Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tinh huong hon nhan gia dinh pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.04 KB, 40 trang )

Câu hỏi 6.Những vụ án tranh chấp liên quan đến đất đai, khi nào xác định quan hệ pháp luật là
tranh chấp thừa kế, tranh chấp nhà ở… Thẩm quyền giải quyết và thời hiệu?
Trả lời: Xác định đúng quan hệ pháp luật là để áp dụng đúng pháp luật. Quan hệ pháp luật khác nhau thì
pháp luật áp dụng để giải quyết khác nhau, trong đó có vấn đề thời hiệu khởi kiện cũng khác nhau. Ví dụ:
cùng là quan hệ được xác lập năm 1995, nếu chỉ là tranh chấp đất thì chỉ áp dụng Luật Đất đai năm 1993,
nếu là tranh chấp nhà thì áp dụng Pháp lệnh Nhà ở, nếu là tranh chấp thừa kế thì áp dụng Pháp lệnh Thừa
kế.
* Về xác định quan hệ pháp luật: Xác định quan hệ pháp luật là căn cứ vào yêu cầu của đương sự (khởi
kiện của nguyên đơn , phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có liên quan), cụ thể như sau:
- Thứ nhất: Xác định đó chỉ là tranh chấp về quyền sử dụng đất nếu như trên đất đó không có tài sản nào
khác, hoặc có tài sản nhưng các bên không có tranh chấp về tài sản đó.
- Thứ hai: Xác định là tranh chấp về nhà ở nếu gắn liền với đất đó là nhà ở và có tranh chấp về nhà ở.
- Thứ ba: Xác định đó là tranh chấp về thừa kế nếu như việc xác định quyền sử dụng đất đó trên cơ sở
pháp luật về thừa kế.
- Thứ tư: Xác định là quan hệ hôn nhân và gia đình nếu đất tranh chấp có liên quan đên tài sản chung của
vợ chồng.
-Thứ năm: Xác định là các quan hệ pháp luật khác khi quyền sử dụng đất gắn với các quan hệ đó, như là
quan hệ góp vốn, đầu tư… 25
* Về thẩm quyền: Từ việc xác định đúng quan hệ tranh chấp mới có cơ sở xác định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp. Nếu chỉ là tranh chấp đất thì áp dụng quy định tại Điều 136 Luật đất đai 2003 để phân biệt
thẩm quyền của Tòa án nhân dân với Ủy ban nhân dân; nếu là tranh chấp thừa kế, tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng thì thẩm quyền giải quyết là của Tòa án; nếu tranh chấp quan hệ góp vốn thì lại phải
xét cụ thể quan hệ tranh chấp để phân biệt thẩm quyền của Tòa án Dân sự hay Tòa án Kinh tế.
* Thời hiệu khởi kiện: Cũng trên cơ sở xác định quan hệ pháp luật cụ thể mà xác định thời hiệu khởi kiện.
Nguyên tắc là những quan hệ tranh chấp đã được quy định thời hiệu cụ thể thì áp dụng quy định cụ thể
chứ không áp dụng quy định chung . Ví dụ: quy định thời hiệu khởi kiện nói chung theo Điều 159 Bộ luật
Tố tụng Dân sự là 2 năm kể từ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nhưng là khởi kiện về thừa kế
thì phải áp dụng quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự là 10 năm kể từ ngày mở thừa kế; cũng là thừa kế
nhưng là thừa kế về nhà ở có thời điểm mở thừa kế trước 01- 7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở
nước ngoài tham gia thì phải áp dụng quy định tại Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 là thời gian từ
01-7-1996 đến 01-9- 2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện.


Câu hỏi 7.Xác định tài sản chung hay riêng của vợ chồng trong trường hợp tài sản có trước khi kết
hôn nhưng trong thời gian hôn nhân đã đưa tài sản đó vào sử dụng chung nhiều năm?
Trả lời: Không phải cứ là tài sản có trước khi kết hôn thì là tài sản riêng, cũng không phải cứ đưa vào sử
dụng chung nhiều năm thì trở thành tài sản chung. Xác định tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung còn
phụ thuộc vào quy định của pháp luật ở thời điểm tạo lập tài sản, thời điểm kết hôn, vào những sự kiện
pháp lý làm thay đổi chế độ sở hữu tài sản. Nhà nước ta đã ban hành nhièu luật hôn nhân và gia đình và
có nội dung quy định khác nhau về chế độ tài sản của vợ chồng, cụ thể là: 26 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 (có hiệu lực thi hành từ 15-01-1060 đến 02-01-1987- ở miền Bắc, từ 25-3-1977 đến 02-01-
1987- ở miền Nam) quy định vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng dụng ngang nhau
đối với tài sản có trươc và sau khi cưới. Vì vậy, các quan hệ hôn nhân xác lập trong thời kỳ thi hành Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 1959 nêu trên thì tài sản có trươc khi cưới trở thành tài sản chung của vợ
chồng kể từ thời điểm kết hôn. Thực tiễn áp dụng pháp luật xác định những tài sản đã trở thành tài sản
chung như trên sẽ vẫn là tài sản chung nếu vợ chồng không làm thủ tục phân chia thành tài sản riêng theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 1986 (có hiệu lực từ 03-01-1987 đến 31-12- 2000) và Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 (có hiệu lực từ 01-01-2001) đều có quy định tài sản có trước khi kết hôn là tài sản riêng. Việc
chuyển tài sản riêng thành tài sản chung phải theo đúng thủ tục quy định của pháp luật Quy định về việc
nhập taì sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung tại Khoản 1, Điều 13, Nghị định 70/2001/
NĐ-CP ngày 03-10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình là: “Việc
lập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên
vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 của luật Hôn nhân và
gia đình phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng” (Khoản 2, Điều 32 quy định “Vợ,
chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”). Thưc tiễn áp dụng pháp luật
vẫn xác định nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng, sử dụng đất đó làm nhà của vọ chồng, nếu không có
chứng cứ đã thỏa thuận chuyển thành tài sản chung như có văn bản hay đã sang tên chung thì khi chia tài
sản khi ly hôn vẫn xác định nhà là của chung nhưng đất vẫn là tài sản riêng.
Câu hỏi 8.Thời hiệu để giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn được xác
định như thế nào? Vợ chồng đã ly hôn, bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng trong quá trình giải quyết việc ly hôn không yêu cầu giải quyết tài sản chung, sau khi ly hôn
lại có tranh chấp về tài sản chung và có yêu cầu tòa án giải quyết bằng vụ án khác , thời hiệu được

xác định như thế nào?
Trả lời: Pháp luật không có quy định bắt buộc phải đồng thời giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng
với việc giải quyết ly hôn. Thậm chí, việc tự thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn còn được
khuyến khích qua việc quy định đương sự chỉ phải chịu án phí chia tài sản đối với phần tài sản có tranh
chấp và yêu cầu tòa án giải quyết. Thực tế là vợ chồng có nhiều loại tài sản chung và có những tài sản họ
không muốn hoặc không thể yêu cầu giải quyết chia đồng thời với việc ly hôn. Ví dụ: vợ chồng yêu cầu
chia một ngôi nhà đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng chưa muốn chia một mảnh đất ở nơi khác
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; còn cổ phần tại một công ty thì lại phải chờ đến thời
điểm thích hợp theo điều lệ của công ty ấy mới phân chia được. Như vậy, đương sự có quyền chỉ yêu cầu
ly hôn mà chưa yêu cầu giải quyết về tài sản hoặc chỉ yêu cầu giải quyết về một phần của tài sản chung;
việc chia tài sản chung có thể được giải quyết bằng nhiều vụ án khác. Đối với những tài sản chung chưa
phân chia thì họ vẫn là đồng chủ sở hữu mặc dù họ không cỏn là vợ chồng. Khi có yêu cầu tiếp tục chia
tài sản chung sau khi đã ly hôn thì vụ án chia tài sản vẫn là vụ án hôn nhân và gia đình vì vẫn phải chia
theo các điều 95, 96, 97, 98, 99 Luật Hôn nhân và gia đình chứ không phải chỉ chia theo các quy định về
sở hữu chung của Bộ luật Dân sự. Về thời hiệu khởi kiện: Không có hạn chế về thời hiệu chia tài sản
chung. Tuy nhiên, những tranh chấp khác liên quan đến tài sản chung vẫn có thời hiệu khởi kiện nếu pháp
luật có quy định. Ví dụ: có người thứ ba xâm phạm tài sản chung thì các đồng chủ sở hữu có quyền khởi
kiện trong thời hạn 2 năm kể từ ngày quyền sở hữu bị xâm phạm; một trong hai đồng chủ sở hữu tự ý giao
dịch đối với tài sản chung thì chủ sở hữu kia có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu trong thời hạn
cụ thể mà pháp luật quy định. Cần lưu ý là chưa giải quyết về tài sản chung khác với việc đã tuyên bố
không có tài sản chung. Nếu trong bản án, quyết định về ly hôn đã có phần quyết định là vợ chồng không
có tài sản chung thì không thể thụ lý, giải quyết chia taì sản chung nếu phần quyết định không có tài sản
chung chưa bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Câu hỏi 9.Trong vụ án ly hôn, đương sự có phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con không?
Trả lời: Luật Hôn nhân và Gia đình quy định tại Khoản 1, Điều 50 là “Nghĩa vụ cấp dưỡng được quy
định giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, giữa vợ và
chồng theo quy định của Luật này” và tại Điều 54 là “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng
tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm và một lần… Các bên có thể thỏa thuận thay đổi…nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, việc cấp dưỡng nuôi con có thể là cấp dưỡng định
kỳ, có thể được giải quyết trong vụ án riêng hoặc trong cùng vụ án ly hôn. Tại Khoản 10, Điều 27 Pháp

