Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

báo cáo bài tập lớn môn triết học mác lênin đề tài quan điểm của chủ nghĩa mác lênin ý thức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.63 KB, 49 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINHTRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA</b>

<b>BÁO CÁO BÀI TẬP LỚNMƠN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN</b>

<b>ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ý THỨCXÃ HỘI</b>

<b>Lớp: L06 ~ Nhóm: 22 ~ HK231Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoa</b>

TP. Hồ Chí Minh - 2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀICỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 22</b>

1. Lê Vạn Tài 2212977 <sup>Phần mở đầu: 4, 5</sup>

<i><b>NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)</b></i>

Lê Minh Tâm Nhóm trưởng: Lê Minh Tâm

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

PHẦN MỞ ĐẦU...1

1. Tính cấp thiết của đề tài...1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài...3

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài...3

PHẦN NỘI DUNG...4

CHƯƠNG 1...4

1.1. Khái niệm, kết cấu và các hình thái ý thức xã hội...4

1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội...4

1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội...5

Theo trình độ và phương thức phàn ánh đối với tồn tại xã hội ý thức xã hội chia thành:...5

1.1.3. Các hình thái ý thức xã hội...8

1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội...21

1.2.1. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội...21

1.2.2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội...22

1.2.3. Ý thức xã hội có tính kế thừa...24

1.2.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội...25

1.2.5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội...25

Tiều kết chương 1...26

CHƯƠNG 2...28

2.1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay...28

2.1.1. Khái niệm “đạo đức”, “giáo dục đạo đức”...28

2.1.2. Nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay...29

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.2. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa và vai trò của

việc giáo dục đạo đức cho sinh viên...31

2.2.1. Tình hình và đặc điểm của sinh viên trường Đại học Bách khoa...31

2.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay...32

2.3. Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay...34

2.3.1. Thực trạng về công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay...34

2.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay...35

Tiểu kết chương 2...36

KẾT LUẬN CHUNG...37

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...38

PHỤ LỤC...39

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên đại học. Sinh viên đại học là lực lượng lao động trí tuệ, có trình độ học vấn cao, là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước trong tương lai. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học hiện nay.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, ý thức xã hội là một hiện tượng xã hội, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Ý thức xã hội bao gồm: ý thức giai cấp, ý thức dân tộc, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ,...

Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống quan điểm, niềm tin, tình cảm, chuẩn mực đạo đức của con người đối với các quan hệ xã hội. Ý thức đạo đức có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người, hướng con người tới những điều thiện, tránh xa những điều ác, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.

Chính vì vậy cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng bên cạnh những thành tụ đó thì vẫn cịn những hạn chế cần tiếp tục khắc phục, các thế lực thù địch lun tìm cách chống phá, mục đích hạ thấp uy tín của Đảng hoặc nhầm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng.

Là sinh viên của Bách khoa chúng em nhận biết rằng là lực lượng lao động trí tuệ, có trình độ học vấn cao, là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước trong tương lai. Sinh viên có vai trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sinh viên là lực lượng nòng cốt trong học tập, nghiên cứu khoa học, phát triển cơng nghệ, góp phần nâng cao trình độ dân trí, phát triển kinh tế -xã hội đất nước. Sinh viên cũng là lực lượng tiên phong trong các phong trào

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

tình nguyện, tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, vùng sâu, vùng xa.

Sinh viên là lực lượng dự bị động viên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời bình, sinh viên tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc thông qua các hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh, hoạt động tình nguyện tham gia phịng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Trong thời chiến, sinh viên sẵn sàng lên đường bảo vệ tổ quốc.

Bên cạnh những đóng góp to lớn, sinh viên cũng còn tồn tại một số hạn chế như:

Trình độ nhận thức, ý thức chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên còn chưa đáp ứng yêu cầu. Một số sinh viên còn thiếu ý thức trách nhiệm, ngại tham gia các hoạt động xã hội, dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội.

