Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

học thuyết tứ diệu đế tiểu luận khoa học triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 37 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU...3</b>

Chương 1 TỨ DIỆU ĐẾ...5

1. Khái quát về Phật Giáo...5

1.1. Nguồn gốc và sự phát triển của Phật giáo...5

1.2. Triết lý Phật giáo về con người...8

1.3. Tứ Diệu Đế trong Kinh điển Phật giáo...10

2. Nội dung thuyết Tứ Diệu Đế...11

Chương 2 GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA TỨ DIỆU ĐẾ ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ MỖI CÁ NHÂN...33

1. Giá trị thực tiễn của Tứ Diệu Đế trong đời sống xã hội...33

2. Giá trị thực tiễn của Tứ Diệu Đế đối với mỗi cá nhân...34

<b>KẾT LUẬN</b>

<b>...36</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU </b>

Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều loại tơn giáo khác nhau, trong đó có một số tơn giáo lớn như: Đạo Hồi, Đạo Tin lãnh, đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái. Mỗi tơn giáo có những đặc điểm riêng, có hệ thống giáo lý, giáo luật riêng và có vai trị cũng như những ảnh hưởng của nó tới thế giới nói chung và con người nói riêng cũng khơng giống nhau. Một trong những tôn giáo lớn và ngày càng có sức ảnh hưởng trên thế giới mà ta phải nhắc tới đó chính là Phật giáo..

Lịch sử ra đời, sự tồn tại và phát triển của Phật giáo với những triết lý mang tính nhân bản sâu sắc ngay từ đầu đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều dân tộc trên thế giới .Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, đạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực vào các lĩnh vực này.

Một trong những giáo lý căn bản nhất của Phật giáo đó chính là học thuyết Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản của Phật giáo, là giáo lý nền tảng, tối trọng của Phật giáo, của con đường đi vào giải thoát. Trên con đường này hành giả đi những bước an tĩnh, hỷ lạc cho đến đích giải thốt, đạt đến tri kiến giải thốt chứ khơng đi đến ưu tư, sầu não hay bị quan yếm thế.

Một cách thực tế có thể thấy được rằng, tồn bộ giáo pháp của Đức Phật mà Người đã bỏ sức trong 45 năm để giảng dạy bằng cách này hay cách khác đều nằm ở đều nhằm đến con đường trung đạo mà thuyết Tứ Diệu Đế đề cập. Mặc dù, Đức Phật đã giảng giải theo nhiều cách thức khác nhau, bằng những ngôn từ khác nhau, cho những người khác nhau, tùy theo giai đoạn, trình độ phát triển và khả năng hiểu biết của họ để họ có thể theo kịp lời Phật dạy nhưng điều “cốt lõi” của hàng ngàn bài thuyết giảng đó của Phật được ghi lại trong các kinh Phật và đều nằm trong Bát Chính Đạo.

Mặt khác, xã hội ngày càng tiến bộ, sự phát triển của khoa học một cách như vũ bão cùng với những thành tựu mà nó mang lại cho lồi người thật khơng có gì có thể kể hết. Đi cùng với nó là cuộc khủng hoảng trên lĩnh vực tinh thần mà con người cố gắng vượt qua. Phật giáo chính là một trong những bệ đỡ tinh thần cho con người. Trước thực trạng khổ đau của cuộc đời con người ln đi tìm cho mình một niềm hạnh phúc, một phương thức sống cho chính mình. Trong giáo lý của Phật giáo thì học thuyết Tứ Diệu Đế là sự luận giải về những nỗi khổ đau mà con người đang phải chịu đựng và chỉ ra con đường để thoát khỏi những cái khổ đau, đạt được an vui, hạnh phúc, tự tại giữa cuộc đời. Bởi lẽ giá trị của hạnh phúc là giá trị cao nhất trong tất cả các giá trị của cuộc sống và sống có ý nghĩa là sống hạnh phúc ngay trong hiện tại này của cuộc đời này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Tứ Diệu Đế được coi là giáo lý quan trọng, là điểm then chốt trong toàn bộ tư tưởng của Phật giáo, nó phổ biến trong hệ tư tưởng của Phật giáo và đời sống của người Phật tử. Cá hay của Tứ Diệu Đế chính là ý nghĩa triết học tập trung về mặt nhân sinh của con người. Điều này được thể hiện ở chỉ trên phương diện nghiên cứu triết học những băn khoăn của con người về sa ra đời, sự nảy sinh, sự già nua hay sự chết đi... trong đó việc hiểu về con người là tập trung nhất của các nền triết học nhưng Tứ Diệu Đế lại tập trung vào quan điểm nhân sinh quan, chiếm vị trí lớn nhất trong toàn bộ giáo lý của Phật giáo.

Bên cạnh đó, ngày nay cịn do những tác động của nền kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế phát triển. Đi cùng với nó là sự xuất hiện của lối sống thực dụng, chủ nghĩa duy vật chất dẫn đến nhiều hiện tượng suy thoái đạo đức ngày càng được biểu hiện một cách rõ ràng. Từ đó vấn đề được đặt ra là con người sống trong xã hội đỏ phải biết hạn chế những suy thoái về mặt nhân cách, biết cách kiềm chế hay chế ngự được những dục vọng của bản thân mình nhằm giữ được những chân giá trị của mỗi con người. Đó cũng là cách để giúp con người giải thoát được những khổ đau, vươn tới cuộc sống an lạc, hạnh phúc.

Trên cơ sở thấy được tầm quan trọng, sức ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò cũng như những ảnh hưởng của học thuyết Tử Diệu Đế đối với thế giới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Chương 1TỨ DIỆU ĐẾ</b>

<b>1. Khái quát về Phật Giáo</b>

Vội đến, vội đi, vội nhạt nhòa Vội vàng sum họp vội chia xa.