lệnh Án phí, Lệ phí Tòa án quy định: “Người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ theo quyết định của Tòa án
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch”. Nếu không có
quy định nào khác thì có thể hiểu quy định ở Khoản 10 là trong mọi trường hợp thì người có nghĩa vụ cấp
dưỡng đều phải nộp án phí. Tuy nhiên, tại Khoản 9 Điều 27 lại quy định “Các đương sự trong vụ án hôn
nhân và gia đình có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc chịu án phí dân sự
sơ thẩm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 của Pháp lệnh này, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản
có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia”.
Như vậy, đã có một quy định về các loại án phí trong vụ án hôn nhân và gia đình và nó chỉ bao gồm án
phí ly hôn và án phí chia tài sản (là quy định tại Khoản 9, Điều 27 nêu trên). Do đó, quy định tại Khoản
10, Điều 27 chỉ là quy định về mức án phí đối với việc cấp dưỡng định kỳ, và chỉ trong trường hợp có vụ
án riêng về cấp dưỡng thì đương sự mới chịu án phí về cấp dưỡng.
Câu hỏi 11.Tại vụ án ly hôn, vợ chồng đều khai có khoản nợ ngân hành, tổ chức ngân hàng đã
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án ly hôn. Trong
quá trình giải quyết, Tòa án hòa giải các đương sự rút đơn hoặc hòa giải thành về đoàn tụ. Nếu tổ
chức ngân hàng vẫn yêu cầu giải quyết nợ thì việc giải quyết này thuộc loại án gì? Tòa án nào giải
quyết?
Trả lời: Trong vụ án hôn nhân và gia đình, khi các đương sự rút đơn hoặc hòa giải thành về đoàn tụ thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Cũng cần lưu ý là: Trước đây Tòa án vẫn có hình thức ra
“quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành” được hướng dẫn ở Điểm a, Mục 10, Nghị quyết
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23- 12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Điểm a nói trên quy định: “Nếu hòa giải
đoàn tụ thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án…ra quyết định đình chỉ
việc giải quyết vụ án. Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án lập biên bản hòa
giải đoàn tụ thành. Sau 15 ngày…không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện kiểm sát không phản đối thì
Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành có
hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng
nghị theo trình tự phúc thẩm”. Tuy nhiên, hướng dẫn ở Điểm a, Mục 10 nêu trên là phần hướng dẫn về tố
tụng nên đến thời điểm thi hành Bộ luật Tố tụng Dân sự thì phần hướng dẫn trên khác với quy định của
Bộ luật Tố tụng Dân sự nên không còn giá trị thi hành. Khi hòa giải đoàn tụ thì người có đơn xin ly hôn
dù không có đơn rút đơn xin ly hôn thì cũng đã có lời khai rút lại yêu cầu ly hôn nên vẫn thuộc trường

hợp đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Trong trường hợp ngân hàng tham
gia với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan từ yêu cầu của vợ hoặc chồng cần giải quyết
về nợ cùng với việc ly hôn thì khi Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn bao gồm luôn cả việc không
tiếp tục giải quyết việc đòi nợ chung. Đây là trường hợp Ngân hàng không có yêu cầu độc lập trong vụ án
ly hôn nên nếu Ngân hàng vẫn muốn yêu cầu giải quyết trả nợ ngay thì Ngân hàng phải khởi kiện một vụ
án độc lập về đòi nợ. Trong trường hợp Ngân hàng đã tham gia tố tụng với tư cách Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì họ có quyền và nghĩa vụ tố tụng như một nguyên đơn nên quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn không bao gồm cả quan hệ đòi nợ, Tòa án phải ra Thông báo thay
đổi địa vị tố tụng và tiếp tục giải quyết vụ án đòi nợ (vụ án dân sự). Ví dụ: Anh A xin ly hôn chị B. Anh A
có một khoản vay riêng Ngân hàng X và cung không đề cập giải quyết khoản vay này trong vụ án ly hôn.
Ngân hàng X thấy việc ly hôn của anh A có thể có việc chia tài sản chung của vợ chồng, ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ nên có đơn yêu cầu anh A trả nợ ngay và xác định một số tài sản bảo 31 đảm trả nợ. Yêu
cầu của Ngân hang X là yêu cầu độc lập và Ngân hàng đã phải làm đơn, nộp tạm ứng án phí theo quy định
của pháp luật. Nay quan hệ hôn nhân được đình chỉ việc giải quyết nhung Ngân hàng X không rut yêu
cầu, vẫn yêu cầu tiếp tục giải quyết thì Tòa án cần phải ra Thông báo thay đổi địa vị tố tụng, xác định
Ngân hàng X là nguyên đơn, anh A là bị đơn, chị B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tiếp tục
giải quyết quan hệ đòi nợ. Vụ án đòi nợ có bản chất là vụ án dân sự nhưng nếu vẫn vẫn tiếp tục giữ nó là
vụ án hôn nhân và gia đình đã bị đình chỉ một phần cũng không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các
đương sự và việc áp dụng pháp luật.
Câu hỏi 12.Ông A kết hôn với bà B có 4 con chung. Sau khi bà B chết được một thời gian thì ông A
chung sống với bà C không đăng ký kết hôn . Ông A và bà C có sử dụng chung một khối tài sản
gồm: nhà, đất thổ cư, đất nông nghiệp, đất trồng rừng. Nay ông A chết, các con riêng của ông A cho
rằng những tài sản trên là của ông A, nên đã chiếm nhà đất nêu trên. Bà C khởi kiện yêu cầu các
con riêng của ông A phải trả lại cho bà toàn bộ tài sản . Trường hợp này nên xác định mối quan hệ
pháp luật là loại tranh chấp gì?
Trả lời: Vụ án có những quan hệ tranh chấp gì là từ yêu cầu của đương sự. Yêu cầu của đương sự bao
gồm yêu cầu của nguyên đơn, phản tố của bị dơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Tất cả các yêu cầu đó tạo nên các quan hệ tranh chấp trong vụ án và cũng là phạm vi giải quyết của
vụ án. Vụ án có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ tranh chấp. Xác
định đúng quan hệ tranh chấp là để xác định phạm vi xét xử, áp dụng đúng pháp luật, mà trước hết là xác

định có những đương sự nào trong vụ án. Xác định đúng quan hệ tranh chấp là đặt tên đúng các yêu cầu
của đương sự chứ không phải là tùy tiện mở rộng phạm vi hay thu hẹp phạm vi yêu cầu của đương sự. Từ
ví dụ trên có thể có những tình huống cụ thể như sau:
1. Bà C cho rằng bà là chủ duy nhất của khối tài sản mặc dù ông A đã từng sử dụng chung nên đòi những
người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của bà trả lại tài sản (và không có phản tố hay yêu cầu độc lập
nào khác) thì vụ án chỉ có quan hệ 32 tranh chấp là đòi lại tài sản, bị đơn chỉ là những người đang trực
tiếp chiếm hữu tài sản (giả sử có 2 trong số 4 con của ông A chiếm giữ tài sản), người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan là những người đang cùng chiếm giữ (như vợ của hai người đang chiếm giữ). Nếu Tòa án
xác định yêu cầu của bà C là đúng thì chấp nhận buộc 2 người con của ông A và vợ của 2 người con này
trả lại tài sản cho bà C. Nếu Tòa án xác định yêu cầu của bà C không hoàn toàn đúng thì bác yêu cầu của
bà C ( bác yêu cầu công nhận là chủ duy nhất).
2. Nếu bà C cho rằng khối tài sản đang bị chiếm là của chung giữa bà với ông A, yêu cầu được trả lại
phần của bà thì vụ án đã trở nên có 2 quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản và quan hệ
tranh chấp chia tài sản chung. Trong trường hợp này các thừa kế của ông A phải tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chứ không phải chỉ có những người đang trực tiếp chiếm giữ
tài sản).
3. Trong trường hợp bà C vừa yêu cầu đòi lại tài sản thuộc phần do bà làm chủ vừa yêu cầu chia di sản
thừa kế của ông A (hoặc bà C không yêu cầu chia thừa kế nhưng các con của ông A lại có phản tố chia
thừa kế) thì vụ án đã trở nên có 3 quan hệ tranh chấp (thậm chí còn có thể có tranh chấp về việc bà C có
quan hệ hôn nhân hợp pháp với ông A hay không ); đối tượng của vụ án có thể còn là những tài sản khác
và có thể có thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Như vậy, việc xác định quan hệ tranh chấp
không phải chỉ là việc đặt tên cho vụ án và không phải mỗi vụ án luôn luôn chỉ có một quan hệ tranh
chấp.
Câu hỏi 13.Di sản thừa kế là tài sản chung của vợ chồng, một người chết trước đã hết thời hiệu
khởi kiện chia thừa kế. Xác định phần di sản đã hết thời hiệu thừa kế như thế nào?
Trả lời: Trong vụ án chia thừa kế thông thường (không có phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện) thì để
chia thừa kế, bước đầu tiên vẫn phải là xác định di sản. Di sản thường không phải là toàn bộ khối tài sản
có tranh chấp. Ví du: Ông A và bà B có khối tài sản chung là nhà ở trên diện tích đất là 1200m2. Ông bà
có 2 con chung là anh X và chị Y. Năm 2005, ông A chết, bà B vẫn ở nhà đất trên với anh X. Năm 2010,
chị Y khởi kiện yêu cầu được chia thừa kế của ông A. Như vậy, khối tài sản có tranh chấp là nhà ở trên

