Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BÁO CÁO THÍ NGHIỆM MÔN THÍ NGHIỆM HÓA HỌC VÀ HÓA SINH THỰC PHẨM ĐỊNH TÍNH CARBONHYDRATE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.47 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHTRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA</b>

<b>KHOA KỸ THUẬT HĨA HỌCBỘ MƠN CƠNG NGHỆ THỰC PHẨM</b>

<b>BÁO CÁO THÍ NGHIỆM</b>

<b>MƠN THÍ NGHIỆM HĨA HỌC VÀ HĨA SINH THỰC PHẨMĐỊNH TÍNH CARBONHYDRATE</b>

<b>Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị NguyênNhóm 2 – HK232 – Buổi chiều thứ 6 – Tuần 15</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>A. Định lượng lipid tổng theo phương pháp soxhletI. Cơ sở lý thuyết</b>

Phạm vi áp dụng: Các nguyên liệu, sản phẩm dạng rắn. Ngun tắc:

Dùng dung mơi kỵ nước trích ly hoàn toàn lipit từ nguyên liệu đã được nghiền nhỏ. Một số thành phần hòa tan trong chất béo cũng được trích ly theo bao gồm sắc tố, các vitamin tan trong chất béo, các chất mùi,… tuy nhiên hàm lượng của chúng thấp. Do có lẫn tạp chất, phần trích ly được gọi là lipit tổng hay dầu thơ.

Hàm lượng lipit tổng có thể tính bằng cách cân trực tiếp lượng dầu sau khi chưng cất loại sạch dung mơi hoặc tính gián tiếp từ khối lượng bã cịn lại. Ưu điểm của cách tính gián tiếp là có thể đồng thời trích ly được nhiều mẫu trong cùng một trụ chiết.

<b>II. Chuẩn bị thí nghiệm1. Dụng cụ thiết bị</b>

– Bộ Soxhlet (bình cầu, trụ chiết, ống sinh hàn), tủ sấy 105 , cân phân tích.℃, cân phân tích. – Cối chày sứ, bình hút ẩm, giấy lọc gấp thành túi đựng nguyên liệu.

– Một bóng đèn 100w làm nguồn nhiệt.

<b>2. Nguyên liệu, hóa chất</b>

– Đậu phộng.

– Dung mơi trích ly lipid: diethyl ether hoặc ether petrol. Dung mơi ether phải khơng chứa peroxyt, nước, rượu và có độ sôi khoảng 40 – 50 . Xử lý ether như sau:℃, cân phân tích.

– Ether: 500mL

– Dung dịch NaOH hay KOH 40%: 5mL – Dung dịch KmnO<small>4</small> 4%: 50 mL

– Để trong 24 giờ, thình thoảng lắc đều, sau đó rửa 4 – 5 lần nước cất, loại bỏ nước bằng phểu chiết, cho thêm 50g Na<small>2</small>SO<small>4</small> khan và để trong 24 giờ, chưng cất ether, bảo quản trong chai thủy tinh màu.

<b>III. Tiến hành thí nghiệm</b>

<i>Bước 1: Cân khoảng 2,5g đậu phộng rồi nghiền nhỏ, và đem sấy đến khối lượng không</i>

<i>Bước 2: Gấp giấy lọc thành túi để đựng nguyên liệu. Chú ý gói mẫu phải có bề rộng</i>

nhỏ hơn đường kính ống trụ và chiều dài ngắn hơn chiều cao ống chảy tràn. Sấy khô đến khối lượng không đổi và đem cân trên cân phân tích 4 số lẻ. Ghi lại số liệu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>Bước 3: Cân chính xác 2g đậu phộng nghiền nhỏ đã được sấy khô cho vào bao giấy.Bước 4: Dùng bút chì viết lên bao giấy khối lượng bì và mẫu. Đặt bao giấy vào trụ</i>

chiết. Lắp trụ chiết vào bình cầu và gắn ống sinh hàn.