Vội ăn, vội nói vội thở Vội hưởng thụ mau để vội già.

Vội sinh, vội tử, vội một đời

Những câu thơ trên nói về sự vội vã, tất bật và áp lực phải sống. Trước cả khi thế hệ chúng ta nói về các vấn đề tâm lý trong xã hội hiện đại, đã có một trường phái tôn giáo đi sâu vào chủ đề này, tìm kiếm cho câu hỏi “làm sao thốt khỏi đau khổ?”. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất, ra đời cách đây khoảng 2600 năm. Tín đồ của tơn giáo này khơng tin vào thượng đế hay thần linh, họ tập trung vào việc đạt được giác ngộ, sự tỉnh thức, nhìn thấy rõ mọi bản chất của sự sống đích thực. Đây cũng là tôn giáo ảnh hưởng rất nhiều đến lối sống và cách suy nghĩa của người Việt Nam và đó chính là Phật giáo.

<i><b>1.1.Nguồn gốc và sự phát triển của Phật giáo</b></i>

Phật giáo xuất hiện vào cuối thế kỉ VI Tr. CN miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, do Gautama Siddhattha (Cồ - đàm Tất Đạt Đa) sáng lập. Đạo phật ra đời trong bối cảnh xã hội đang tồn tại nhiều vấn đề dưới sự ảnh hưởng của Bà-la-môn giáo. Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội ấn độ làm năm giai cấp và ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời:

1. Bà-La-Môn: các tăng lữ Bà-la-môn, sinh ra từ miệng của đấng phạm thiên Brahma, được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế thượng đế và các thần linh.

2. Sát-Đế-Lỵ: sinh ra từ vai của đấng phạm thiên, gồm các bậc vua chúa, quý tộc, trưởng giả, công hầu, khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân chúng.

3. Phệ-Xá: sinh ra từ hông của đấng phạm thiên, gồm các nhà thương mại, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chun mơn bn bán, làm ăn cùng các tầng lớp dân chúng trong xã hội.

4. Thủ-Đà-La: sinh ra từ chân của đấng phạm thiên, gồm các công nhân và nông dân nghèo khổ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

5. Chiên-Đà-La: giai cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như: ở đợ, làm mướn, chèo ghe, đồ tể,v,v,v,,,. Giai cấp Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và quyền lợi bằng cách nương theo thần thoại, chế ra luật pháp Manu, kì thị giai cấp, không cho gả cưới giữa hai giai cấp khác nhau, điều này tạo ra những sự bất cơng, kì thị và phân biệt trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Vì vậy, nhiều nghiên cứu cho rằng, Phật giáo ra đời như một cuộc cách mạng trống lại thần quyền của Bà-La-Môn giáo, đạo đức Phật giáo mang nội dung tinh thần bình đẳng, phi thần quyền và tiến bộ.

Vậy Phật giáo ra đời như thế nào?

Theo truyền thuyết, Cồ-đàm Tất Đạt Đa (Gautama Siddhattha) tức Đức Phật, thuộc dòng Sát-Đế-Lỵ - đẳng cấp vua chúa, thuộc đẳng cấp cao trong nấc thang giai cấp ở Ấn Độ. Ngài là con vua Tịnh Phạn (Shuddhodana) thuộc bộ Thích Ca (Sakya), trị vị một vương quốc nhỏ là Ca tỳ la vệ (Kapilavaxtu) ở trung lưu sông Hằng Từ nhỏ, ngài đã sống trong nhung lụa mạ vàng, cuộc đời thôi khỏi nghĩ, cha mẹ yêu quý, kẻ hầu người hạ, vợ con đề huề. Vậy mà đến năm 29 tuổi, ngài quyết định bỏ đi hết để đi tìm chân lý đời mình.

Người ta nói: trong một lần được phép vua cha cho đi săn và đây cũng là lần đầu tiên hoàng tử Tất Đạt Đa được ra khỏi cung cấm, ngài đã rất suy nghĩa khi gặp những cảnh: người phụ nữ đau đớn, vật vã trong khi sinh; một cụ già trống gậy hành khất dọc đường; người ốm đau bệnh tật và những đám tang. Lần đầu tiên, Tất Đạt Đa nhận ra rằng: bệnh tật, già yếu và cái chết là những điều bất hạnh, bi kịch, cho tất cả mọi người. Ngài đã bật lên trong đầu một nỗi bi ai về số phận: Ai rồi cũng già, phải chết cả thôi, lạc thú phù phiếm như mây trời và rồi cũng tàn lụi cả. Người ngẫm nghĩ tìm ra câu hỏi: Tại sao con người lại vướng vào vòng sinh – lão – bệnh – tử? Con người phải làm gì để thốt khỏi khổ đau đó? Cuối cùng Tất Đạt Đa đã gặp một tu sĩ nghèo, người đã tự nguyện chối bỏ hưởng thụ xa hoa để đi tìm sự yên tĩnh của tâm hồn khổ hạnh nên đã quyết định noi gương vị tu sĩ ấy.