Kỹ năng thực hành, khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn của một bộ phận sinh viên còn hạn chế. Một số sinh viên còn chưa tự tin, năng động trong học tập và cuộc sống.

Đây cũng là lý do nhóm chọn đề tài” VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HIỆN NAY” làm bài tập lớn để kết thúc mơn học Triết học Mác-Lênin.

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài</b>

<i>Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và</i>

toàn diện về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức xã hội. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng và đưa ra các đề xuất về giải pháp vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ý thức xã hội vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

<i>Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích nêu trên, đề</i>

tài cần phảỉ thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

<i>Một là, trình bày, phân tích và làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Lênin về ý thức xã hội.

<i>Hai là, trình bày, phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho</i>

sinh viên

trường Đại học Bách khoa hiện nay.

<i>Ba là, đề tài đề xuất một số giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh</i>

viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

<b>3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài</b>

Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về ý thức xã hội và vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa hiện nay.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu đề tài</b>

Để đạt được mục đích và hồn thành tốt những nhiệm vụ nêu trên, nhóm đã tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp liệt kê; phương pháp so sánh, đối chiếu.

<b>5. Kết cấu của đề tài</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 2 chương:

Chương thứ nhất là “Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về ý thức xã hội” được chia thành 2 tiết chính : tiết đầu nói về khái niệm, kết cấu và các hình thái ý thức xã hội ; tiết thứ 2 nói về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

Chương thứ hai là “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách Khoa hiện nay” chia thành 3 tiết chính : tiết đầu giải thích khái niệm “đạo đức” , “giáo dục đạo đức” và nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay ; tiết thứ hai nói về tình hình, đặc điểm của sinh viên trường ĐHBK và vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên; tiết thứ 3 nêu lên thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trường ĐHBK hiện nay.

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG 1</b>

<b>QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ý THỨC XÃHỘI</b>

<b>1.1. Khái niệm, kết cấu và các hình thái ý thức xã hội1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội </b>

Ý thức xã hội là loại hình tri thức đặc biệt của con người, ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nếu “ý thức... khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.<small>1</small>.

Ý thức xã hội là ý thức được chia sẻ bởi các cá nhân trong xã hội. Ý thức xã hội được liên kết với sự tự nhận thức và kinh nghiệm của cá nhân, tập thể về bản sắc xã hội được chia sẻ chung về tình hình và tác động xã hội mà họ đang trải qua hoặc đối mặt. Điều này bao gồm nhận thức về các khía cạnh xã hội như tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, mơi trường, đạo đức và định hình xã hội. Ý thức xã hội đóng vai trị quan trọng trong việc định hình giá trị, tư duy và hành vi của con người.

Ví dụ:

Ý thức xã hội phản ánh những sự phân biệt và bất công xã hội: Một

<small>1</small><i>Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho sinh</i>

viên đại học khối khơng chun ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

người có ý thức xã hội tốt có khả năng nhận ra sự phân biệt và bất công trong xã hội, chẳng hạn như phân biệt đối xử dựa trên giới tính, sắc tộc, tơn giáo hoặc tình trạng kinh tế. Desmond Tutu một giáo sĩ Anh giáo và nhà thần học người Nam Phi chỉ ra:

“Nếu bạn trung lập trong những tình huống bất cơng, bạn đã chọn phe của kẻ áp bức. Nếu một con voi đặt chân lên đi chuột và bạn nói rằng bạn là người trung lập, thì con chuột sẽ khơng đánh giá cao sự trung lập của bạn”.

Ý thức xã hội giúp ta hiểu về tác động của các hành động cá nhân và xã hội đến môi trường. Như các nhà lãnh đạo Hàn Quốc Ban Ki-moon đã nói:

“Cứu hành tinh của chúng ta, đưa mọi người thốt khỏi đói nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… đây là một cuộc chiến giống nhau. Chúng ta phải kết nối các điểm giữa biến đổi khí hậu, khan hiếm nước, thiếu năng lượng, sức khỏe toàn cầu, an ninh lương thực và trao quyền cho phụ nữ. Giải pháp cho một vấn đề phải là giải pháp cho tất cả”.