diện tích 1200m2 đất. Thực tế, trong 1200m2 đất đang sử dụng có 200m2 thuộc quy hoạch mở đường, chỉ
có 1000m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Do đó, chỉ có nhà trên diện tích 1000m2 được định
giá là 3 tỷ đồng. Chia tài sản chung giữa ông A và bà B, xác định được di sản của ông A là 1,5 tỷ đồng.
Những người được thừa kế của ông A là bà B, anh X, chị Y nên mỗi kỷ phần thừa kế là 500 triệu đồng.
Sau khi đã xác định được giá trị của kỷ phần Tòa án mới chia hiện vật. Tòa án có thể chia cho chị Y một
diện tích hợp lý trong phạm vi 1000m2 tương ứng với giá trị 500 triệu đồng. Giả sử ông A đã chết từ năm
1995, bà B chết năm 2005 thì vụ án thuộc loại có phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện. Trong trường
hợp này, khác với vụ án thừa kế thông thường nêu trên, việc xác định di sản chính là xác định phần di sản
còn thời hiệu khởi kiện. Xác định phần di sản còn thời hiệu khởi kiện cũng tương tự như việc xác định di
sản là bóc tách ra những phần tài sản không thuộc diện chia thừa kế; và cũng chỉ là bóc tách về mặt giá trị,
sau khi đã xác định được kỷ phần thừa kế mỗi người được chia thì mới chia hiên vật tương ứng với kỷ
phần. Như vậy, phần di sản còn thời hiệu khởi kiện chỉ là phần di sản của bà B là 1,5 tỷ đồng (một nửa
khối tài sản chung của bà B và ông A), có 2 thừa kế của bà B nên mỗi kỷ phần là 750 triệu đồng. Chị Y có
quyền được chia hiện vật tương ứng với 750 triệu đồng. Có một câu hỏi đã được đặt ra là phần di sản hết
thời hiệu thuộc về ai? Tòa án có quyết định về phần di sản hết thời hiệu không? Đây là vấn đề pháp luật
chưa có quy định cụ thể. Thông thường thì phần di sản hết thời hiệu vẫn tiếp tục do bị đơn quản lý. Tuy
nhiên, về nguyên tắc, đã là phần không còn thời hiệu khởi kiện thì Tòa án không được giải quyết nên
không được quyết định về phần này.
Câu hỏi 16.Trường hợp có đăng ký kết hôn , nguyên đơn xin ly hôn và khai rằng bị đơn là người
mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi thì xử ly hôn hay hủy hôn nhân trái pháp
luật.
Trả lời: Trước hết phải xác định có đúng là bị đơn bị mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực
hành vi dân sự hay không. Thực tế, có những trường hợp đương sự nói xấu, vu cáo bên kia là điên, mắc
bệnh tâm thần để Tòa án không tin lời trình bày của bên kia hoặc tước quyền tham gia tố tụng trực tiếp
của họ. Mặt khác, phải xác định nếu là mất năng lực hành vi dân sự thì mất trước hay sau khi kết hôn.
Nếu là mất năng lực hành vi dân sự trước khi kết hôn thì là hôn nhân trái pháp luật, phải hủy hôn nhân trái
pháp luật. Nếu việc mất năng lực hành vi dân sự là sau khi kết hôn và không có vi phạm nào khác thì hôn
nhân vẫn hợp pháp, phải giải quyết theo trình tự ly hôn; tất nhiên là phải có người giám hộ đại diện theo
đúng quy định của pháp luật.
Câu 17.Vợ chồng xin ly hôn và khai rằng có đăng ký kết hôn từ trước năm 2000 nhưng đã làm thất

lạc giấy đăng ký kết hôn. Đến nay, do thay đổi địa giới hành chính không lưu giữ đủ sổ sách nên
không thể xác nhận được việc đăng ký kết hôn. Có thể coi lời khai thống nhất của các đương sự về
thời điểm đăng ký kết hôn là chứng cứ xác định có đăng ký kết hôn hay không?
Trả lời: Trong vụ việc ly hôn, trường hợp vợ chồng đều thừa nhận là có đăng ký kết hôn và việc thay đổi
địa giới hành chính nên không xác định được việc kết hôn là có thật thì có cơ sở xác định họ đã có quan
hệ hôn nhân hợp pháp. Hai bên đều thừa nhận có hôn nhân hợp pháp là thừa nhận họ có trách nhiệm với
nhau theo quy định của pháp luật về quan hệ hôn nhân hợp pháp, trong đó có quan hệ 37 về tài sản, và
cũng chính là trường hợp “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà
đương sự bên kia đưa ra” như quy định tại Khoản 2, Điều 80 Bộ luật Tố tụng Dân sự về trường hợp
những tình tiết, sự kiên không phải chứng minh. Việc khai nhận là vợ chồng nếu không có dấu hiệu mạo
nhận để chống lại, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ 3 thì không cần thiết phải
xác minh thêm. Cũng phải nhấn mạnh lại là đó là trong vụ việc ly hôn và không phát hiện có dấu hiệu ảnh
hưởng đến quyền lợi của người thứ ba. Trong trường hợp có dấu hiệu mạo nhận là vợ chồng hợp pháp
hoặc việc không xuất trình đăng ký kết hôn có dấu hiệu nhằm dấu diếm thời điểm kết hôn, làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của người thứ ba thì Tòa án phải xem xét, yêu cầu xuất trình chứng cứ khác để chứng minh.
Ví dụ: Anh A đã bán cho anh X một ngôi nhà. Sau này, anh A và chị B khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao
dịch mua bán nhà vô hiệu vì anh A tự ý định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Anh X khai rằng anh A và
chị B không phải là vợ chồng , hoặc khai rằng thời điểm bán nhà thì anh A chưa kết hôn với chị B, họ
dựng lên chuyện là vợ chồng nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này thì anh A và chị B lại phải
có nghĩa vụ chứng minh họ là vợ chồng hợp pháp và thời kỳ hôn nhân cụ thể từ khi nào. Câu 18. Theo
quy định tại Khoản 2 Điều 62 Bộ luật dân sự thì: “Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi
dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không đủ điều kiện làm người giám hộ
thì người con cả là người giám hộ, nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người
con tiếp theo là người giám hộ”. Thực tế có nhiều trường hợp các người con khác đang tranh chấp với
cha, mẹ, trong khi đó người con út đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ thì có quyền là người
giám hộ đương nhiên của cha, mẹ hay không? Trả lời: Người con út cũng có quyền trở thành người giám
hộ đương nhiên của cha mẹ, bởi lẽ: Mặc dù tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật Dân sự quy định thứ tự trước sau
bắt đầu từ người con cả là người giám hộ, nếu người con cả không đủ điều kiện giám hộ thì người con
tiếp theo là người giám hộ nhưng đó là khi tất cả các con cùng ở điều kiện bình thường. Trong từng
trường hợp cụ thể, nếu điều kiện của các con là khác nhau phải căn cứ vào quy định tại Khoản 2, Điều 60

Bộ luật Dân sự để xem xét lựa chọn người giám hộ có đủ điều kiện để trở thành người giám hộ. Nếu
người con cả và các người con tiếp theo đang có tranh chấp với cha mẹ thì những người con này không
thể trở thành người giám hộ đương nhiên cho cha mẹ vì quyền lợi của họ đang xung đột, mâu thuẫn với
cha mẹ. Họ được xem là không đủ điều kiện trở thành người giám hộ, do đó, họ không thể là người giám
hộ đương nhiên của cha mẹ.
Câu hỏi 21.Tại lễ hỏi của anh A và chị B, cha mẹ của anh A mang tặng cho chị B 02 chỉ vàng. Khi
chưa đến ngày cưới thì anh A và chị B mâu thuẫn, hôn lễ không được tiến hành, cha mẹ anh A làm
đơn khởi kiện yêu cầu chị B trả lại 02 chỉ vàng. Trường hợp này cha mẹ của anh A có được quyền
khởi kiện không? Có thể chấp nhận yêu cầu của cha mẹ anh A hay không?
Trả lời: Vấn đề trước tiên cần xác định là có quyền khởi kiện không phải là khái niệm đồng nhất với khái
niệm có quyền lợi hợp pháp và có căn cứ, nói cách khác là quyền khởi kiện không đồng nghĩa với thắng
kiện. Về nguyên tắc, vụ việc phải được giải quyết theo đúng trình tự của pháp luật mới đi đến phán quyết
chấp nhận hay bác yêu cầu của đương sư. Vậy thì trường hợp nào là trường hợp Tòa án phải trả lại đơn
khởi kiện theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 168 Bộ luật Tố tụng Dân sự do “người khởi kiện
không có quyền khởi kiện”? Đó là trường hợp quyền dân sự mà họ yêu cầu không có căn cứ pháp luật,
hay nói cách khác la theo hệ thống pháp luật hiện hành thì họ không có quyền đó. Ví dụ: Anh X khởi kiện
yêu cầu được chia di sản của anh trai với lý do có công chăm sóc anh trai khi vợ, con của anh trai đang ở
xa thì đây là trường hợp anh X không có quyền khởi kiện; nhưng nếu anh X khởi kiện yêu cầu được chia
di sản của anh trai với lý do có di chúc của anh trai cho anh được thừa kế thì lại là trường hợp anh A có
quyền khởi kiện. Trong trường hợp của câu hỏi này thì cha mẹ của anh A được quyền khởi kiện về hợp
đồng tặng cho vì họ là một bên trong hợp đồng tặng cho tài sản. Việc chấp nhận yêu cầu của cha mẹ anh
A hay không phải tùy trường hợp cụ thể. Có thể được hiểu là việc tặng cho người con dâu tương lai ấy với
điều kiện người được cho trở thành con dâu của họ. Tức là việc tặng cho có điều kiện theo quy định tại
điều 470 Bộ luật Dân sự . Tùy từng trường hợp lỗi của bên nào làm cho điều kiện không được thực hiện
mà chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu đòi lại tài sản.
Câu hỏi
Vợ chồng chúng tôi thỏa thuận ly hôn năm 2009, tại tòa tôi đã trình bày về việc đóng góp nuôi con
là do chồng tôi quyết định, tự nguyện đóng góp bao nhiêu là do anh ấy, tôi không yêu cầu Tòa quyết
định. Sau khi ly hôn, chồng cũ của tôi không đóng góp một đồng nào nuôi con cả, thỉnh thoảng có
đến thăm con khi tôi vắng nhà, khi đến anh ấy ko xin phép ai trong nhà cả, mà chỉ tự ý vào chơi với