Một ngày, Đức Phật rời khỏi cung và gửi lại mớ tóc cho Xa-Nặc, đổi bộ quần áo của mình với một người ăn mày và từ đó, đoạn tuyệt tồn bộ với phồn hoa lúc trước, dấn thân vào cuộc sống trải nghiệm, một sự diệt kỉ đến phi thường. Ban đầu, ngài đi tìm học hỏi với những đạo sĩ danh tiếng nhất Ấn Độ thời bấy giờ nhưng rồi ngài nhận thấy chân lý và lối tu hạnh của họ cũng khơng có gì là siêu thốt. Từ đó ngài đi vào ở ẩn trong dãy núi Tuyết Sơn, tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát như mong muốn. Nhưng sau sáu năm trời tu khổ hạnh, người vẫn chưa thu thập được kết quả gì khả quan. Bấy giờ ngài mới đi đến núi

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Tượng Đầu, đến dưới gốc cây Tất Bát La, sau này người đời gọi là cây Bồ đề nghĩa là cây giác ngộ để kỉ niệm sự giác ngộ của Đức Phật dưới gốc cây ấy. Ngài ngồi thiền định ở đó và thề rằng: “Nếu ta ngồi đây ma khơng chính được đạo quả thì thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy”. Đến nửa đêm thứ bốn mươi chín, trong tâm Đức Phật tự nhiên đại ngộ, sạch hết phiền não, đạt đến sự giác ngộ, ngài đã hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con đường thốt khổ.

Từ đó Tất Đạt Đa lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) và được gọi là Bút-đa (Buddha), phiên âm chữ Hán là Phật-đà, ta quen gọi là Phật – tức là người đã giác ngộ, đã hiểu được chân lý. Sau khi giác ngộ, Phật truyền bá đức tin mới mà sau này người ta gọi là Phật Giáo.

Từ khi ra đời tới khi xác lập được vị trí ở Ấn Độ và trở thành tôn giáo thế giới, Phật giáo phải trải qua bốn lần kết tập kinh điển để xây dựng một học thuyết tơn giáo hồn chỉnh. Lần kết tập thứ IV dưới triều vua Ca-nhị-sắc-ca (Kaniska) (125 – 150 SCN) đã hoàn chỉnh kinh điển của Phật giáo với “Tam tạng chân kinh”. Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Triều Tiên , Nhật Bản và Việt Nam đó là Phật giáo Bắc Tơng hay Đại Thừa, còn Phật giáo truyền sang Sri Lanka (Tích Lan), Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và các nước Nam Á gọi là Nam Tông hay Tiểu Thừa.

Phật giáo ra đời tuy không tuyên bố tiêu diệt chế độ đẳng cấp và đạo Bà-La-Môn nhưng trên thực tế là phủ nhận điều đó. Hơn nữa, giáo lý Phật giáo sâu sắc, nêu lên khả năng chế ngự dục vọng, vai trị tự giải thốt của con người, sự bình đẳng của con người với con người, luật lệ, lễ nghi đơn giản, không rườm rà và tốn kém như đạo Bà-La-Môn nên được đơng đảo quần chúng nhất là những người có địa vị xã hội thấp kém tin theo. Chỉ sau Phật tịch có 2 thế kỷ, dưới thời vua A-dục, thế kỷ III TCN, Phật giáo đã lan rộng ra khắp Ấn Độ tiếp tục phát triển cho đến thời kỳ vua Ca-nhị-sắc-ca (thế kỉ II SCN). Đến thời vua Giúp-ta, Phật giáo khơng cịn giữ được vai trò như trước nữa và dần dần phải nhường chỗ cho một tôn giáo mới: Ấn Độ giáo, trong đó có một số yếu tố của Phật giáo. Từ thế kỉ thứ VIII trở đi, khi Hồi giáo thâm nhập vào Ấn Độ, Phật Giáo ở Ấn Độ càng suy tàn. Tuy suy tàn ở Ấn Độ nhưng nó lại phát triển ra bên ngồi một cách nhanh chóng về phía Bắc đến các vùng Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, phát triển về phía Nam đến Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia,… và trở thành một tơn giáo mang tính quốc tế.

Hiện nay Phật giáo có khoảng hơn 1 tỷ tín đồ tập trung chủ yếu ở các nước Châu Á. Trong mấy thập niên gần đây, Phật giáo còn được chuyển sang một số nước ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Ở nhiều nước Châu Á, Phật giáo góp phần hình thành nền văn hóa dân tộc, đạo đức, lối sống của nhân dân. Từ sau chiến tranh

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Thế giới lần thứ II, Phật giáo có ảnh hưởng tới phong trào giải phóng dân tộc và đường lối đối ngoại của nhiều nước sau khi giành độc lập dân tộc.

<i><b>1.2.Triết lý Phật giáo về con người</b></i>

Từ xưa đến nay, việc đi tìm hiểu về con người luôn thu hút sự quan tâm của của các nền triết học. Phật giáo cũng không loại trừ điều đó. Nội dung triết lý của Phật giáo về con người được thể hiện qua quan niệm nhân sinh. Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người và đời sống của con người. Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết sự tái sinh và xuất hiện của con người. Phật xác định con người là một chỉnh thể vũ trụ, là một tiểu vũ trụ, là kết quả của sự kết hợp giữa danh và sắc. Nghĩa là con người có đầy đủ cả hai phần sinh lý và tâm lý:

“Cái ta sinh lý tức là thân (gọi là sắc uẩn).