<b>1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội</b>

<b>Theo trình độ và phương thức phàn ánh đối với tồn tại xã hội ý thức xã hội chia thành: </b>

<b>- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng</b>

Tâm lý xã hội là tồn bộ đời sống tình cảm, khát vọng, ý chí của những cộng đồng con người nhất định được hình thành trong quá trình sinh sống hàng ngày, trong hoạt động lịch sử của quần chúng, trong quá trình đấu tranh cách mạng, lao động và nghỉ ngơi; là sự phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hồn cảnh sống.

Ví dụ:

Tác động của người thân và gia đình: Các nghiên cứu về tâm lý xã hội đã chỉ ra rằng mối quan hệ gia đình, chẳng hạn như tình cảm cha mẹ, anh chị em, có thể có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tâm lý của một người. Như một trẻ em có mối quan hệ ổn định và hạnh phúc với cha mẹ thường có khả năng phát triển tốt hơn so với những

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

trẻ có mối quan hệ gia đình xấu.

Tác động của truyền thơng và phương tiện truyền thơng: Truyền thơng đóng vai trị quan trọng trong tâm lý xã hội. Ví dụ, quảng cáo, phim ảnh và truyền hình có thể tạo ra những hình mẫu và tiêu chuẩn mà con người cố gắng tuân theo, ảnh hưởng đến cả cách họ nghĩ về bản thân và về thế giới. Tâm lý xã hội cũng phản ánh một cách trực tiếp và tự phát những điều kiện sinh hoạt hằng ngày của con người, cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề mặt của tồn tại xã hội.

<i>Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý</i>

luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái qt hóa các kinh nghiệm xã hội hình thành nêm quan niệm, quan điểm như chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo, pháp lý phản ánh gián tiếp, được các nhà tư tưởng xây dựng một cách tự giác theo mục đích nhất định đối với sự tồn tại xã hội.

Ví dụ:

Hệ tư tưởng tơn giáo thường xuất hiện dưới nhiều hình thức và biểu đạt khác nhau trên khắp thế giới. Dưới đây là một số ví dụ về hệ tư tưởng tôn giáo:

Đạo Thiên Chúa Kitô (Christianity): Đạo Thiên Chúa Kitô là một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới, dựa trên tin tưởng vào Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và Kinh Thánh là kinh điển của họ. Các tín đồ Kitơ giáo thường tơn vinh Chúa qua lễ kính, lễ cầu nguyện và tham dự lễ kính Chúa vào mỗi Chúa Nhật.

Đạo Hồi (Islam): Đạo Hồi dựa trên Kinh Qur'an và tin tưởng vào một Thiên Chúa duy nhất gọi là Allah. Họ tuân theo năm nguyên tắc căn bản, được gọi là "Năm Rồng" của đạo Hồi, và thực hiện lễ cầu nguyện năm lần mỗi ngày.

Phật giáo (Buddhism): Phật giáo là một hệ tư tưởng tôn giáo phát xuất từ Ấn Độ và dựa trên lời dạy của Đức Phật Gautama. Tơn giáo này tập trung vào việc thốt khỏi chu kỳ tái sinh bằng cách tu hành, cải thiện đạo đức cá nhân và giảng dạy về lòng khoan dung và tình thương.

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Trong xã hội có giai cấp, nội dung tâm lý của xã hội vừa có những yếu tố có tính giai cấp lẫn những yếu tố khơng có tính giai cấp nhưng hệ tư tưởng có tính giai cấp. Khi đi từ hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác, hệ tư tưởng căn bản cũng biến đổi nhưng tâm lý của xã hội lại vô cùng bảo thủ và trì trệ.