con rồi về? Hiện nay, do điều kiện kinh tế của tôi khó khăn, tôi muốn yêu cầu chồng cũ của tôi đóng
góp nuôi con có được không? Nếu anh ấy cố tình không đóng góp, tôi có quyền cấm anh ấy đến
thăm con không?
Trả lời
Tại đoạn 2 khoản 1 Điều 92 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 quy định: “Người không trực tiếp nuôi con
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”.
Tại điểm mục 11, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 quy định: “Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn
(Điều 92).
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay
không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý
do nào đó, thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của
con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp
dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải
cấp dưỡng nuôi con.
b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và
do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ
thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm
hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp
dưỡng định kỳ hàng tháng.”
Như vậy, theo bạn trình bày ở trên có nghĩa là bạn không có yêu cầu cụ thể số tiền mà bên không trực tiếp
nuôi con phải đóng góp, hơn nữa bạn cũng không yêu cầu Tòa án đề cập đến vẫn đề này, đến nay, do
hoàn cảnh kinh tế của bạn khó khăn, bạn có thể gửi yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho
Tòa án để Tòa xem xét giải quyết.
Việc quyết định mức cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào sự tự nguyện của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện, Tòa án sẽ quyết định mức cấp
dưỡng. Khi Tòa án quyết định mức tiền cấp dưỡng sẽ cân nhắc tới điều kiện của người có nghĩa vụ cấp

dưỡng, tình hình thực tế của đời sống sinh hoạt của cháu nhỏ; Tòa án cũng sẽ căn cứ vào mức thu nhập
của người cấp dưỡng, vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người cấp dưỡng.
Cuối cùng, bạn muốn hỏi, bạn có thể cấm chồng cũ thăm con có được không?
Theo quy định tại Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 về Quyền thăm nom con sau khi ly hôn:
“Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó
thực hiện quyền này.
Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng
xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu
cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”.
Như vậy, nếu việc thăm nom đó không cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc của
bạn thì bạn không thể cấm được.
Câu hỏi1
Xin Ban biên tập cho tôi hỏi, hiện tại vợ chồng tôi vẫn đang sống chung với nhau chưa ly hôn. Nay
chúng tôi muốn chia tài sản chung của vợ chồng có được không? Trong trường hợp nào việc chia tài
sản chung vợ chồng bị coi là vô hiệu?
Trả lời
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cho phép vợ chồng
có quyền thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản và ghi rõ: Lý do phân chia tài sản; phần tài sản
chia (bất động sản, động sản, các quyền tài sản) trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị
phần tài sản được chia; phần tài sản còn lại không chia, nếu có; thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản
chung; các nội dung khác, nếu có.
Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập biên bản và phải có
chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thỏa thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng
thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng không
thỏa thuận được về việc chia tài sản chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu tòa án giải
quyết.
Tuy nhiên, theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài sản chung của vợ
chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau đây bị tòa án tuyên bố là vô hiệu: Nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khác theo quy định của pháp luật, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ

thanh toán bị tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với
Nhà nước, nghĩa vụ trả nợ người khác.
Câu hỏi1
Xin cho tôi hỏi, giải quyết việc đăng ký kết hôn được quy định như thế nào trong Luật Hôn nhân và
gia đình?
Trả lời
Giải quyết việc đăng ký kết hôn
1. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra
hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ
chức đăng ký kết hôn.
2. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ
chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu
nại theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi1
Vợ chồng tôi chung sống hợp pháp đã được hơn 9 năm và đã có 2 cháu, cháu trai lớn 8 tuổi, cháu
gái bé 5 tuổi, thì tôi phát hiện 2 cháu không phải là con của tôi với vợ (qua kết quả giám định ADN
của Trung tâm GĐ công nghệ di truyền Quốc gia do gia đình tôi tự đi làm). Qua đó, chúng tôi thuận
tình ly hôn. Xin Ban biên tập cho tôi hỏi, tôi có phải cùng 2 cháu đi giám định ADN một lần nữa để
xác định tôi không phải là cha của 2 đưa bé theo yêu cầu của tòa án? Sau khi ly hôn thì trách nhiệm
của hai chúng tôi đối với 2 cháu không phải là con chung cụ thể là gì? Tôi không biết đó không phải
là con của tôi nên ngần ấy năm trời tôi vẫn đưa tiền để vợ tôi nuôi hai cháu ăn học. Vậy tòa án sẽ
giải quyết việc này ra sao? Tôi có quyền đề nghị đổi họ cho 2 cháu hay không?
Trả lời
Trước hết, khi chưa có quyết định của tòa án về việc xác nhận không phải là cha con thì 2 người con do
vợ anh sinh ra trong thời kỳ hôn nhân vẫn là con của anh. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy
định: Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ
chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ
chồng. Do vậy, nếu phủ nhận 2 cháu không phải là con mình thì anh phải yêu cầu tòa án tiến hành thủ tục
xác nhận không phải cha con.
Theo NQ02 - 2000/NQ - HĐTP ngày 23-12-2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân

và Gia đình năm 2000 như sau: Khoản 2 điều 63 và điều 64, khi có người yêu cầu tòa án xác định một
người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ; do đó về nguyên tắc người
có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien. Người có yêu cầu
giám định gien phải nộp lệ phí giám định gien. Như vậy tự anh đi giám định ADN là chưa đúng với trình
tự thu thập chứng cứ nên chứng cứ không được chấp nhận là hợp pháp. Còn số tiền nuôi 2 cháu ăn học
trước đây thì phải có đơn yêu cầu tòa án giải quyết.
Quyết định của tòa án về việc xác nhận không phải cha con là cơ sở cho việc giải quyết nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Nếu anh không phải là cha của 2 cháu thì
anh không có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 2 cháu đến lúc trưởng thành và ngược lại. Nếu anh không muốn 2
cháu tiếp tục lấy họ của mình thì anh có thể làm thủ tục thay đổi, cải chính hộ tịch để đổi họ cho 2
cháu theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Câu hỏi1
Vợ chồng sống chung với bố mẹ, khi ly hôn thì việc chia tài sản thực hiện như thế nào?
Trả lời
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài
sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản
chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối
tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình.
Việc chia tài sản này do hai bên thỏa thuận, nếu không chia được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp tài sản của vợ chồng có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ
chồng được trích ra để chia.
Câu hỏi1
Thủ tục xác minh điều kiện thi hành án cấp dưỡng nuôi con được quy định như thế nào?
Trả lời
Việc xác minh điều kiện thi hành án cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo các bước như sau:
- Ra quyết định thi hành án:
+ Chấp hành viên ra quyết định: chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải
thi hành án;
+ Người được thi hành án yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh: lập biên bản về việc yêu cầu Chấp
hành viên xác minh và các biện pháp người được thi hành án tự xác minh nhưng không có kết quả;

- Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Tiến hành xác minh điều kiện thi hành án:
+ Thời hạn: 10 ngày kể từ ngày ra quyết định thi hành án hoặc ngày nhận đơn yêu cầu xác minh của người
được thi hành án; (trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tiến hành xác minh ngay);
+ Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án;
+ Lập biên bản kết quả xác minh điều kiện thi hành án có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã, phường;
công an cấp xã; cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Câu hỏi1
Thủ tục, cách thức yêu cầu thi hành án cấp dưỡng nuôi con được thực hiện như thế nào?
Trả lời
  

Đơn yêu cầu thi hành án
cấp dưỡng
- Theo mẫu
- Ghi rõ ngày, tháng, năm
- Ký tên hoặc điểm chỉ
- Trực tiếp gửi đơn hoặc ủy quyền cho
người khác gửi đơn yêu cầu cơ quan
thi hành án cùng cấp Tòa án ra bản án,
quyết định cấp dưỡng;
- Gửi qua bưu điện.

Trực tiếp trình bày yêu
cầu thi hành án
- Theo nội dung trong mẫu đơn;
- Ghi rõ ngày, tháng, năm
- Ký tên hoặc điểm chỉ của người yêu
cầu, người lập biên bản;
- Cán bộ cơ quan thi hành án lập biên

bản nội dung yêu cầu;
- Có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
yêu cầu; chữ ký của người lập biên
bản;
- Biên bản có giá trị như đơn yêu cầu
thi hành án.

Cung cấp tài liệu liên
quan
- Bản án được yêu cầu thi hành án;
- Quyết định được yêu cầu thi hành án;
- Tài liệu liên quan (nếu có).