Cái ta tâm lý tức là tâm (bao gồm thọ, tưởng, hành, thức).” Phần sinh lý (còn gọi là “sắc uẩn”): là hình tướng được giới hạn trong xương, thịt, da. Những vật chất này được tạo ra từ bốn yếu tố: địa (đất) – thủy (nước) – hỏa (lửa) – phong (gió). Trong đó, “Địa” tạo nên phần cứng trong cơ thể như phần xương, lông, tóc, lục phủ ngụ tạng; “Thủy” tạo ra trong máu; “Hỏa” tạo ra nhiệt độ cơ thể; “Phong” tạo ra khí thở,…

Phần tâm lý (tinh thần ý thức) được tạo bởi “tứ uẩn”: Thụ - tưởng – hành – thức. Khi sắc thân con người được tạo thành thì lục căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà sinh ra lãnh thọ (cảm giác). Sự cảm thụ đó sinh ra mọi ấn tượng, mọi cảm giác sướng, khổ, buồn, vui (tưởng). Sau khi tiếp xúc với cảnh vật sẽ tạo nên sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm, sinh lòng ham muốn hay ghét giận (hành) và cuối cùng là sự xuất hiện hiểu biết, phân biệt sự vật (ý thức). Đó chính là thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Theo Phật giáo thì phần tâm lý tồn tại thì ln dựa vào phần sinh lý. Bên cạnh đó con người phải tuân theo “sinh – trụ - dị - diệt” và sự giả hợp của Ngũ uẩn. Khi Ngũ uẩn hịa hợp thì con người tồn tại và ngược lại thì con người bị chết và bị hủy diệt.

Khi bàn về cái chết của con người thì Phật giáo quan niệm chết là điều kiện có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng thuyết luân hồi nghiệp báo. Con người sinh ra rồi lại chết đi để một sinh linh mới ra đời. Sự sống và cái chết tiếp diễn liên tục nối tiếp nhau bất tận như một vòng tròn theo quy luật luân hồi. Khi chết ngũ uẩn tan rã nhưng nghiệp của con người vẫn tiếp tục chi phối và khi gặp điều kiện thuận lợi, nhân duyên thuận lợi thì con người lại được tái tạo thành một sinh linh mới. Theo đó, cuộc đời con người là một mắt xích trong chuỗi dài vơ tận. Cuộc sống của con người, trên trần thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

khơng thay đổi được, nó là do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả, mọi việc làm của con người đều là nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo.

Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào gặp quả ấy, ở hiền thì gặp lành, gieo gió ắt gặp bão. Có thể nói, Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ phổ biến, chi phối tất cả. Xét đến cùng, mọi vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của nhau, sinh – diệt nối tiếp nhau vô cùng tận, thế giới này khơng có gì là trường tồn bất biến. Mọi vật đều tuân theo quy luật sinh – trụ - dị - diệt. Theo luật nhân quả của Phật giáo thì những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra Ngũ uẩn tiếp theo. Bản thân nghiệp này là do kiếp trước quy định và cứ thế con người ở trong vòng luân hồi sinh, tử không ngừng từ đời này sang đời khác.

Phật giáo là một tôn giáo rất quan tâm tới con người và cuộc đời con người. Các tôn giáo khác cũng có cách nhìn nhận về con người, song sự khác biệt căn bản giữa giáo lý nhà Phật với các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Đạo giáo, Nho giáo,… là ở chỗ, Phật giáo đã chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khổ, thoát khỏi mọi khổ đau của cuộc sống để đạt tới cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ, phá vỡ vơ minh.

Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả, luân hồi sinh, tử, khỏi những khổ đau thì Đức Phật đã nêu ra Tứ Diệu Đế. Đây được coi là bốn chân lý giải thoát tuyệt diệu và thiêng liêng mà con người cần nhận thức được, bao gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Qua Tứ Diệu Đế người ta có thấy được tồn bộ những quan niệm về cuộc đời của con người được thể hiện trong đó.

Nếu triết học Mác – Lênin cũng nghiên cứu về con người, lấy đó làm điểm xuất phát đồng thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người, con người trong triết học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất định, với các quan hệ xã hội cụ thể thì con người trong triết học Phật giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham vọng của mình. Mục đích của triết học Mác xít là xây dựng con người phát triển tồn diện về đức, trí, thể, mỹ; cịn Phật giáo với mục đích giải thốt cứu với con người khỏi bề khổ trở về với Phật tính của mình. Có thể nói, với những triết lý về nhân sinh quan của Phật giáo cho thấy tất cả những quan niệm này nhằm chống lại đạo Bà-la-mơn, chống lại sự bất bình đẳng trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà những tư tưởng cơ bản của triết lý Phật giáo mang nhiều yếu tố duy vật sơ khai tiễn bộ gắn với cuộc sống của con người. Từ quan niệm trên, Phật giáo khơng thừa nhận xã hội có đẳng cấp. Đức Phật nói rằng “Khơng có đẳng cấp trong những dịng máu cùng đỏ như nhau, Khơng có đẳng cấp trong những giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra không phải mang sẵn trong bào thai dãy chuyển hay dấu tin-ka (dấu hiệu quý phái của dịng Bà-la-mơn) giữa trán" (53; 115]

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>1.3.Tứ Diệu Đế trong Kinh điển Phật giáo</b></i>

Hạt nhân triết lý cơ bản của Phật giáo là đề cao tình thương yêu của con người đối với chúng sinh, thể hiện bản chất đạo đức khuyến thiện, tập trung ở “Tam tạng chân kinh", gồm: Kinh tạng. Luật tạng, Luận tạng.

Kinh tạng: Là bộ kinh ghi lại những lời dạy của Đức Phật khi còn sống do đệ tử của Ngài là A-nan-đa tập hợp trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất. Bộ Kinh Tạng gồm có: Trung bộ kinh; Tương ứng bộ kinh; Tăng bộ kinh; Tiểu bộ kinh.

Luật tạng: Là sách ghi chép về giới luật đo Phật định ra làm khuôn phép cho các đệ tử, nhất là giới tu hành nơi theo.

Luận tạng: Là bộ kinh được các đệ tử của Đức Phật ghi lại sau khi người qua đời. Mục đích của Luận tạng là nhằm giới thiệu giáo lý một cách có hệ thống và phê bình, uốn nắn những hiểu biết sai trái về Đức Phật.

