơi vua Thiệu

<i>Trị ra đời. Theo tác giả Nguyễn Đắc Xuân trong “Nghiên cứu triều Nguyễn và Huế xưa” có viết: </i>

Chùa Diệu Đế do vua Thiệu Trị dựng (năm 1842)… Ngôi chùa lịch sử và hai cây cầu hai bên làm cho ta nhớ lại câu ca xưa:

Đông Ba, Gia Hội hai cầu

Ngó qua Diệu Đế bốn lầu hai chng [100, tr.15].

Kiến trúc chùa Diệu Đế được xây dựng rất quy mô, lúc bấy giờ không giống với bất cứ chùa nào ở Huế, chùa có la thành bao bọc, cổng tam quan, hai bên có cổng nhỏ, trụ biểu... Kiến trúc này chúng ta thường thấy ở cung điện hay các lăng tẩm thời Nguyễn. Qua tam quan là chính điện Đại Giác, tả

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

hữu là Thiền Đường, phía trước điện là gác Đạo Nguyên, tiếp đến là hai lầu chng trống, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt Hồng Chung, nhà bên hữu dựng bia.

Kiến trúc, nghệ thuật tạo hình trang trí hay những yếu tố liên quan đến nghệ thuật thời Thiệu Trị tại chùa Diệu Đế mang dấu ấn khá đặc biệt. Ngoài những kiểu thức trang trí mà chúng ta thường thấy ở các cung điện hay lăng tẩm thì các bức hoành phi ở đây được chạm trổ một cách cầu kỳ. Bức hoành phi dài 2,15m rộng 1,12m “Diệu Đế Quốc Tự” được sơn son thếp vàng, xung quanh chạm khắc theo chủ đề rồng, xen kẻ là hình chữ vạn tượng trưng cho sắc phong vua ban. Ngoài ra các bài thơ của vua cũng được trang trí theo đề tài cung đình mang dấu ấn vua Thiệu Trị.

Trên đỉnh mái điện Đại Giác là hình tượng rồng đội mặt trời với các tia lửa nhọn hướng lên trên, các gờ mái được trang trí kiểu thức long hồi với chất liệu nề kết hợp với khảm sành sứ. Phía dưới chia thành ơ hộc, một ơ hoa văn trang trí, một ơ chữ, đây là bố cục theo thể thức “Nhất thi, nhất họa”. Các kiểu thức này cho thấy có sự tương tác qua lại giữa tôn giáo và các yếu tố nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn. Đối với hình tượng rồng năm móng chỉ được trang trí những nơi dành cho nhà vua, và hình tượng rồng bốn móng thì trang trí đình, chùa hay các cơng trình dân gian khác. Nhưng ở ngơi chùa này, lại xuất hiện hình tượng rồng năm móng. Câu hỏi đặt ra ở đây có phải vua Thiệu Trị đi ngược lại những quy định nghiêm ngặt của triều đại hay không? Hay chùa Diệu Đế là nơi vua Thiệu Trị xây dựng để cầu phúc dân an, nơi nhà vua sinh ra và lớn lên nên phá bỏ những quy tắc đó. Ngồi hình tượng rồng, các họa tiết trang trí ở chùa thường quan tâm đến là biểu tượng hoa sen, được trang trí ở nhiều góc độ khác nhau. Trong phật Giáo, hoa sen là biểu thị cho sự thanh cao, là hình tượng trưng sự giác ngộ Phật pháp. Hoa cúc biểu thị cho sự đạo mạo, biểu trưng của mặt trời hay tượng trưng cho ấn sĩ và tăng lữ. Các mơ típ khác

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

như hoa thị, bình hồ lơ, chữ vạn, chữ phúc, chữ thọ, dơi… cũng được trang trí khá nhiều kiến trúc chùa Diệu Đế. Hiện nay, chùa còn lưu giữ rất nhiều hiện vật cổ như tượng Phật, đại hồng chung, bia, hoành phi, câu đối có từ thế kỉ XIX, Thiệu Trị năm thứ 4 (1844).

Cung Bảo Định cũng được ra đời dưới thời vua Thiệu Trị (1845). Ngơi điện chính có tên là Long An gồm năm gian hai chái, chạm trổ tinh vi. Về mặt nghệ thuật đây là một trong những cơng trình kiến trúc bậc nhất thời Nguyễn. Ở điện có chạm khắc gỗ 35 bài thơ do chính vua Thiệu Trị sáng tác. Có thể xem là một trong những điểm nhấn tạo nên sự khác biệt và đánh dấu bước ngoặt trong lúc trị vì của Nhà vua.

Vào năm 1846, ông tiếp tục cho xây lăng Thuận Thiên Cao hoàng hậu, bà là vợ hai của vua Gia Long và là mẹ của Minh Mạng, lăng bà được xây dựng nằm trong quần thể không gian lăng Gia Long.

Năm 1841 vua Thiệu Trị lên ngôi đã truy tôn bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua là Tá Thiên Nhân hoàng hậu và cho xây dựng lăng Hiếu Đông, tọa lạc tại thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng , huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cơng trình lăng quy mơ bề thế có những nét độc đáo về kiến trúc, kiểu thức, chất liệu hay các mơ típ hoa văn trang trí mà hầu hết các lăng bà trở về sau khơng cịn xuất hiện. Bửu thành được xây dựng bằng gạch vữa có chiều cao 3,6m và rộng 80m, cổng ra vào được xây dựng bằng đá Thanh với vịm cung cao, thống rộng được trang trí đường diềm hoa văn cánh phụng biến thể từ hoa văn cánh sen, trên cùng là mây tụ với vòng tròn biểu tượng mặt trăng theo kiểu cái khánh… Hình tượng rồng năm móng cũng xuất hiện tại lăng Hiếu Đông, kiểu thức này khơng có gì lạ bởi vì trước đó vua Gia Long xây lăng cho mẹ mình là lăng Thoại Thánh đã sử dụng hình tượng rồng năm móng. Sự hiếu đạo đối với mẹ đã được thể hiện qua kiểu thức trang trí, đặc biệt là trang trí hình tượng rồng. Tuy nhiên, hình tượng rồng chạm trên bức bình phong

</div>

×