<i>Bước 5: Qua đầu ống sinh hàn, dùng phều cho dung môi vào trụ chiết sao cho một</i>

lượng dung môi đã chảy xuống bình cầu và một lượng trên phễu chiết cịn đủ ngập mẫu. Dùng bơng làm nút đầu ống sinh hàn. Mở nước lạnh vào ống sinh hàn. Mở cơng tắc đèn và bắt đầu trích lipid.

<i>Bước 6: Điều chỉnh nhiệt độ trích ly sao cho chu kì hồn lưu của dung môi dạt từ 5 đến</i>

8 lần trong một giờ. Chiết cho đến khi trích ly hồn tồn chất béo (ước tính khoảng từ 8 – 12 giờ). Thử bằng cách lấy vài giọt ether ở cuối ống xiphong nhỏ lên giấy lọc, dung môi bay hơi không để lại vết dầu loang thì kết thúc.

<i>Bước 7: Cho ether chảy xuống hết bình cầu. Lấy bao giấy ra, đặt dưới tủ hotte cho bay</i>

hơi hết ether ở nhiệt độ thường rồi cho vào tủ sấy, sấy ở 100 – 105 trong 1,5 giờ. Để℃, cân phân tích. nguội trong bình hút ẩm, cân xác dịnh khối lượng bằng cân 4 số lẻ.

<b>IV. Kết quả thí nghiệm và nhận xét</b>

Tính kết quả: Hàm lượng phần trăm chất béo tính theo cơng thức:

<i>X =<sup>M</sup></i><sup>1</sup><i><sup>− M</sup></i><sup>2</sup>

trong đó: M<small>1 </small>- khối lượng bao giấy và mẫu ban đầu, g

M<small>2 </small>- khối lượng bao giấy và mẫu sau khi trích ly lipit và sấy khô, g m - khối lượng mẫu ban đầu, g

Hàm lượng phần trăm chất béo trong đậu phộng là:

<i>X =<sup>M</sup></i><sup>1</sup><i><sup>− M</sup></i><sup>2</sup>

<i>2,9661 −</i>

2,0101 <sup>=</sup><sup>¿</sup>

<b>So sánh kết quả với lý thuyết:</b>

Kết quả mà nhóm tính được là phù hợp với lượng chất béo có trong đậu phộng theo như lý thuyết. Thông thường hàm lượng phần trăm chất béo trong đậu phộng dao động từ 45-50%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>Bảng thống kê thành phần dinh dưỡng, các loại khoáng chất trong 100g lạc </i>

<b>So sánh kết quả với các nhóm khác:</b>

– Từ bảng kết quả ta thấy được sai lệch giữa các nhóm là khơng lớn và tất cả đều nằm trong khoảng dao động của hàm lượng chất béo trong đậu phộng 45-50%. Điều này đạt được là nhờ các nhóm cùng cho vào chung một bình Soxhlet nên mọi điều kiện trong lúc chiết là hoàn toàn giống nhau.

– Sai lệch giữa các nhóm có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:

+ Các nhóm phải nghiền nhỏ đậu phộng và cho vào tủ sấy để giảm lượng ẩm nên có thể kích thước hạt đậu lúc đó giữa các nhóm sẽ khơng giống nhau.

+ Lúc chiết trong bình Soxhlet thì lượng nước sẽ vì vậy theo ra ngồi làm tăng hàm lượng chất béo thu được (vì chúng ta chỉ cân khối lượng mẫu sau khi chiết).

<b>B. Phản ứng Benedict (đường đơn)I. Nguyên tắc</b>

Phản ứng Benedict là phản ứng đặc trưng phát hiện đường khử. Độ nhạy của phản ứng này rất cao, có thể phát hiện đường khử ở nồng độ 0,1%

Nguyên tắc của phương pháp là trong môi trường kiềm dung dịch đường khử sẽ khử ion Cu<small>2+</small>

<b>II. Phương trình phản ứng</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>III. Chuẩn bị thí nghiệm</b>

– Thuốc thử Benedict: Hịa tan 173g citrat natri trong 700 ml nước sôi. Thêm vào 100g cacbonat natri Na<small>2</small>CO<small>3</small> khan, làm lạnh. Thêm dần 100 ml dung dịch CuSO<small>4</small>.5H<small>2</small>O 17,3%. Thêm nước cất tới 1000 ml.