Đi tìm hiểu về Phật giáo ta dễ dàng nhận ra nội dung cơ bản của Phật giáo thể hiện trong lời nói của Đức Phật "Trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải các chân lý về các nỗi đau khổ và giải thoát các nỗi đau khổ. Cũng như nước của đại dương hùng dũng, chỉ có một vị là vị mặn của muối. Giải pháp chỉ có một vị là vị giải thoát" [37; 262). Những điều này được thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc trong thuyết Tứ Diệu Đế của nhà Phật.

Trọng tâm của giáo lý Đức Phật nằm trong Tứ Diệu Đế mà ngài tuyên dương ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên của mình cho những người bạn cũ. Sau khi Đức Phật thành đạo được vài tuần, Ngài liền rời cội bồ để để đi đến vườn Nai (Lộc Uyển) bên ngoài thành Ba – La - Nại. Ở đây, khi thấy thời tiết nhân duyên đã thuận lợi đầy đủ. Ngài liền chuyển bánh xe pháp luận đầu tiên, thuyết bài pháp Tứ đế cho nhóm 5 anh em ơng Kiều Trần Như là bạn tu cũ của Ngài. Sau thời thuyết pháp này, 5 anh em ông Kiều Trần Như đều xin quy y làm đệ tử của Phật và hình tướng Tam Bảo tối sơ nhất được hình thành. Phật bảo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp bảo là nội dung pháp Tứ đế; Tăng bảo là nhóm 5 đệ tử đầu tiên của Phật. Đó là Tam bảo đầu tiên của đạo Phật hiện hữu trên thế gian này.

Tứ Diệu Đế được coi là bốn chân lý nhiệm màu có tác dụng như một đạo lý cơ bản giúp cho người tu dưỡng trên con đường thánh thiện. Gồm:

Khổ đế: Nếu lên thực trạng đau khổ về nhiều mặt, triền miên, phổ biến của con người.

Tập đế: Chỉ ra nguyên nhân, nguồn gốc dẫn tới tình trạng đau khổ Diệt đế: Kết quả của sự chấm dứt đau khổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Đạo để: Nếu ra con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt đau khổ.

Cả bốn chân lý này được Đức Phật trình bày một cách logic, khoa học như lời một thầy thuốc đứng trước mặt con bệnh. Trước hết, Ngài trình bày cụ thể các biểu hiện nhiều mặt phổ biến của đau khổ, đối với mọi người không loại trừ ai, coi như triệu chứng toàn diện của một của một căn bệnh. Tiếp đó Ngài phân tích cho bệnh nhân biết nguồn gốc trước mặt và sản xạ gây nên bệnh tật. Sau đó Ngài cho bệnh nhân thấy một viễn cảnh tươi đẹp, khi hết bệnh để bệnh nhân thêm tin tưởng và quyết tâm tự giác tham gia điều trị. Cuối cùng Ngài kê đơn thuốc, vạch ra cho bệnh nhân 8 phương pháp cụ thể, đồng bộ, có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ thúc đẩy nhau mang lại hiệu quả tốt trong điều trị bệnh (17;98).

Một lần nữa khẳng định rằng, Tứ Diệu Để có vị trí và vai trị vơ cùng quan trọng trong tồn bộ giáo lý của nhà Phật.

<b>2. Nội dung thuyết Tứ Diệu Đế</b>

Tứ Diệu Đế là bốn sự thật chắc chắn, quý báu, hoàn tồn nhất, khơng có một giáo lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Đức Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể đi từ địa vị tối tăm, mê mờ, đi dần tới quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đường cho người bộ hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái cơng dụng q báu, mầu nhiệm, vơ cùng lợi ích như thế nên mới gọi là Diệu.

Chữ Đế cịn có nghĩa là một sự thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cả các sự thật khác, và muôn đời bất di bất địch, chứ không phải là sự thật có hạn khơng gian và thời gian. Trong ý nghĩa thánh thiện thì Tứ Đế cịn cuộc trong gọi là Bốn Chân Lý Thâm Diệu vì đây là những chân lý do bậc Thánh giả tìm ra và thánh thiện vì đây là chân lý soi đường đưa chúng sinh đạt tới mức độ thánh thiện Siêu thế hồn tồn trong sạch, thanh lọc mọi nhiễm ơ. Bốn chân lý ấy cịn là thực tại, dính liền với thực tế, chứ không phải huyền ảo mơ hồ. Vì sơ xuất, khơng thấu hiểu Tứ Đế mà con người tự thấy mình bị đặt vào một vị trí tuyệt vọng, bị đẩy đua trong những cảm xúc xung khắc, những khát vọng và những ham muốn, như lời Đức Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Xưa ta cùng các ông, không ngộ bốn chân đế nên phải lưu chuyển mãi trong bể khổ sanh tử. Nếu ngộ bốn chân lý, thời thốt ly khỏi sanh tử. Sanh tử đã hết khơng còn thọ thân sau" [50; 569]

Giáo lý Tứ Đế được trình bày rõ trong các kinh như Đế Phân Biệt Tâm Kinh (Trung Bộ III, kinh Phân Biệt Thánh Đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng và Tạp A Hàm) và rải rác rất nhiều trong kinh tạng Pàli Nam truyền như Hán tụng Bắc truyền.

Bốn chân lý cao cả ấy là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Nội dung của pháp Tứ đế xem như là một quy luật biện chứng nhân quả đảo ngược. Khổ đế là quả, Tập đế là nhân, Diệt đế là quả, Đạo đế là nhân. Tứ Diệu Đế đã được Đức phật sắp đặt theo một trật tự rất khôn khéo, hợp lí, hợp tình. Ngày nay, các nhà nghiên cứu Phật học Tây Âu mỗi khi nói tới Tử Diệu Đế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác đáng, cịn tóm tắt tán thán kiến trúc, bố cục, thứ lớp của toàn bộ pháp mơn đó.