Nộp tại cơ quan thi hành án
Yêu cầu áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành
án
- Phong toả tài khoản (cần ngăn chặn
việc tẩu tán tiền trong tài khoản của
người phải thi hành án);
- Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
- Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch,
thay đổi hiện trạng về tài sản (ngăn
chặn chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
tẩu tán, huỷ hoại, thay đổi hiện trạng
tài sản).
- Đơn yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án
Câu hỏi1

Chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng nhưng nay kinh doanh phá sản. Vậy, tiền cấp
dưỡng nuôi con có được ưu tiên thanh toán khi giải quyết nợ của chồng không?
Trả lời
Pháp luật quy định về thứ tự thanh toán như sau:
- Tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức
lao động; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần;
- Án phí;
- Các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.
Do đó, khi chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mà bị lâm vào tình trạng phá sản, nợ nần thì trong quá
trình giải quyết, Tòa án sẽ quyết định chi trả tiền cấp dưỡng nuôi con đầu tiên trước khi quyết định chi trả
các khoản nợ khác của chồng theo đúng thứ tự nêu trên.
Câu hỏi1
Khi ly hôn, Tòa án quyết định vợ nuôi con và chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 300.000đ/tháng
nhưng chồng không thực hiện thì phải làm thế nào?
Trả lời
Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (chồng cũ) không tự nguyện thực hiện cấp dưỡng nuôi con
theo quyết định của Tòa án, người được cấp dưỡng (con) hoặc người giám hộ, người đại diện hợp pháp
của con (mẹ) có thể làm đơn, gửi tới cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền (nơi tòa án đã xét xử) kèm
theo bản sao quyết định ly hôn để yêu cầu thi hành án cấp dưỡng.
Căn cứ vào đơn yêu cầu, cơ quan thi hành án sẽ có quyết định thi hành án gửi đến người có nghĩa vụ thi
hành án cấp dưỡng (chồng cũ) và ấn định một thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết
định thi hành án để tự nguyện thi hành án.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án cấp dưỡng có đủ điều kiện thi hành án (có việc làm, thu
nhập ổn định…) mà vẫn không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành bằng
biện pháp theo quy định như khấu trừ tài khoản, tiền lương, trừ thu nhập, kê biên tài sản của người phải
thi hành án…
- Đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là cán bộ, công chức, bộ đội, công an…có thu nhập từ
lương thì theo quyết định của Toà án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập
thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp
dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và

phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ
cấp dưỡng thoả thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Toà án quyết định.
Người yêu cầu thi hành án về tiền cấp dưỡng không phải nộp phí thi hành án.
Câu hỏi1
Hai vợ chồng viết chung đơn thuận tình ly hôn nhưng sau đó một người không đến Tòa án để giải
quyết thì có coi là thuận tình ly hôn không?
Trả lời
Pháp luật quy định trường hợp cả hai vợ chồng cùng viết chung một đơn thuận tình ly hôn thì được coi là
đồng nguyên đơn. Khi thụ lý vụ án tuy chỉ có một bên nộp tiền tạm ứng án phí nhưng được hiểu là giữa
hai vợ chồng đã có sự thỏa thuận với nhau.
Do đó, trong quá trình giải quyết ly hôn, người nộp tiền án phí lại không đến Tòa án theo giấy mời của
Tòa, cố tình lẩn tránh thì Tòa án sẽ hỏi ý kiến của người còn lại về việc tiếp tục xin ly hôn nữa không. Nếu
vẫn giữ ý kiến xin ly hôn thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung như trường hợp ly hôn
theo yêu cầu của một bên.
Trường hợp không có yêu cầu ly hôn nữa thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án.
Câu hỏi1
Vợ tôi có hộ khẩu thường trú tại xã Đô Lương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Chúng tôi đăng
ký kết hôn được hơn 6 năm tại thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (nơi 2 vợ chồng công tác).
Sau 3 năm chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ tôi xin chuyển công tác về huyện Đông
Hưng và sống ly thân từ đó cho đến nay. Tôi muốn ly hôn và vợ tôi cũng đồng ý thuận tình ly hôn.
Xin cho hỏi, tôi phải nộp đơn ly hôn ở đâu? Thủ tục xin ly hôn như thế nào?
Trả lời
Theo Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thì:
“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ
chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy

định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.
Như vậy, theo Điều luật trên, anh có thể làm đơn xin ly hôn đến Tòa án địa phương nơi vợ anh cư trú (là
Tòa án huyện Đông Hưng) hoặc do anh và vợ anh thuận tình ly hôn nên có thể thỏa thuận bằng văn bản
Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn là Tòa án địa phương nơi anh cư trú (Tòa án thị xã Tuyên
Quang).
Về thủ tục ly hôn gồm
: Đơn thuận tình ly hôn có chữ ký của cả hai vợ chồng, và nội dung trong đơn có
ba vấn đề cần đề nghị Tòa án giải quyết là: ly hôn, nuôi con và tài sản. Kèm theo đơn thuận tình ly hôn là
giấy đăng ký kết hôn (bản chính). Trường hợp giấy đăng ký kết hôn bản chính bị thất lạc thì có thể nộp
bản sao có chứng thực sao y bản chính, nhưng trong đơn xin thuận tình ly hôn phải nêu rõ lý do tại sao
không có bản chính giấy đăng ký kết hôn. Ngoài ra, cần nộp bản sao có chứng thực sao y bản chính của cơ
quan có thẩm quyền các loại giấy tờ như: giấy khai sinh của con, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân của
hai vợ chồng, giấy chứng nhận về quyền sở hữu tài sản riêng,chung…
Câu hỏi1
Cách đây 3 năm, tôi quyết định sinh còn ngoài giá thú, tôi làm giấy khai sinh cho cháu mang họ của
tôi, nay người cha đẻ của con tôi tha thiết muốn nhận con và đề nghị tôi bổ sung tên cha cho cháu.
Xin cho tôi hỏi, tôi muốn bổ sung tên cha vào giấy khai sinh của con tôi có được không? Tôi phải
đến cơ quan nào để làm việc này?
Trả lời
Chị hoàn toàn có thể bổ sung tên người cha vào giấy khai sinh của cháu. Tuy nhiên trước khi bổ sung,
người cha cần làm thủ tục đăng ký việc nhận cha cho con.
Căn cứ theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch
thi UBND cấp xã nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện việc đăng ký
cha, mẹ, con. Thủ tục cụ thể như sau:
1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận
con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó
đó chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:
a). Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;

b).Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có).
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhân cha, mẹ, con là đúng
sự thật và không có tranh chấp, thì UBND cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. trường hợp cần phải
xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp cha hoặc mẹ đó
chết. Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc cha, mẹ,
con. UBND cấp xa nơi đó đăng ký khai sinh cho người con sẽ căn cứ vào Quyết định này để ghi bổ sung
phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính khai sinh của người con, nếu phần khai về
cha, mẹ trước đây để trống.
Câu hỏi1
Điều kiện yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cha mẹ không đăng ký kết hôn?
Trả lời
Để có thể yêu cầu cấp dưỡng cho con cần có điều kiện sau:
- Người cha tự nguyện nhận con hoặc thừa nhận đó là con chung của hai người (làm thủ tục nhận con tại
Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người cha cư trú: khai tên cha trong Giấy khai sinh của con, đặt tên con
theo họ của cha, đăng ký hộ tịch cho con…);
- Có quyết định hoặc bản án xét xử công nhận cha cho con của Tòa án nhân dân (mẹ yêu cầu Tòa án hoặc
đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân yêu cầu Tòa án xác định cha cho con chưa thành niên (con dưới 18 tuổi).
Nếu hai bên vẫn không thỏa thuận được việc cấp dưỡng cho con, người mẹ có thể khởi kiện ra Tòa án
nhân dân để được xem xét, giải quyết.
Câu hỏi1
Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi một bên vợ hoặc chồng đang ở nước ngoài thì giải
quyết như thế nào?
Trả lời
Trường hợp vợ chồng sau ly hôn có thỏa thuận về việc yêu cầu Tòa án công nhận thay đổi người trực tiếp
nuôi con trong đó một bên đang cư trú ở nước ngoài thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố nơi một trong các bên cư trú, làm việc.
Thủ tục tiến hành như sau:
- Người có yêu cầu thay đổi người nuôi con nộp đơn yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố nơi mình đang cư trú.

- Nộp các tài liệu, chứng cứ liên quan: bản sao hợp lệ giấy khai sinh (của con), sổ hộ khẩu, giấy chứng
minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người yêu cầu thay đổi, quyết định hoặc bản án ly hôn;
- Người đang cư trú ở nước ngoài có đơn xin vắng mặt trong đó nói rõ nguyện vọng, yêu cầu về người
nuôi con, vấn đề cấp dưỡng nuôi con (nếu có).
Đơn này phải được xác nhận chữ ký của đương sự của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài (đại sứ
quán, lãnh sự quán…)
- Tòa án quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận việc thay đổi người nuôi con sau khi nhận
đủ hồ sơ hợp lệ.
Câu hỏi1
Tôi có một người bạn li hôn với chồng được 2 năm rồi. Nhưng họ vẫn sống chung với nhau. Khi tôi
hỏi, bạn ấy trả lời là li hôn giả để chồng đi nước ngoài và bảo lãnh vợ đi. Vậy nếu li hôn giả như vậy
có bị cho là vi phạm không?
Trả lời
Điều 4 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo;
cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi". Như vậy, việc ly hôn giả tạo của cặp vợ chồng mà bạn hỏi đã vi
phạm quy định nói trên của Luật Hôn nhân và gia đình.
Câu hỏi1
Tôi và vợ tôi đã mua một căn hộ chung cư ở khu đô thị mới Linh Đàm, nhưng thời điểm ký kết hợp đồng
mua bán tôi không có mặt ở Hà Nội nên trong giấy tờ mua bán chỉ có tên vợ tôi, không có tên tôi. Đến nay
khi làm thủ tục chuyển tên sổ đỏ thì tôi muốn đứng cả tên tôi và vợ tôi trong sổ đỏ thì pháp luật có cho
phép không, thủ tục như thế nào?
Trả lời
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000, tại điều 27 quy định: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Trong trường hợp của anh, việc đăng ký mua nhà có từ thời kỳ hôn nhân, nếu vợ chồng anh không có tài
liệu nào chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của vợ anh thì tài sản đó mặc nhiên vẫn là tài sản sở hữu
chung. Trong trường hợp vợ anh muốn bán căn nhà này nhưng nếu không có sự đồng ý của anh thì cũng
không thể thực hiện được giao dịch hợp pháp.
Trường hợp mặc dù đã hiểu những phân tích như trên nhưng anh vẫn muốn đứng tên cùng vợ trong sổ đỏ