– Dung dịch glucoza, sacaroza, lactoza 1% (w/v)

<b>IV. Tiến hành thí nghiệm</b>

<i>Bước 1: Dùng pipette lấy vào 3 ống nghiệm, ống thứ nhất 2 ml glucoza, ống thứ hai 2</i>

ml sacaroza, ống thứ ba 2 ml lactoza.

<i>Bước 2: Thêm vào mỗi ống 2 ml thuốc thử Benedict bằng pipette.Bước 3: Đun các ống nghiệm ở 95</i><small>o</small>C trong 2 phút. Ghi nhận kết quả.

<b>V. Hiện tượng và biện luận kết quả1. Hiện tượng</b>

<b>Ống 1</b> Màu xanh lam Màu đỏ cam và xuất hiện kết tủa đỏ gạch

<b>Ống 2</b> Màu xanh lam Màu xanh dương (khơng có sự thay đổi)

<b>Ống 3</b> Màu xanh lam Màu đỏ cam và xuất hiện kết tủa đỏ gạch

<i><b>2. Biện luận</b></i>

+ Dung dịch ở ống 1 chuyển sang màu đỏ, cam và xuất hiện kết tủa. Chứng tỏ mẫu trong ống nghiệm có khả năng khử ion Cu<small>2+ </small>tạo thành tủa Cu<small>2</small>O có màu đỏ cam. Vì vậy,

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

ta có thể kết luận glucoza là đường khử và trong mơ thực vật cũng có sự xuất hiện của đường khử.

+ Saccaroza được hình thành từ gốc α – glucoza và gốc β – fructoza liên kết với nhau qua nguyên tử O ở giữa C1 của glucoza và C2 của fructoza. Saccaroza thuộc loại dissaccarit khơng có tính khử bởi nhóm –OH hemiaxetal tự do khơng cịn do đó khơng chuyển thành dạng andehit nên khơng có tính khử. Vậy nên sacaroza khơng phản ứng với dung dịch Benedict nên vẫn giữ màu xanh lam là màu của ion Cu<small>2+</small>.

+ Ống 3 có sự chuyển sang màu đỏ cam nên lactoza cũng có tính khử. Lactoza được cấu tạo từ 1 phân tử galactoza và 1 phân tử glucoza. Kết hợp giữa nhóm –OH glucozit của glucoza và nhóm –OH ở vị trí số 4 của galactoza tạo thành liên kết β –1,4 – glicosidic. Lactoza có tính khử do cịn nhóm OH hemiaxetal nên có khả năng mở vịng tạo –CHO.

C<small>12</small>H<small>22</small>O<small>11</small> (Lactoza) + 2CuSO<small>4</small> + 2Na<small>2</small>CO<small>3 </small><i>t<small>o</small></i>

<i><small>→</small></i> C<small>12</small>H<small>22</small>O<small>12</small> + Cu<small>2</small>O↓ + 2Na<small>2</small>SO<small>4</small> + 2CO<small>2</small>↑

<b>VI. So sánh với các nhóm khác</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Nhìn chung, các nhóm đều ra kết quả màu giống nhau và khơng có sự khác biệt đáng kể giữa các ống.

<b>C. Phản ứng với thuốc thử Fehling I. Ngun tắc</b>

Trong mơi trường kiềm đun nóng, monosaccharide ở dạng enol–diol không bền, dễ dàng khử các kim loại nặng như Cu<small>2+</small>, Ag<small>+</small>, Hg<small>2+</small>. Monosaccharide sẽ khử Cu<small>2+</small> trong thuốc thử Fehling thành Cu<small>+</small> có kết tủa đỏ gạch.