<i><b>2.1. Khổ đế</b></i>

Trong sự tồn tại của con người thì khổ đau ln xuất hiện. Khổ đau được coi là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con người ln có xu hướng vượt thốt khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì khơng hiểu rỏ bản chất của khổ đau nên khơng tìm được lối thốt thực sự; đơi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.

Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả những khổ đau trên thế gian này mà mỗi chúng sinh đều phải chịu, như sống là khổ, đau là khổ, già là khổ, v.v... Những nỗi khổ đầy rẫy trên thế gian. bao vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như biển nước. Do đó, Đức Phật thường vì cõi đời như là một biển khổ mênh mông.

“Thế nào là Chân Lý cao siêu về sự khổ?

Tư cách sanh trưởng là khổ. Sự suy bại già nua là khổ, chết là khổ, đau đớn là khổ. Khóc than, phiền não, thất vọng, muốn khơng được là khổ. Năm uẩn bảo trì nguồn sống là khổ" [39; 13].

Trong Thắng pháp tập yếu luận Đức Phật cũng đã đề cập tới những nỗi khổ đau của con người: “ Thế nào là khổ thánh đế? Này các tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi là khổ, tu não là khổ, oán gặp nhau là khổ ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ vẫn là khổ" [8, 424].

Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy được cái thảm cánh hiện tại của cõi đời. Cái thảm cảnh bị đặt này nằm ngay ở trước mắt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta. Những sự thật này có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ được chứ không phải là những sự thật xa lạ ở đâu. Theo Đức Phật thì đã là một chúng sanh thì khơng ai khơng có sinh, khơng ai khơng có đau ốm, khơng ai khơng có già, khơng ai khơng có già, khơng ai khơng có chết... Và những trạng thái này đều mang theo khổ đau. Đã có thân thì tất phải có khổ. Đó là một chân lý giản dị, rõ ràng mà ai ai cũng nhận thấy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Đến khi sinh, sự đau đớn của người mẹ khơng sao kể xiết. Cịn đứa trẻ, khi trong bào thai đến lúc chào đời cũng chịu nhiều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày giam hãm trong khơng gian chật hẹp, tăm tối. Đến kì hạ sinh, thân con phải chen qua chỗ hẹp như đá ép bốn bề, nên vừa thốt ra ngồi liền cất tiếng khóc vang.

Khổ trong đời sống: Trong đời sống, con người khổ cả về mặt vật chất và mặt đời sống tinh thần. Về mặt vật chất con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những thứ đó thì con người phải lao động cần cù, kham khổ, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, vắt và khổ cực trăm đường. Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi cịn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất hiện có. Có thể nói, sự sống ln ln mang đầy đau khổ cho dù bên ngồi có nở những nụ cười tươi nhưng bên trong vẫn chứa đầy đau thương, những niềm vui chỉ là tạm bợ, không thật.

Trong tác phẩm Truyện Kiểu, đại thi hào Nguyễn Du có viết: "Cũng trong một tiếng tơ đồng

Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” Hay:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình minh lại thương mình xót xa”

Sở đi con người phải trải qua tất cả những nỗi khổ này đơn giản là vì họ đã mang lấy một hiện hữu mới hay nói khác hơn họ đã tái sinh và chi khi nào khơng cịn tái sinh nữa thì con người mới được giải thoát khỏi mọi khổ đau.

<b>Lão khổ: Lão là “trạng thái già nua của chúng sanh thuộc các giới cấp đã </b>

có nhiều tuổi thọ, xác thân rệu rã, suy nhược, nhãn nhỏ, giảm sinh khí, lục căn mòn mỏi” [39; 131].

Trong Phật học, già chỉ tình trạng khơng cịn sinh lực của tồn bộ cấu trúc cơ thể xuất hiện như sự suy yếu về thị lực và thính lực, sự hao mịn của khẩu giác và vị giác, sự mệt mỏi của thể lực, sự trở nên khơng cịn hấp dẫn, sự biến mất của tuổi trẻ, sự tổn thất của trí nhớ và trí lực... Tất nhiên, những bất lực ấy làm phát sinh sự khổ thân và khổ tâm. Và do đó tạo thành cội nguồn của khổ thân và khổ tâm. Đức Phật cho rằng già là cái khổ đáng sợ. Thực sự con người ta rất sợ tuổi già. Họ ln đi tìm những phương tiện và cách thức để đẩy lùi sự tấn công của tuổi già nhưng rồi lại hồn tồn vơ vọng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>Bệnh khổ: Theo Đức Phật thì hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ </b>

sở khơng có gì hơn là cái đau. "Bệnh là nói tứ đại chẳng điều thích lẫn nhau, cũng có hai: một là thân bệnh, hai là tâm bệnh. Thân bệnh có năm: một là nhơn nơi nước, hai là nhơn nơi gió, ba là nhơn nơi nhiệt bốn là tạp bịnh, năm là khách bệnh. Khách bịnh có bốn: một là chẳng phải phận sự gắng gỗ làm; hai là vì quên lầm mà té ngã; ba là dao, gậy ngôi, đá; bốn là quỷ mị dựa. Tâm bệnh cũng có bốn: một là hớn hở, hai là sợ sệt, ba là lo rầu, bốn là ngu si..." [50; 357].