thì vẫn có thể thực hiện được. Hồ sơ gồm có: đơn xin đăng ký biến động về sử dụng đất; giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5
điều 50 của Luật Đất đai (nếu có); các giấy tờ pháp lý khác có liên quan đến việc đăng ký biến động về sử
dụng đất. Trong thời hạn không quá 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan tài nguyên và
môi trường có trách nhiệm chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Câu hỏi1
Tôi đang sinh sống và làm việc tại thành phố Hải Phòng trên 11 năm, nhưng hộ khẩu của tôi ở tỉnh
Nam Định. Tôi sắp lấy chồng là người nước ngoài, xin hỏi thủ tục cần có những loại giấy tờ gì, đăng
ký kết hôn ở đâu?
Trả lời
Theo Điều 12, Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002, việc kết hôn với người nước ngoài sẽ được tiến
hành tại Sở Tư pháp tỉnh Nam Định, nơi bạn có hộ khẩu thường trú. Đối với người nước ngoài, các loại
giấy tờ bao gồm:
- Giấy cư trú do Sở ngoại kiều cấp (tương đương hộ khẩu thường trú của Việt Nam).
- Giấy chứng nhận cư trú do phòng đăng ký dân sự nhà ở cấp (nội dung của Giấy này thể hiện cá nhân đó
hiện đang độc thân)
- Giấy khám sức khoẻ (nội dung thể hiện không bị mắc bệnh tâm thần)
Lưu ý, những loại giấy từ trên đều phải được hợp pháp hoá lãnh sự; nếu người nước ngoài không về nước
thì phải bổ sung thêm 2 loại giấy tờ sau:
- Giấy uỷ quyền: uỷ quyền cho vợ, hoặc chồng là người Việt Nam do Đại sứ quán Việt Nam tại nước sở
tại cấp và phải được hợp pháp hoá lãnh sự
- Tờ khai đăng ký kết hôn do Đại sứ quán cấp
Đối với đối tượng là người Việt Nam phải cung cấp CMND và hộ khẩu
(Theo điều 13, Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/ 2002, Điều 103, Luật Hôn nhân gia đình năm 2000)
Câu hỏi1
Vợ tôi đơn phương xin ly hôn và yêu cầu được quyền nuôi con chung 4 tuổi. Nhưng tôi thấy vợ tôi
không đủ điều kiện để nuôi con, vợ tôi không có công việc và thu nhập ổn định, bỏ con đi khỏi nhà
hơn 1 tháng nay không có tin tức gì. Hiện con đang ở với tôi rất tốt. Tôi có việc làm và thu nhập ổn
định. Vậy khi ra tòa tôi muốn được nuôi con, Tòa án có chấp nhận không?
Trả lời

Điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi
ly hôn như sau: Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con
chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với
con, nếu không thoả thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào
quyền lợi về mọi mặt của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Như vậy, trong trường hợp này, nếu cháu đang ở với bạn, bạn có đủ điều kiện chăm sóc giáo dục cháu tốt
hơn, thì hai vợ chồng bạn nên thỏa thuận với nhau. Trong trường hợp không thỏa thuận được sẽ do tòa
quyết định.
Thời gian vợ bạn bỏ đi mới hai tháng thực chất chưa chứng minh được ai sẽ nuôi dạy con tốt. Tuy nhiên,
nếu bạn chứng minh được vợ bạn không có việc làm ổn định, thu nhập không ổn định, không đủ điều kiện
nuôi dạy con tốt và bạn có đầy đủ yếu tố để nuôi dưỡng chăm sóc con tốt hơn thì bạn hoàn toàn có cơ sở
để tòa xem xét quyết định cho bạn được nuôi dưỡng cháu.
Câu hỏi1
Thu nhập hợp pháp là tài sản chung của vợ chồng gồm những khoản nào?
Trả lời
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng bao gồm:
- Tiền thưởng
- Tiền trợ cấp
- Tiền trúng thưởng xổ số
- Tài sản là gia súc, gia cầm bị thất lạc
- Tiền từ tài sản vợ chồng có được do không biết ai là chủ sở hữu (nhặt được, đào được )
- Tài sản là vật nuôi dưới nước
Câu hỏi1
Vợ, chồng có quyền nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng không? Thủ tục như thế
nào?
Trả lời
Vợ, chồng có quyền được nhập tài sản riêng thành tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp nhập tài sản

để nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên có tài sản riêng thì không được pháp luật công
nhận. Ví dụ vi phạm pháp luật bị xử phạt tịch thu tài sản riêng nên muốn nhập tài sản riêng là như nhà ở,
đất đai, xe ô tô… thành tài sản chung của vợ chồng để trốn tránh việc bị tịch thu các tài sản này.
Nhập các tài sản riêng có giá trị lớn (nhà ở, quyền sử dụng đất…) phải được lập thành văn bản, có chữ ký
của cả vợ và chồng và có thể công chứng, chứng thực theo quy định.
Câu hỏi1
Yêu cầu cấp dưỡng bổ sung được thực hiện trong trường hợp nào?
Trả lời
Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng
ở mức cao hơn thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng.
Câu hỏi1
Tiền cấp dưỡng nuôi con gồm những khoản nào? Có thể thay đổi được không?
Trả lời
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con; nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa
phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học,
khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp
dưỡng.
Việc xác định mức cấp dưỡng là do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người
giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa
thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
Câu hỏi1
Xin Ban biên tập cho tôi hỏi, khi nào vợ chồng được phép đại diện cho nhau?
Trả lời
1. Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của
pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.

2. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm
người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Toà án chỉ định làm
người đại diện theo pháp luật cho người đó.
Câu hỏi1
Cách đây 3 năm, tôi làm thủ tục đi du học ở Ôtxtrâylia và đã cắt hộ khẩu thường trú, nay tôi muốn về
nước để kết hôn thì cơ quan nào sẽ xác nhận tình trạng độc thân cho tôi? Thủ tục đăng ký gồm những gì, ở
đâu?
Trả lời
Theo quy định tại các điều 17 và 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, ngày 27/12/2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (có hiệu lực thi hành từ 1/4/2006), thẩm quyền và thủ tục
đăng ký kết hôn quy định như sau:
- Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì
phải có xác nhận của cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của
người đó Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào tờ khai đăng ký kết
hôn hoặc bằng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể
từ ngày xác nhận.
- Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn. Trong
trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập lao động ở
nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đã cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn
được thực hiện tại UBND cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ.
- Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng
minh nhân dân. Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại
xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của UBND cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của
người đó.
Câu hỏi1
Chị gái họ của tôi đang hoàn tất thủ tục xin ly hôn, nhưng chồng của chị ấy lại muốn nuôi con, con của
anh chị được gần 2 tuổi, do anh không có công ăn việc làm, không có thu nhập ổn định, nên chị gái họ của
tôi không muốn để con cho anh nuôi mà muốn là người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh phải cấp
dưỡng. Xin cho hỏi, Luật hôn nhân và gia đình quy định như thế nào về vấn đề này?
Trả lời

Theo quy định của pháp luật thì chỉ khi có bản án - quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án thì quan
hệ hôn nhân mới chấm dứt. Theo đó, các quan hệ khác như quan hệ về tài sản chung vợ chồng, con cái,
cấp dưỡng… đều phải được giải quyết.
Pháp luật nước ta quy định, sau khi ly hôn vợ chồng vẫn có nghĩa vụ ngang nhau trong việc trong nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành
vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (nếu các bên không có thỏa thuận khác).
Tại khoản 2 Điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định về việc trông nom, chăm sóc, giáo
dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn: “Vợ chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con trực
tiếp cho một bên nuôi con căn cứ vào mọi mặt quyền lợi của con; nếu con từ đủ từ 9 tuổi trở lên thì phải
xem xét đến nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi được giao cho cho mẹ trực tiếp nuôi
con, nếu các bên không có thoả thuận khác”.
Ngoài ra khi quyết định, Toà án cũng xem xét đến vấn đề tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, điều kiện
kinh tế, thời gian… của mỗi bên vợ chồng để giao con cho ai nuôi.
Câu hỏi1
Ở cạnh gia đình nhà tôi có một cháu bé năm nay cháu khoảng 12-13 tuổi, cháu được nhận về làm con nuôi
từ khi còn bé, nhưng tôi biết rõ là cha mẹ nuôi của cháu không yêu thương cháu, thậm chí còn đánh đập
và bỏ đói cháu nhiều lần, bắt cháu làm những công việc nặng nhọc, bóc lột sức lao động của cháu. Tôi xin
hỏi, cơ quan tổ chức hay đoàn thể nào có thể đứng ra yêu cầu Toà án chấm dứt quan hệ với những người
cha, mẹ nuôi không đủ tư cách ấy?
Trả lời
Tại điều 67 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội…
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và
con theo quy định của Luật này.
2. …
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em