– Thuốc thử Fehling (chỉ pha trước khi sử dụng): trộn đều một thể tích dung dịch Fehling A và một thể tích dung dịch Fehling B theo tỷ lệ 1:1

– Dung dịch glucoza, fructoza, saccaroza, lactoza 1% (w/v)

<b>IV. Tiến hành thí nghiệm</b>

<i>Bước 1: Lấy 4 ống nghiệm và đánh số từ 1 đến 4. Cho vào ống 1: 2 ml glucoza 1%;</i>

ống 2: 2 ml fructoza 1%; ống 3: 2 ml saccaroza 1%; ống 4: 2 ml lactoza 1%.

<i>Bước 2: Thêm vào mỗi ống 2 ml thuốc thử Fehling, sau đó đem đun nóng tới 95°C</i>

trong 2 phút.

<b>V. Hiện tượng, biện luận kết quả và tài liệu tham khảo1. Hiện tượng</b>

<b>Ống 1</b> Màu xanh dương Màu cam, có kết tủa đỏ gạch

<b>Ống 2</b> Màu xanh dương Màu vàng cam, có kết tủa đỏ gạch

<b>Ống 3</b> Màu xanh dương Màu xanh dương (khơng có sự thay đổi)

<b>Ống 4</b> Màu xanh dương Màu vàng, có kết tủa đỏ gạch

<i><b>2. Biện luận</b></i>

– Ống 1,2,4 có sự xuất hiện kết tủa đỏ gạch nên glucoza, fructoza và lactoza là đường khử. Tuy đều xuất hiện kết tủa Cu<small>2</small>O đỏ gạch nhưng màu ở ống 1 đậm hơn ống 2 và đậm

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hơn ống 3. Điều này được giải thích là do nhóm – CHO của glucoza có tính khử mạnh hơn hơn nhóm –C=O của fructoza. Còn màu ở ống 4 nhạt nhất là do lactoza là disaccharide nhưng vẫn cịn 1 nhóm – OH glycoside nên tính khử yếu hơn ống 1 và 2.

– Ống 3 không xuất hiện kết tủa đỏ gạch nên saccaroza là đường không khử.

 <i>So sánh với kết quả trong phản ứng Benedict:</i>

– Giống nhau:

+ Cả 2 phản ứng đều ra kết quả giống nhau, giúp xác định được tính khử của đường. + Kết quả đều cho ra kết tủa đỏ gạch sau khi đun nóng đối với các đường có tính khử. + Cả 2 loại thuốc thử đều có màu xanh dương.

– Khác nhau:

+ Màu của các ống nghiệm chứa đường khử ở thí nghiệm với thuốc thử Fehling có màu đậm hơn và ngã sang nâu. Trong khi đó, màu này ở thí nghiệm với thuốc thử Benedict có màu đỏ, cam tươi hơn.

+ Trong thuốc thử Fehling thì thành phần hoạt động chính là tartrate đồng (II), còn ở thuốc thử Benedict là citrate đồng (II).

<b>D. Phân biệt monosacarit và disacaritI. Cơ sở lý thuyết</b>

Thuốc thử axetat đồng được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của monosacarit. Phản ứng này dựa trên quá trình khử đồng(II) axetat thành Cu<small>2</small>O tạo kết tủa màu đỏ gạch.

RCHO + 2Cu(C<small>2</small>H<small>3</small>O<small>2</small>)<small>2</small> + 2H<small>2</small>O <i><sup>t</sup><sub>→</sub><sup>o</sup></i> RCOOH + Cu<small>2</small>O↓ + 4HC<small>2</small>H<small>3</small>O<small>2</small>

<b>II. Chuẩn bị thí nghiệm</b>

– Dung dịch glucoza, fructoza, lactoza 1%.