Tâm lý của xã hội và hệ tư tưởng có sự tác động qua lại với nhau. Tâm lý của xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng khi nó là đối tượng phản ánh của hệ tư tưởng; ảnh hưởng gián tiếp đến hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là một phương tiện để hình thành tâm lý của xã hội, hình thành nên hiểu biết về sự phát triển của xã hội, hình thành nên các tâm thế, các thái độ và cả tình cảm của quần chúng. Hệ tư tưởng sẽ củng cố ý chí đấu tranh và củng cố cho giai cấp thêm niềm tin vào sức mạnh của mình, tin vào tính chất tất thắng của lý tưởng giai cấp.

Tâm lý của xã hội vốn là một mặt của ý thức xã hội, chính là một biểu hiện của đời sống quần chúng, đời sống của các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau. Đối tượng của tâm lý học xã hội, tức là những hình thức khác nhau của tâm lý, ý thức của khối người đông đảo vốn có những tính chất đặc trưng cúa nó phân biệt với các quá trình, các trạng thái và thuộc tính của nhân cách do tâm lý học đại cương nghiên cứu.

Theo trình độ phản ánh ý thức chia thành:

<b>- Ý thức xã hội thông thường </b>

Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn và cuộc sống hàng ngày của con người chưa được hệ thống hóa và khái quát hóa một cách rõ ràng.

Ví dụ:

Thời gian là q báu: Hầu hết mọi người coi thời gian là tài sản quý báu và cố gắng sử dụng nó một cách hiệu quả. Họ có thể tuân thủ thời gian biểu, ưu tiên công việc quan trọng, và cố gắng tận dụng mọi giờ phút.

Sức khỏe quan trọng: Sức khỏe được xem là quan trọng nhất. Người ta

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

thường quan tâm đến việc duy trì lối sống lành mạnh, chăm sóc sức khỏe bản thân qua việc ăn uống cân đối và tập thể dục.

<b>- Ý thức lý luận</b>

Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa một cách rành mạch thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật.

Ví dụ:

Quyết định mua sắm: Khi bạn đứng trước một quyết định mua sắm đắt tiền, ý thức lý luận giúp bạn xem xét các tùy chọn, so sánh giá cả, chất lượng sản phẩm và xem xét nhu cầu thực sự trước khi đưa ra quyết định.

Nghiên cứu khoa học: Trong nghiên cứu khoa học, ý thức lý luận đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển giả thuyết, thiết kế thí nghiệm, thu thập dữ liệu và đưa ra kết luận dựa trên bằng chứng.

Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách sinh động và trực tiếp các mặt khác nhau của cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức xã hội thơng thường tuy ở trình độ thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại phong phú hơn ý thức lý luận, là cơ sở và tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận.

Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội. Đồng thời, ý thức khoa học có khả năng phản ánh vượt trước hiện thực.

<b>1.1.3. Các hình thái ý thức xã hội </b>

Có nhiều hình thức ý thức xã hội khác nhau, nhưng các hình thức chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức nghệ thuật (ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức khoa học (ý thức lý luận) và ý thức triết học. Sự phong phú, đa dạng của các hình thức ý thức xã hội phản ánh sự phong phú, đa dạng của chính đời sống xã hội. Trong số các hình thức ý thức xã hội khác nhau, có những hình thức gần

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

gũi hơn với cơ sở kinh tế của tồn tại xã hội, và cũng có những hình thức ý thức xã hội càng xa cơ sở kinh tế hơn các hình thức ý thức xã hội khác. Vì vậy, những biểu hiện của ý thức chính trị, ý thức pháp luật là gần gũi nhất với nền tảng kinh tế.

<b>- Ý thức chính trị</b>

Đầu tiên hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và trong các xã hội có sự tồn tại của giai cấp và nhà nước.

Ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội,

giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước nêu lên được những lợi ích căn bản, địa vị của các giai cấp và mối liên hệ lẫn nhau của các giai cấp đó trong việc quản lý, bảo vệ đất nước. Ý thức chính trị chia thành hai cấp độ: cấp độ thực tiễn đời thường và cấp độ tư tưởng – lý luận.

Ý thức chính trị thực tiễn đời thường hình thành trực tiếp từ trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm, xã hội của con người và môi trường xung quanh trực tiếp phụ thuộc vào hiện thực kinh tế khách quan hàng ngày. Cho nên, nó khơng có sự khái quát về mặt trí tuệ, lý luận.

Về ý thức tư tưởng, lý luận chính trị là tập hợp những quan điểm thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định, dùng làm cơ sở lý luận cho đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược trong cuộc đấu tranh giai cấp

tâm trạng về chính trị của quần chúng cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lý xã hội như vậy lại đóng vai trị to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng đơng đảo. Thơng qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của xã hội.

Hệ tư tưởng của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh tồn tại xã hội về địa vị của một giai cấp nhất định một cách trực tiếp và sâu sắc nhất. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị có vai trị to lớn trong đời sống xã hội. Nó tác động trở lại cơ sở kinh tế thông qua các tổ chức nhà nước. Tư tưởng

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

chính trị cịn có vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, thâm nhập vào các hình thức ý thức xã hội khác, tư tưởng chính trị có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến ý thức con người. Chính trị nói chung phụ thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng, hoặc phản tiến bộ. Bản chất cách mạng của giai cấp mang tư tưởng này. Khi giai cấp này tiến bộ và đại diện cho một bước ngoặc cách mạng trong lịch sử, hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp này trở nên lạc hậu, phản động, tư tưởng chính trị của nó sẽ có tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

Ví dụ:

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về các quy luật phát triển tự nhiên và xã hội, là khoa học về cuộc cách mạng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, là khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam hành động và ủng hộ Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng giải phóng con người khỏi sự bóc lột, đàn áp của giai cấp. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, tất nhiên chúng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện, điều kiện cụ thể của đất nước ta, cốt lõi của nó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và lòng yêu nước của nhân dân ta

Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đảm bảo cho nhân dân là người chủ thật sự của xã hội; quyền lực xã hội thuộc về nhân dân.

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>- Ý thức pháp quyền</b>

<i>Ý thức pháp quyền là toàn bộ tư tưởng, quan điểm và thái độ của giai</i>

luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân,

nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước. Nó là một hình thái của ý thức xã hội biểu hiện tri thức và sự đánh giá những chuẩn mực được thừa nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là những đạo luật về hoạt động kinh tế – xã hội của những chủ thể pháp quền khác nhau.

Pháp quyền là hệ thống các luật lệ, thể chế được quy định trong các văn bản quản lý của nhà nước do giai cấp thống trị ban hành và được toàn xã hội yêu cầu nhằm bảo vệ vai trò, lợi ích của giai cấp thống trị. Về cơ bản, nhà nước pháp quyền là luật (hệ thống pháp luật). Sự khác biệt giữa nhà nước pháp quyền và pháp luật là nhà nước pháp quyền nhấn mạnh đến sự cưỡng bức của quyền lực nhà nước, còn pháp luật là hiện thân cụ thể của hệ thống pháp luật. Mỗi chế độ xã hội đều có hệ thống pháp luật, công cụ, phương tiện và biện pháp riêng để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị.

Tính giai cấp của ý thức pháp quyền về thực chất pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nó phản ánh vai trị, vị trí và lợi ích của các giai cấp khác nhau nhưng pháp luật của giai cấp thống trị ln bảo vệ vị trí và lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật với chức năng điều tiết các quan hệ xã hội thông qua luật; nhưng đồng thời ý thức pháp quyền mang tính chất lịch sử.