Có thân là có bệnh, có bệnh tức có khổ. Cái thuyết “bệnh là khổ” trở thành một quy luật hiển nhiên, mà con người từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc nhắm mắt, xuôi tay không ai không nếm mùi cay đắng của bệnh tật. Ai cũng biết rằng bệnh là khổ lắm, nó quả thật trở thành một mối đe dọa thực sự bất cứ lúc nào. Đây là một vấn đề người đời đang quan tâm, song hầu hết ít ai suy ngẫm để thấy được cái sâu xa khổ đau của bệnh.

Cuộc đời dù tốt đẹp đến đâu, dù vinh hoa phú quý đến cỡ nào cũng không thể làm chủ được cái thân của mình bởi bệnh có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Người bị bệnh đau đớn về thể xác đã đành, thân nhân của người bệnh cũng phải khổ theo. Bệnh tật thật sự là nỗi kinh hoàng đối với con người cho nên nói bệnh là khổ.

<b>Tử khổ: Trong bốn hiện tượng của vô thưởng là sinh – lão - bệnh - tử thì tử</b>

là cái làm cho con người cảm thấy sợ hãi nhất. Cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sinh ở một cõi nào chưa rõ. Chết là do sinh làm duyên, ở đây, chết do bức tử, chết do những nguyên nhân tự nhiên, chết do chấm dứt tuổi thọ v.v... Khi cái chết đến gần, mọi người đều phải chịu những cuộc tấn công khốc liệt của bệnh tật, đau ốm vốn tàn phá cơ thể với những cơn đau không thể chịu đựng được và người ta phải từ bỏ xác thân và để lại đằng sau những người thân yêu gần gũi nhất của mình, bạn bè của mình, những người thứ gì là của mình. Cái chết gây ra mọi sự chia ly, người chết khổ đã đành, người sống lại xót xa đau đớn. Cả thể xác lẫn tinh thần đều chịu đau đớn, chính vì thế Đức Phật định danh tử là khổ.

<b>Ái biệt ly khổ. Trong Kinh Đại Niết Bản, Đức Phật dạy: “ Những gì gọi là </b>

ái biệt ly khổ? Đó là những vật mến yêu bị hư hoại lìa tan. Vật mến u hư hoại lìa tan đó cũng có hai thứ: một là ngũ ấm trong loài người hư hại, hai là ngũ ấm trong cõi trời hư hoại”.

Theo quan niệm của Đức Phật thì ái biệt ly là chia lìa hay tách rời những người và các hành vừa ý. Sự chia lý có hai loại là sinh lý và tử biệt. Một sự chia là như vậy từ nó khơng phải một cảm thọ khổ. Tuy nhiên, khi sự biệt ly xảy ra, do chết

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hay trong khi vẫn còn đang sống, với những người mình yêu mến hay xa rời những thứ mà mình hết mục yêu mến thì khổ tâm phát sinh. Trong tình thương yêu giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng thắm thiết thì bỗng dưng bị chia lìa thì khơng có gì là đau xót hơn. Do đó mà Đức Thế Tôn đã gọi ái biệt ly là khổ. Con người thương yêu nhau nhưng đối tượng thương yêu xa lìa, ly biệt thì sẽ thất vọng, sầu não và khổ đau:

Tản Đà trong bài thơ “Tương tư” cũng đã có những câu thơ: “Quái lạ! Làm sao cứ nhớ nhau

Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu Bốn phương mây nước, người đôi ngả Hai chữ tương tư, một gánh sầu"

<b>Cầu bất đắc khổ: Một nỗi khổ đau không kém gì các nỗi khổ đau khác đó </b>

là mong muốn những gì mình ưa thích mà khơng được toại nguyện, khơng đáp lại lịng mong muốn. Sống ở trên đời con người càng hy vọng nhiều thì cùng thất vọng nhiều. Con người luôn mong cầu ham muốn, mong đánh đạt lợi, mong khỏi sinh – lão - bệnh - tử...nhưng mong muốn không được toại nguyện nên khó. Cái khổ đó con người khơng thật sự làm chủ chính mình, khơng làm chủ hồn cảnh sống của bản thân. Do đó, cuộc sống của con người là một chuỗi những khổ đau do mình tạo ra.

<b>Oán tăng hội khổ: Oán tăng hội là gặp những người và các hành không </b>

vừa ý. Điều này cũng là nguyên nhân gây ra nổi khổ cho con người. Trong cuộc sống, thì cái dễ ưa và cái khó ưa, cái dễ thương và cái đáng ghét ln ln cùng hiện hữu, có những con người thương yêu nhau nhưng không được ở gần nhau, phải sống xa la nhau, những thứ mà mình thích lại khơng đạt được thì là khổ, thể nhưng, con người ghét nhau lại ở gần nhau, sống với nhau, những thứ mình khơng thích mà cử đến với mình thì cũng là khổ. Con người sống với nhau mà khơng thương u nhau, có những sự xung khắc làm con người rất sợ nhưng cái khổ như vậy nhưng điều quan trọng là phải cố gắng đối diện với những tình huống khó ưa đó với một thái độ đúng đắn nhất để cuộc sống của con người trở nên bớt khổ.