<b>III. Tiến hành thí nghiệm</b>

<i>Bước 1: Dùng pipette lấy vào 3 ống nghiệm, ống thứ nhất 2 ml glucoza, ống thứ hai 2</i>

ml fructoza, ống thứ ba 2 ml lactoza.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Bước 2: Thêm vào mỗi ống 2 ml thuốc thử axetat đồng bằng pipette. Bước 3: Đặt trong nồi cách thủy đun sôi 5 phút.</i>

<b>IV. Kết quả thí nghiệm và giải thích hiện tượng</b>

Ống 1,2: Glucoza và fructoza là monosacarit nên tác dụng được với thuốc thử axetat đồng, khử Cu<small>2+</small> thành Cu<small>+</small> tạo kết tủa đỏ gạch.

C<small>5</small>H<small>11</small>O<small>5</small>CHO + 2Cu(C<small>2</small>H<small>3</small>O<small>2</small>)<small>2</small> + 2H<small>2</small>O <i><sup>t</sup><sub>→</sub><sup>o</sup></i> C<small>5</small>H<small>11</small>O<small>5</small>COOH + Cu<small>2</small>O↓ + 4HC<small>2</small>H<small>3</small>O<small>2</small>

Ống 3: Lactoza là disacarit nên không tác dụng được với thuốc thử axetat đồng, dung dịch giữ nguyên màu xanh là màu của Cu<small>2+</small>.

<b>E. SỰ HỒ HĨA TINH BỘTI. Cơ sở lý thuyết</b>

Tinh bột, cịn có tên gọi là –D–glucan vì là một loại polysaccharide thuần, chứa các phân tử –Dglucose liên kết với nhau bằng liên kết glucoside tạo thành hai loại: amylose (AM – sợi thẳng không phân nhánh, chứa liên kết 1,4–glucoside) và amylopectin (AP – sợi thẳng có phân nhánh, chứa liên kết 1,4 và 1,6 –glucoside)

Cấu tạo của tinh bột trên kính hiển vi là những hạt có hình dạng và kích thước khác nhau, tùy loại tinh bột. Mỗi hạt chứa vài triệu phân tử AM và AP. Phía ngồi hạt tinh bột hình thành cấu trúc vỏ hạt, thành phần cũng vẫn là các phân tử AM và AP nhưng liên kết với nhau chặt chẽ hơn.

Quá trình hồ hóa là q trình phá vỡ cấu trúc hạt của tinh bột bằng tác nhân nhiệt độ, nước và sự khuấy trộn, lôi kéo các phân tử AM và AP ra mơi trường nước, và hình thành một số khả năng mới cho tinh bột:

[1] Khả năng hòa tan – lớp vỏ nước hoàn chỉnh chung quanh các phân tử AM và AP đã giúp chúng phân tán tốt trong môi trường nước.

[2] Khả năng tạo gel – liên kết tại nút mạng là liên kết hydro nên gel tinh bột thường mềm.

[3] Thủy phân – dễ dàng bị tấn công bởi các tác nhân thủy phân Bài thí nghiệm này nhằm xác định nhiệt độ hồ hóa của tinh bột và thời gian hồ hóa tinh bột

<b>II. Chuẩn bị thí nghiệm1. Dụng cụ, thiết bị</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>III. Tiến hành thí nghiệm</b>

<i>Bước 1: Dùng cân 4 số lẻ cân chính xác 4g tinh bột gạo. Cho toàn bộ lượng tinh bột</i>

vào becher 250 ml.

<i>Bước 2: Dùng ống đong đong khoảng 200 ml nước cất, cho và becher có tinh bột.</i>

Khuấy đều ta thu được 200 g dịch huyền phù tinh bột gạo 4%.

<i>Bước 3: Cho becher lên bếp điện, gia nhiệt nhanh becher chứa dịch huyền phù đến</i>

80°C, vừa đun vừa khuấy. Đo nhiệt độ bằng nhiệt kế.

<i>Bước 4: Sau khi nhiệt độ của dịch huyền phù đạt 60°C, chuyển nhanh becher sang bể</i>

điều nhiệt đã được chỉnh nhiệt độ 60°C sẵn, khuấy nhẹ nhàng.