Giống như ý thức chính trị, ý thức pháp luật là bẩm sinh. Cả hai hình thức đều gần gũi về nội dung và hình thức. Nhận thức về nhà nước pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện bằng pháp luật nên chế độ xã hội mỗi

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

quốc gia chỉ có một chế độ. Tuy nhiên, trong một xã hội có sự đối kháng giai cấp, các tầng lớp khác nhau có cách hiểu pháp luật khác nhau, điều này phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Vì vậy, ý thức pháp luật không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà cịn phụ thuộc vào trình độ nhận thức xã hội và tâm lý pháp luật.

Ví dụ:

Ở Việt Nam, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành là kết quả của sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng phản ánh và thể hiện lợi ích dân tộc trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

<b>- Ý thức đạo đức</b>

Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.

Chủ nghĩa Mác chỉ ra nguồn gốc hiện thực của sự ra đời các tư tưởng và nguyên tắc, tính lịch sử, tính giai cấp, vị trí và vai trị của đạo đức và ý thức đạo đức trong sự phát triển xã hội. Ph. Ăngghen viết: “Con người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”<small>1</small>. Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì ý thức đạo đức hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã hội riêng.

Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện rất sớm ở trong xã hội thời kì nguyên thủy. Trong thời kì nguyên thủy quan niệm đạo đức gắn liền với những quan niệm về sự ý thức lương tâm, danh dự và lịng

<small>1C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Sđd, t.20, tr.136.</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

đạo đức. Ý thức đạo đức là những quan niệm về thiện ác, hạnh phúc, công bằng, lương tâm và những nguyên tắc nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người trong các mối quan hệ đối xử với nhau và đối xử với xã hội là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất của con người. Sự tự ý thức đạo đức phản ánh khả năng của mỗi người là tự chủ mà khơng có sự giám sát cũng như hình phạt của xã hội. Giá trị của đạo đức nó khơng chỉ giới hạn trong mỗi dân tộc, mỗi quốc gia mà có tính chất lịch sử tồn nhân loại.

Khác với pháp quyền điều chỉnh xã hội bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, thì đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư luận xã hội, tập quán và giáo dục, nên ảnh huởng của đạo đức rộng lớn hơn pháp quyền. Trong xã hội đạo đức mang tính giai cấp. Bởi vì, sự đối lập về lợi ích của các giai cấp khác nhau thì đồng thời mỗi một giai cấp có những quan niệm về đạo đức khác nhau. Tính giai cấp của đạo đức thể hiện tập trung thông qua vai trò của các giai cấp thống trị xã hội. Đạo đức dựa trên sức mạnh của dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi dân tộc, nó mang tính dân tộc. Trong các xã hội có giai cấp, những nội dung chủ yếu của đạo đức mang tính giai cấp. Ph. Ăngghen viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của

Do đó sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ của một xã hội. Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lí tính khơng thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong quá trình phát triển của xã hội đã hình thành những

<small>1C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.137.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

giá trị đạo đức mang tính tồn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con người trong cộng đồng xã hội.

Trong xã hội ta hiện nay bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp cần phải phát huy và xây dựng những chuẩn mực và giá trị đạo đức mới có lối sống lành mạnh, có lý tưởng cách mạng, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo vệ của công và chống lại lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, chạy theo lợi ích. Cho nên, mỗi cán bộ đảng viên và mỗi người dân phải không ngừng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới, đấu tranh cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ.

Ví dụ:

Từ xa xưa, ơng cha ta có những bài học về ý thức đạo đức để khuyên răn con người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như:

+Về đạo làm con:

Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,

Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lịng thờ mẹ kính cha

Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con. +Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử: Kính trên, nhường dưới.

Lời nói chẳng mất tiền mua,

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Lựa lời mà nói cho vừa lòng

Ý thức thẩm mỹ thể hiện sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu tận hưởng và sáng tạo cái đẹp. Trong hoạt động cầu tận hưởng và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là phương tiện biểu hiện cao nhất của cái đẹp.