hoặc vì mục đích trục lợi khác”
Còn theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em không phân biệt gái, trai, con trong giá
thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con chung, con riêng…… đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật”. Như vậy người con nuôi cũng được hưởng đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ, đồng thời cha mẹ nuôi cũng phải có nghĩa vụ và quyền thương yêu,
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi theo quy định của pháp
luật. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng việc nuôi con để bóc lột sức lao động, hành hạ hoặc vì
mục đích trục lợi khác.
Căn cứ điều 76 Luật hôn nhân và gia đình quy định về chấm dứt việc nuôi con nuôi thì Toà án có thể
quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong một số trường hợp trong đó có trường hợp cha mẹ nuôi đã
có các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em,
bị kết án mà cha được xoá án tích về các tội như cố ý xâm phạm tính mạng sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
người khác, ngược đãi hành hạ cha mẹ, ông bà, vợ chồng, con…, chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp, mua bán đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em…v v.
Trong các trường hợp nói trên thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc
nuôi con nuôi. Các cơ quan tổ chức như Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu
cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Bên cạnh đó các cá nhân, cơ quan tổ chức khác
cũng có quyền đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Toà án, các quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt; Nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc là người đã
thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Toà án quyết
định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom nuôi dưỡng.
Câu hỏi1
Ở cạnh gia đình nhà tôi có một cháu bé năm nay cháu khoảng 12-13 tuổi, cháu được nhận về làm con nuôi
từ khi còn bé, nhưng tôi biết rõ là cha mẹ nuôi của cháu không yêu thương cháu, thậm chí còn đánh đập
và bỏ đói cháu nhiều lần, bắt cháu làm những công việc nặng nhọc, bóc lột sức lao động của cháu. Tôi xin
hỏi, cơ quan tổ chức hay đoàn thể nào có thể đứng ra yêu cầu Toà án chấm dứt quan hệ với những người
cha, mẹ nuôi không đủ tư cách ấy?
Trả lời

Tại điều 67 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội…
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và
con theo quy định của Luật này.
2. …
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em
hoặc vì mục đích trục lợi khác”
Còn theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em không phân biệt gái, trai, con trong giá
thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con chung, con riêng…… đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật”. Như vậy người con nuôi cũng được hưởng đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ, đồng thời cha mẹ nuôi cũng phải có nghĩa vụ và quyền thương yêu,
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nuôi theo quy định của pháp
luật. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng việc nuôi con để bóc lột sức lao động, hành hạ hoặc vì
mục đích trục lợi khác.
Căn cứ điều 76 Luật hôn nhân và gia đình quy định về chấm dứt việc nuôi con nuôi thì Toà án có thể
quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong một số trường hợp trong đó có trường hợp cha mẹ nuôi đã
có các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em,
bị kết án mà cha được xoá án tích về các tội như cố ý xâm phạm tính mạng sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
người khác, ngược đãi hành hạ cha mẹ, ông bà, vợ chồng, con…, chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp, mua bán đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em…v v.
Trong các trường hợp nói trên thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc
nuôi con nuôi. Các cơ quan tổ chức như Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu
cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Bên cạnh đó các cá nhân, cơ quan tổ chức khác
cũng có quyền đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Toà án, các quyền và nghĩa vụ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt; Nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc là người đã
thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Toà án quyết

định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom nuôi dưỡng.
Câu hỏi1
Xin cho tôi hỏi, trước đây tôi và vợ tôi có mua 01 mảnh đất thổ cư, nhưng do thời điểm đó tôi đang đóng
quân ở xa, nên vợ tôi ở nhà làm thủ tục chuyển nhượng và đứng tên trong sổ bìa đỏ. Đất thổ cư đứng tên
vợ tôi có được coi là tài sản chung vợ chồng không? Tôi muốn đăng ký lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên của cả 2 vợ chồng có được không?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình thì
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng
đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có
thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền
sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”
Căn cứ vào quy định trên thì tài sản do vợ chồng tạo ra do thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân là tài
sản chung của vợ chồng. Do đó, thổ đất thổ cư mà vợ chồng anh chị mua hợp pháp sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng.
Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của vợ, chồng theo
quy định tại khoản 2, Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình và Điều 5 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
ngày 3-10-2001 của Chính Phủ, bao gồm: Nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu trước ngày Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực (ngày 18-10-
2001) mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ chồng; nếu vợ chồng không

yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng,
nếu có tranh chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thì có nghĩa vụ chứng minh.
Vì vậy, anh có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên
của cả hai vợ chồng.
Câu hỏi1
Ai tham gia hòa giải ly hôn tại Tòa án?
Trả lời
Theo quy định, thành phần phiên hòa giải ly hôn tại Tòa án gồm có:
- Thẩm phán, chủ trì phiên hòa giải
- Thư ký Tòa án, ghi biên bản hòa giải
- Vợ, chồng yêu cầu ly hôn
- Người đại diện hợp pháp của vợ, chồng
- Người phiên dịch (nếu vợ, chồng không biết tiếng Việt)
Câu hỏi1
Khi nộp đơn ly hôn cần những thủ tục nào? Cán bộ Toà án yêu cầu hồ sơ phải có Biên bản hoà giải của xã
như vậy có đúng không?
Trả lời
Nếu vợ chồng đều quyết định Ly hôn thì hai người viết đơn thuận tình ly hôn và nộp cho Toà án nhân dân
nơi có hộ khẩu thường trú trong đó nêu rõ lý do dẫn đến việc vợ chồng ly hôn, việc thoả thuận giải quyết
tài sản chung và nuôi con.
Nộp kèm giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh của con và giấy chứng nhận các loại tài sản chung của
vợ chồng (nếu có).
Khi có đầy đủ đơn thuận tình Ly hôn và các loại giấy tờ liên quan nêu trên bạn đến nộp tại Toà án nhân
dân có thẩm quyền chứ không cần phải có biên bản thoả thuận hoặc thông qua Uỷ ban nhân dân phường.
Việc cán bộ Tòa án yêu cầu hồ sơ phải có Biên bản hòa giải của phường là không đúng quy định pháp
luật.
Câu hỏi1
Người bị Tòa án bác đơn ly hôn có thể tiếp tục làm đơn xin ly hôn không?
Trả lời
Khi Tòa án xử bác đơn xin ly hôn của người có yêu cầu ly hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại trước

pháp luật do đó sau thời gian một năm kể từ ngày bản án bác đơn ly hôn có hiệu lực pháp luật, người bị
Tòa án bác đơn xin ly hôn vẫn có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Câu hỏi1
Tôi đã ly hôn năm 2007 và vừa chuyển khẩu về địa phương mới, khi đăng ký kết hôn, cơ quan yêu cầu tôi
phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (phải về địa phương cũ để xác nhận) là đúng hay sai? Trong khi
tôi đã xuất trình bản sao Quyết định ly hôn của tòa án và chứng minh thư nhân dân. Tôi về địa phương cũ
thì chính quyền ở đây nói anh đã chuyển đi, chúng tôi không thể xác nhận tình trạng hôn nhân, còn ở địa
phương mới thì thiếu giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của tôi. Xin Ban biên tập cho tôi hỏi tôi cần làm
những thủ tục gì để đăng ký kết hôn được?
Trả lời
1. Thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký
quản lý hộ tịch. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình
Giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị
trấn khác, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người
đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì
phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của
người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác
nhận tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc
bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại chương V của Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
Như vậy, quy định trên chỉ yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nếu bạn đăng ký kết hôn tại xã, phường
khác không phải nơi cư trú của mình. Trường hợp này bạn xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy
định sau: bạn phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trường hợp bạn đã có vợ nhưng đã ly hôn thì phải
xuất trình trích lục Bản án/Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc ly hôn. Sau khi nhận đủ
giấy tờ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc viên chức Lãnh sự ký và cấp cho bạn Giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định). Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn xác minh là 5 ngày.

Thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân quy định tại Điều 66 Nghị định số 158/2005/NĐ-
CP là: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân; Công dân
Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian ở trong nước,
thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó cư trú trước khi xuất cảnh, thực hiện việc cấp Giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân; Công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn
nhân trong thời gian ở nước ngoài, thì Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước mà người đó cư trú,
thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Trường hợp của bạn đã chuyển hộ khẩu thì Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 hướng dẫn thực
hiện Nghị định 15/2005/NĐ-CP quy định: Đối với những người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau (kể cả
thời gian cư trú ở nước ngoài), mà Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi xác nhận tình trạng hôn nhân không rõ về
tình trạng hôn nhân của họ ở những nơi đó, thì yêu cầu đương sự viết bản cam đoan về tình trạng hôn
nhân của mình trong thời gian trước khi về cư trú tại địa phương và chịu trách nhiệm về việc cam đoan.
Đối chiếu với quy định nêu trên thì bạn không bắt buộc phải xin xác nhận tình trạng hôn nhân tại nơi
thường trú trước đây. Tuy nhiên Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định về thủ tục
đăng ký kết hôn thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký kết hôn có thể xác minh trước khi tiến hành đăng
ký kết hôn. Do đó, UBND cấp xã nơi đăng ký kết hôn có thể tự mình hoặc yêu cầu bạn xin xác nhận tại
UBND cấp xã trước đây về tình trạng hôn nhân của bạn. Bạn có thể viết đơn với nội dung là từ khi có
quyết định ly hôn (đã có hiệu lực pháp luật) của Tòa án thì bạn chưa đăng ký kết hôn với ai và xin xác
nhận của UBND cấp xã nơi thường trú cũ.
Câu hỏi1
Vợ chồng tôi có tạo lập được một căn nhà nhưng nay tôi muốn để vợ tôi đứng tên thì có được hay không?
Trả lời
Theo khoản 3 Điều 12 Luật Nhà ở, trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì “giấy hồng”
phải ghi đủ tên của cả vợ và chồng.
Nếu vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản là chỉ ghi tên một người (vợ hoặc chồng) thì vẫn được xem xét,
giải quyết.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản hìn
h thành trong thời gian hôn nhân là tài sản chung của vợ và chồng. Trong trường hợp của bạn, nếu “Giấy
hồng” đứng tên vợ bạn, thì tài sản đó vẫn là tài sản chung vợ chồng.
Câu hỏi1