<i>Bước 5: Bắt đầu tính thời gian (t=0 phút) và đo độ nhớt tương đối của dịch huyền phù.</i>

Đồng thời, quan sát sự đổi màu của 1 giọt thuốc thử hồ tinh bột với thuốc thử Liugol.

<i>Bước 6: Lặp lại việc đo độ nhớt và quan sát màu dịch với Liugol 2 phút 1 lần.</i>

<i>Bước 7: Ngừng thí nghiệm khi độ nhớt bắt đầu giảm hoặc thời gian hồ hóa kéo dài trên</i>

60 phút.

<b>Cách đo độ nhớt:</b>

– Dùng ống bóp cao su hút đúng chính xác 1 ml dịch huyền phù bằng pipette 1 ml – Thả tay ra và dùng đồng hồ bấm giây đo thời gian 1 ml dịch huyền phù chảy hết ra khỏi pipette. Ta ghi nhận được thời gian time(i) (giây)

– Làm tương tự các thao tác trên, thay dịch hồ tinh bộ bằng nước, ta ghi nhận được thời gian time(w) (giây)

– Độ nhớt tương đối của dịch chưa hồ tinh bọt được tính theo cơng thức sau:

<i>μ=<sup>time(i)</sup>time(w)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

– Dựa vào bảng số liệu trên, ta tiến hành vẽ đồ thị thể hiện độ nhớt tương đối của dung dịch hồ tinh bột theo thời gian

– Điều kiện để hồ hóa: nước, nhiệt độ, thời gian hồ hóa.

– Ta thấy độ nhớt ban đầu đạt giá trị 0,608 (cP) và có xu hướng tăng lên trong khoảng thời gian 12 phút đầu tiên. Sau khi đạt đến điểm cực đại μ=1,971 cP, độ nhớt có dấu hiệu giảm xuống rõ rệt. Như vậy, sau khoảng 12 phút, tinh bột được hồ hóa hồn tồn.

<b>2. Giải thích kết quả</b>

– Nhiệt độ có tác động ảnh hưởng lớn đến cấu trúc tinh bột, cịn được gọi là phương pháp làm biến tính tinh bột. Khi tác dụng nhiệt, lớp màng ngoài hạt tinh bột bị phá vỡ, có thể quan sát được các rãnh tạo cấu trúc xốp hạt. Các lỗ xốp này được hình thành thơng qua các rãnh vơ định hình kéo dài từ bề mặt tới tâm của hạt. Chính vì vậy, nước từ bên ngồi đi được vào bên trong làm trương nở tinh bột, đồng thời phá vỡ các liên kết hydro

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

giữa các phân tử trong cấu trúc tinh thể, tạo điều kiện cho tác dụng phân huỷ enzyme, giải phóng Amylopectin và Amylose gây cho mơi trường xung quanh có một độ nhớt nhất định. Ở mỗi khoảng nhiệt độ khác nhau sẽ duy trì độ nhớt khác nhau.

– Sau khi để dịch tinh bột ở nhiệt độ 60°C, độ nhớt có dấu hiệu tăng lên đáng kể sau mỗi 2 phút. Điều này hồn hồn hợp lý vì khi hạt tinh bột bị phá vỡ, các sợi Amilose và Amilopectin phân tán vào nước, liên kết lại với nhau để tạo cấu trúc gel, làm tăng độ nhớt dịch.

– Sau 12 phút, khi q trình hồ hóa hồn thành, hạt đạt độ trương nở tối đa và sự phân hủy của hạt bắt đầu xảy ra nhanh hơn, các liên kết hydro cũng giảm do đó độ nhớt cũng giảm theo.

So sánh với giá trị thời gian hồ hóa tinh bột của các nhóm khác ở cùng nhiệt độ, giá trị của nhóm có sai số đáng kể, điều này có thể lý giải bởi các nguyên nhân sau:

+ Thời gian bấm giờ không đồng đều nhau.

+ Khả năng điều chỉnh nhiệt độ 60°C giữa các nhóm là khác nhau.

</div>

×