Ví dụ:

Khi phản ánh về con người nói chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có (cấu tạo cơ thể con người gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ….) còn các nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người; đặc biệt là đi sâu tìm tịi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những con người bình dị, đời thường.

Theo đó, giá trị nội dung và hình thức của nghệ thuật đều phản ánh tồn tại hiện thực, một sự phản ánh mang tính độc lập tương đối rõ nét. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hóa. Do đó, khơng phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại hiện thực một cách trực tiếp và dễ thấy.

Nghệ thuật không phải bao giờ cũng phản ánh hiện thực xã hội một cách trực tiếp, về điều này C. Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất định của nó hồn tồn khơng tương ứng

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

với sự phát triển chung của xã hội, do đó cũng khơng tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội”<small>1</small>.

Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời: “Nghệ thuật vị nhân sinh”, cổ vũ những hành vi đạo đức và tính tích cực, sáng tạo của con người. Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật mang tính giai cấp, chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của mơt giai cấp nào đó, khơng thể đứng ngồi chính trị và các quan hệ kinh tế. Nghệ thuật và những giá trị nghệ thuật cao đó cịn có tác dụng giáo dục các thế hệ tương lai, góp phần hình thành ở họ thế giới quan và vốn văn hóa tiên tiến.

Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hồn tồn sai lầm. Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, trong xã hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khơng phủ nhận tính nhân loại chung của nó, khơng ít tác phẩm nghệ thuật, nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mặc dù tác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của cả nhân loại. Tính giai cấp của nghệ thuật, cách mạng và tiến bộ khơng những khơng mâu thuẫn với tính nhân loại mà ngược lại cịn làm rõ sâu sắc giá trị tồn nhân loại. Nghệ thuật tiến bộ đồng thời vừa phục vụ cho dân tộc mình, vừa phục vụ cho cả nhân loại; vừa phục vụ cho thế hệ hiện tại lẫn cho cả các thế hệ tương lai.

Ví dụ: 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln đánh giá cao vai trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn nghệ sĩ trách nhiệm nặng nề đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

<small>1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.3.</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<b>- Ý thức tôn giáo</b>

<i>Tôn giáo là một hình thái của ý thức xã hội, phản ánh thế giới hiện</i>

thực một các hoang đường, hư ảo và thần thánh hóa. Tơn giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó gắn liền với đạo đức và nghệ thuật, thần thọai và các truyền thuyết, Ph Ăngghen đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về tôn giáo: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình

Sự xuất hiện tơn giáo có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội do sự bất lực của con người trước những lực lượng xã hội gây ra nhiều tai họa cho con người làm nảy sinh ra tín ngưỡng tơn giáo với những ước mơ, khát vọng vào cuộc sống sau khi đã chết. Nguồn gốc nhận thức do vai trò của ý thức, tách ý thức ra khỏi con người, mặt khác còn do sự bất lực của con người trước các hiện tượng tự nhiên dẫn đến thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên, hình thành biểu tượng và tình cảm tơn giáo.

Tơn giáo bao gồm có tâm lý tôn giáo và tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là những tình cảm, niềm tin, tập quán và biểu tượng tín ngưỡng tơn giáo. Tư tưởng tơn giáo là những quan điểm tôn giáo phát triển thành những giáo lý tôn giáo trở thành thế giới quan tôn giáo được thể hiện theo quan điểm của những giai cấp khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của tôn giáo tương ứng với những nhu cầu tinh thần của con người. Tuy nhiên, tính khách quan của bản thân nhu cầu đó khơng có nghĩa là tính chân lý của những phương tiện tơn giáo nhờ đó mà nhu cầu được thỏa mãn.