Vợ chồng tôi nhận con trai của người thân làm con nuôi đã được 13 năm, hiện nay có một số vấn đề phát
sinh từ phía con nuôi của vợ chồng tôi, nên chúng tôi muốn chấm dứt việc nhận con nuôi có được không?
Nếu được, thủ tục như thế nào? Chúng tôi có thể ủy quyền cho người khác giải quyết hay không?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha, mẹ nuôi có quyền chấm dứt việc
nuôi con nuôi. Việc chấm dứt nuôi con nuôi chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi;
- Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ
nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi
Theo quy định nói trên, nếu vợ chồng anh và người con nuôi đã thành niên cùng tự nguyện chấm dứt quan
hệ nuôi con nuôi thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về thủ tục chấm dứt nuôi con nuôi: Theo quy định tại khoản 1 Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình thì
“Con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi, cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án ra
quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi”. Do vậy, để chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, vợ chồng anh cần
có đơn yêu cầu gửi đến Tòa án cấp quận, huyện (nơi người con nuôi đã thành niên đang cư trú) để đề nghị
giải quyết.
Đối với việc ủy quyền cho người khác chấm dứt việc nuôi con nuôi thì vợ chồng anh có thể ủy quyền cho
người khác tham gia việc giải quyết yêu cầu Tòa án ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Vì theo
quy định tại khoản 3 Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự thì chỉ “đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy
quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”.
Câu hỏi1
Vợ chồng tôi lấy nhau từ cuối năm 2002 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn,vì tại thời điểm đó tôi
chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, 2 gia đình vẫn tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương, mời họ
hàng, bạn bè đến chung vui. Đến nay chúng tôi muốn ly hôn thì phải làm gì?
Trả lời
Căn cứ điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: việc đăng ký kết hôn phải được đăng ký
và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức
quy định tại điều 14 của luật này; Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại điều 14 của luật này đều
không có giá trị pháp lý; Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì

không được pháp luật công nhận là vợ chồng; Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải
đăng ký kết hôn.
Do vậy quan hệ của hai bạn không được thừa nhận là quan hệ vợ chồng, nếu muốn chấm dứt quan hệ nói
trên: “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng” thì một trong hai bên có
thể yêu cầu Tòa án giải quyết (được quy định điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2005). Tuy nhiên trong quá
trình thụ lý vụ việc Tòa án cũng xem xét một số điều kiện cụ thể: Đối với những trường hợp kết hôn khi
một bên hoặc cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 1, điều 9,
tùy từng trường hợp mà quyết định như sau:
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến
tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng
cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định
hủy việc kết hôn trái pháp luật.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên đã đến tuổi kết hôn, trong thời
gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định hủy việc kết hôn
trái pháp luật. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn thì Tòa án thụ lý
vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Câu hỏi1
Trường hợp nào được xem xét miễn, giảm tiền án phí ly hôn? Thủ tục xin miễn, giảm án phí ly hôn?
Trả lời
Toà án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí và có thể được Toà án miễn một phần
hoặc toàn bộ án phí khi ly hôn nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên ngoài giá thú;
- Có khó khăn về kinh tế được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức xã hội nơi cư trú
hoặc làm việc chứng nhận;
Thủ tục thực hiện như sau:
- Đơn đề nghị của người có yêu cầu xin miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí;
- Xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc xác nhận của cơ quan, tổ chức nơi
đang làm việc về hoàn cảnh kinh tế khó khăn của người xin miễn, giảm;
- Nộp đơn có xác nhận cho Toà án để có thể được Toà án xem xét miễn hoặc giảm một phần tiền tạm ứng

án phí.
Câu hỏi1
Khi ly hôn phải nộp những khoản tiền gì? Ai là người phải nộp những khoản tiền này?
Trả lời
Án phí ly hôn (sơ thẩm) là 200.000 đồng nếu không có tranh chấp về tài sản; nếu có tranh chấp về tài sản
thì án phí được tính theo quy định chung.
Bên nào có yêu cầu ly hôn thì bên đó có nghĩa vụ đóng tạm ứng án phí ly hôn.
Tòa án chỉ thụ lý giải quyết yêu cầu ly hôn khi bên có yêu cầu ly hôn đã đóng án phí (có biên lai nộp án
phí cung cấp cho Tòa án).
Câu hỏi1
Thời gian giải quyết ly hôn là bao lâu?
Trả lời
  
 !

"#"
Thời hạn chuẩn bị xét xử Kể từ ngày Tòa án thụ lý vụ án 4 tháng 6 tháng
Thời hạn mở phiên tòa Kể từ ngày có quyết định đưa
vụ án ra xét xử
1 tháng 2 tháng
$%&  ' (
Câu hỏi1
Hồ sơ yêu cầu giải quyết ly hôn gồm có những giấy tờ gì?
Trả lời
Khi yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, cần có các giấy tờ sau đây:
- Đơn xin ly hôn (Theo mẫu do Tòa án cung cấp);
- Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (trường hợp bị mất, rách hỏng…cần đến cơ quan nơi cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn để được cấp lại hoặc xác nhận (ví dụ: Ủy ban nhân dân, Sở Tư pháp
hoặc cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài);
- Bản sao Hộ khẩu thường trú, tạm trú của người viết đơn ly hôn (nguyên đơn) và của người bị xin ly hôn

(bị đơn) có công chứng chứng thực;
- Bản sao Chứng minh thư nhân dân hoặc bản sao hộ chiếu của người viết đơn ly hôn (nguyên đơn) và của
người bị xin ly hôn (bị đơn) có công chứng chứng thực;
- Các giấy tờ chứng minh về tài sản: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, giấy tờ mua
bán xe máy, ti vi, tủ lạnh…
- Bản sao giấy khai sinh của các con có công chứng, chứng thực…
- Giấy tờ khác có liên quan.
Câu hỏi1
Vợ bỏ nhà đi mang theo giấy tờ, tài sản. Nay chồng muốn ly hôn nhưng vợ không chịu về vậy Tòa án có
giải quyết không?
Trả lời
Theo quy định của pháp luật, với những trường hợp vắng mặt của đương sự, tòa vẫn xét xử cho ly hôn. Do
đó, chồng có quyền gửi đơn đến Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi vợ có hộ khẩu thường trú để yêu
cầu giải quyết ly hôn.
Trường hợp vợ bỏ nhà đi, nếu đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì
Tòa án lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử theo thủ tục chung.
Trong trường họp xét xử vắng mặt, Tòa án sẽ tiến hành niêm yết bản án tại trụ sở Tòa án nhân dân nơi đã
xét xử sơ thẩm và Ủy ban nhân dân phường, xã nơi người vợ cư trú.
Sau 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án hoặc từ ngày người vợ nhận được bản án mà người vợ không kháng
cáo hoặc sau 30 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án hoặc từ ngày Việ Kiểm sát nhận được bản án mà Viện
Kiểm sát nhân dân cùng cấp (quận/huyện) không kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật và người
chồng có thể lập gia đình với người khác mà không bị coi là vi phạm pháp luật.
Câu hỏi1
Đơn thuận tình ly hôn nộp ở đâu nếu vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú ở một địa phương nhưng sinh
sống ở địa phương khác?
Trả lời
Theo quy định thì Toà án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú,
làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Theo đó, khi ly hôn các bên có thể nộp đơn tại Toà án nhân dân nơi vợ chồng cư trú (nơi đăng ký hộ

khẩu) hoặc nơi làm việc của chồng hoặc của vợ. Việc lựa chọn Tòa án nơi nào giải quyết là do vợ chồng
cân nhắc trên cơ sở đảm bảo phù hợp với điều kiện đi lại, tham gia các thủ tục tại tòa án trong quá trình
giải quyết ly hôn.
Câu hỏi1
Bố mẹ tôi mua cho vợ chồng tôi một căn nhà. Nay, chúng tôi ly hôn thì căn nhà đó có bị chia đôi không?
Việc chia tài sản khi ly hôn được giải quyết thế nào?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau
khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất".
Như vậy, nếu căn nhà vợ chồng bạn được bố mẹ tặng cho chung hoặc tặng cho một bên nhưng vợ chồng
thoả thuận là tài sản chung thì căn nhà được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp đó,
việc chia tài sản khi ly hôn được giải quyết theo các nguyên tắc như sau:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên,
tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao
động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều
kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng
hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Câu hỏi1
Cha mẹ tôi có tài sản chung là ngôi nhà ở mặt phố cổ Hà Nội. Năm 1995, cha đi vào miền Nam và không
thấy trở về; gia đình tìm kiếm nhưng không thấy. Năm 2002, Tòa án ra quyết định tuyên bố ông mất tích.
Nay, chúng tôi muốn chuyển nhượng căn nhà trên có được không?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình, căn nhà mà gia đình bạn đang sử dụng là tài sản

chung của cha mẹ bạn nên cả 2 người có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc định đoạt tài sản nói
trên. Vì vậy, việc chuyển quyền sở hữu nhà cho người khác phải có sự đồng ý của cha bạn.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, cha bạn mất tích nhiều năm và đã bị Tòa án tuyên bố là mất tích từ năm
2002 nên theo quy định tại mục a khoản 1 Điều 81 Bộ luật dân sự, những người có quyền, lợi ích liên
quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố cha bạn là đã chết vì đã “sau ba năm, kể từ ngày quyết
định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Bộ luật dân sự: “Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã
chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của

×