<b>Ngũ thủ uẩn là khổ Năm vẫn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, </b>

thức uẩn Thông thường mọi người trong chúng ta đều cho rằng cuộc sống là đau khổ. Người nghèo có cái khổ của người nghèo, người giàu có cái khổ của người giàu. Biết là mình đang khổ nhưng lại khơng hiểu cái khổ đó tới từ dâu Khi khổ tới thì chỉ biết kêu than mà lại khơng đi tìm nguyên nhân cái khổ của nó. Lý giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

cho nỗi khổ mà con người đang mắc phải là do con người mắc vào năm uẩn, do con người chấp thủ năm uẩn. Theo quan niệm của Đạo Phật thì con người từ thân tới tâm đều do năm uẩn trên cấu tạo mà nên. Thân thể được cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa và thuộc về sắc uẩn vật chất. Tâm là sự vận hành biến chuyển của thời tưởng, hành, thức thuộc về tinh thần (vọng thức). Chúng sinh vì chấp ngã, sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà tham ái, chấp thủ thành ra đau khổ. Vì sao chấp thủ, vì sao tham ái? Chính cái ý niệm thân thể ta, tình cảm ta, tư tưởng ta, tâm tư ta, nhận thức của ta… hình thành cái ta ham muốn, vị kỷ. Vì chấp có cái Ta cho nên sinh tham ái. Nếu khơng có cái Ta thì tham ái sẽ khơng có mặt. Mê lầm chấp ngã sinh tham ái, ái không đạt được thành ra đau khổ. Vì chấp năm uẩn nên sinh đau khổ.

Thế mà nhân sinh lại ngắn ngủi, không may một cái sơ sẩy chân tay, rối loạn nào đó trong cơ thể cũng có thể đặt dấu chấm hết cho cuộc đời này. Có sinh thì ắt có diệt, tất cả đều vơ thường. Nếu khơng thấm nhuần chân lý này mà cứ bám víu, muốn có sự cố định, muốn mọi thứ đều vĩnh viễn trường tồn thì cịn khổ. Bởi lẽ tất cả mọi thứ những tưởng của ta sẽ mất đi, còn gì nữa đâu mà tranh giành hơn thua, được mất?

Nhưng sống trong cuộc đời này, con người không ai thoát khỏi những nỗi đau, buồn giận, những bế tắc về nội tâm, trắc trở trong cuộc sống. Con người ai mà chẳng có dục vọng nảy sinh làm cho mê mờ, đuổi theo dục vọng lại càng bị trói chặt trong cuộc sống tội lỗi, khổ đau. Do vậy, nếu không hiểu rõ Ngũ uẩn càng làm cho con người luôn khổ đau, trở thành gánh nặng cho chính mình. Chính Ngũ uẩn là gánh nặng mà kẻ gánh cái nặng ấy chính là con người. Mang cái gánh nặng lên chính là mang lịng tham ái, níu kéo, chấp thủ cái Ta. Đặt gánh nặng xuống tức là rời bỏ lòng tham, đoạn diệt khát ái một cách hồn hảo.

Người có trí tuệ thường biết cân bằng lại đời sống nội tâm của mình, biết “đặt gánh nặng xuống” để xả bỏ những muộn phiền, chấp thủ, tham ái, tự Ta cho đời sống của Ta thêm an lạc.

Trong Kinh Tương Ưng, phẩm Gánh nặng, có những câu thơ rất hay về Ngũ

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Không mang thêm gánh khác. Nếu nhổ khát ái lên Tận cùng đến gốc rễ, Khơng cịn đói và khát Được giải thốt tịnh lạc.

<i><b>2.1.2. Hoại Khổ</b></i>

Đây là một hình thức đau khổ có ý nghĩa triết lý sâu hơn. Riêng chữ “Hoại” có nghĩa là sự thay đổi dẫn dần của một vật thể tới một giai đoạn hư nát, như danh từ biến hoại, băng hoại, hư hoại...vậy hoại khổ được hiểu là cái khổ tiếp theo sau một niềm vui tàn tụ. Do cuộc thay đổi đột ngột của cuộc sống thăng trầm, được mất gây ra nên khổ. Trạng thái biển đổi có thể ngắm ngầm tiêu diệt tất cả những hạnh phúc trên thế gian. Trong khi hoàn cảnh biển đổi và tất cả đều phải biến đổi thì chính hương vị ngọt bùi của hạnh phúc cũng trở thành vị đắng cay của đau khổ. Cái vui được có càng nhiều thì cái buồn khi mất càng nặng.

Theo quan điểm nhà Phật thì khơng có một vật thể nào trong vũ trụ này không bị luật vô thường chi phối, không thể tồn tại được mãi, dù cho có cứng rắn như sắt đá thì lâu năm cũng mục nát, to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng bị tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhoi như thân người thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du. Cái búa tàn ác của thời gian đập phá tất cả, mỗi phút giây con người sống cũng là mỗi phút giây con người bị hủy hoại, dù con người có sức mạnh bao nhiêu cũng không thể ngăn cản được, chống đỡ để ngăn cho thời gian không hủy hoại được con người.

Cái khổ đau có ý nghĩa sâu sắc hơn là khổ đau do trình độ hạn chế của nhận thức cảm tính đem lại do chỉ nhìn thấy được cái vỏ bên ngồi của sự vật hiện tượng mà không thấy được bản chất bên trong của nó. Tri kiến hiện thực chỉ dừng ở mức độ tùy giác chưa thể nhập được vào các yếu tố thuộc nội hàm sự vật để nắm bắt và hiểu được mối quan hệ của sự nhân quả và sự biến đổi. Với Hoại khổ, Kinh Phật đề cập tới mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trên cơ sở quan sát thực tế cuộc sống phải từng bước nâng cao nhận thức từ một mặt tới toàn diện, từ hiện tượng tới bản chất, tìm ra quy luật nhân quả của sự biến đổi (vô thưởng). Hoại khổ thuộc Lạc tho.

<i><b>2.1.3. Hành khổ.</b></i>

Đây là hình thức thứ ba của đau khổ. Sở dĩ con người đau khổ là vì chưa nhận biết được hình thái và phương hướng biến đổi của sự vật trong thời gian. Ở đây đã tiến vào một giai đoạn nhận thức cao hơn. Từ nhận thức trực tiếp đi vào nhận thức gián tiếp bằng khái niệm phán đoán và suy lý, từ sự vật cụ thể đi vào

</div>

×