Bản chất của ý thức tôn giáo chính là sự phân đơi một cách hư ảo thế giới hiện thực vốn thống nhất thành hai thế giới – “thế giới trần tục” và “thế giới bên kia”. Mọi tôn giáo đều ảo tưởng cho rằng, khổ đau, bất hạnh, ngang trái trên đời này sẽ được giải quyết một cách triệt để ở “thế giới bên kia/ kiếp sau”. Tơn giáo đã và sẽ cịn ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội. Mặt nhân

<small>1C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.437.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

văn của tôn giáo là đền bù - hư ảo và hướng thiện cho con người. Mặc tiêu cực của tôn giáo là đối lập với khoa học, hơn nữa, hạn chế những nỗ lực chân chính của con người có thể làm cho xã hội và cần phải vươn lên nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân mỗi người. Chính mặt tiêu cực của tơn giáo ln được các giai cấp bóc lột thống trị xưa nay lợi dụng như một công cụ áp bức tinh thần, như phương tiện để củng cố địa vị thống trị của họ.

Niềm tin của bất kỳ tôn giáo nào cũng là sự phản ánh hoang đường về hiện thực và về cơ bản là đối lập với khoa học. Cho nên, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến đối với đời sống xã hội. Sự ảnh hưởng đó là sự phủ nhận khả năng nhận thức và vai trò của con người đối với hiện thực khách quan. Làm cho con người sống theo những “mặc cảm”, an phận thủ tiêu đấu tranh xã hội và nó bị lạm dụng bởi lợi ích của các thế lực phản động và của các giai cấp bóc lột trong lịch sử. Tuy nhiên, mặt khác tơn giáo cũng có khả năng “định hướng” cho cái thiện và làm việc thiện của con người trong một chừng mực nhất định nào đó khi nó quan hệ với đạo đức, quan hệ giữa cái thiện và cái ác dù là ở trong tư tưởng của tôn giáo.

Đấu tranh khắc phục sự ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo là một địi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Nhưng điều trước hết là xóa bỏ nguồn gốc sinh ra tơn giáo. Về vấn đề này Mác đã từng nói: “sự giải quyết thực sự mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người, sự giải quyết thực sự cuộc tranh chấp hiện sinh và bản chất, giữa sự đối lập hóa và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu giữa cá nhân và tộc loại”. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Nâng cao trình độ nhận thức khoa học tuyên truyền giáo dục tư tưởng vô thần khoa học cho mọi người. Chống lại sự lạm dụng tơn giáo của các thế lực phản động, đồn kết các tơn giáo vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giải thích nguồn gốc và bản chất của tơn giáo là một trong những vấn đề phức tạp của triết học. Chủ nghĩa duy tâm và các tôn giáo đã và sẽ cịn giải thích một cách sai lầm, xuyên tạc về vấn đề này. Nguồn gốc tôn giáo gồm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, và xét đến cùng đều gắn

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

liền với tồn tại xã hội: Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức mạnh của tự nhiên chưa được nhận thức và chế ngự là nguồn gốc nhận thức của tôn giáo và sự bất lực, sợ hãi và đau khổ của con người trong điều kiện xã hội có áp lực, bóc lột là một trong những nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Nguồn gốc của tơn giáo cịn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp và có tính tự phát, các quy luật xã hội biểu hiện ra như là những lực lượng mù quáng, tự phát, trói buộc con người thường xuyên quyết định số phận của họ. Cho nên họ cũng cảm nhận các lực lượng hiện thực này của xã hội dưới hình thức thần bí hóa của lực lượng siêu nhiên.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo là phải xóa bỏ cả nguồn gốc nhận thức lẫn nguồn gốc xã hội. Coi trọng tự do tín ngưỡng và đồn kết tơn giáo là chính sách nhất qn của Đảng ta trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng va bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt bình thường theo đúng pháp luật. Đồn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tơn giáo có nghĩa vụ làm trịn trách nhiệm công dân đối với tổ quốc, gắng “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức của tơn giáo. Từng bước hồn thiện luật pháp về tín ngưỡng tơn giáo. Nghiêm cấm sử dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng tơn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”.

Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả là hướng con người và việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày nhiều mặt và ngày càng tốt hơn của con người. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo

</div>

×