Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

KIẾN THỨC TÀI CHÍNH CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.12 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

Thực trạng và các vấn đề đặt ra

<small>Nguyễn Thị Hoài Lê </small>

<small>Viện nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nhân văn</small>

<small>Ngày nhận: 14/04/2023 Ngày nhận bản sửa: 22/06/2023 Ngày duyệt đăng: 26/06/2023</small>

<small>Tóm tắt:</small><i><small> Kiến thức tài chính là một thành phần quan trọng của hiểu biết tài chính đối với mỗi người, có hiểu biết tài chính giúp con người có cuộc sống tốt hơn do có các quyết định tài chính đúng đắn. Để đo lường kiến thức tài chính của sinh viên Việt Nam, nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát online ngẫu nhiên để thu về 4.140 mẫu tại các trường đại học trên toàn quốc năm 2021, với 11 câu hỏi chia làm 3 cấp độ kiến thức là căn bản, trung bình và nâng cao. Kết quả thống kê mô tả cho thấy, sinh viên Việt Nam có kiến thức về tài chính là yếu, kể cả sinh viên đang theo học các ngành về tài chính- ngân hàng hay kinh tế. Kết quả cũng cho thấy kiến thức tài chính khơng đồng đều của sinh viên ở các năm học khác nhau, vùng miền khác nhau, ngành học khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam đang thực hiện chiến lược tài chính tồn diện thì điều này đặt ra vấn đề cấp bách về việc cần tổ chức một cách có hệ thống, có lộ trình một Chiến lược giáo dục </small></i>

<small>Financial knowledge of Vietnamese students: Current situation and Issue </small>

<small>Abstract: Financial knowledge is an important component of financial literacy for every person. Financial literacy helps people have a better life by making relevant financial decisions. To measure the financial knowledge of Vietnamese students, this study conducted a random online survey of 4,140 samples at universities across the country in 2021, with 11 questions divided into 3 levels of knowledge (basic, medium and advanced). The descriptive statistics show that Vietnamese students have very weak financial knowledge, in which, even students are studying finance-banking or economics. The results also show that financial knowledge is not uniform in different school years, regions and majors. In the context that Vietnam is implementing a comprehensive financial strategy, there is an urgent need to systematically develop a National Financial Education Strategy, to provide early education by many different channels and methods for students as well as for the youth in Vietnam.</small>

<small>Keywords: measurement, financial literacy, financial knowledge, students.Doi: 10.59276/TCKHDT.2023.07.2528 </small>

<small>Nguyen, Thi Hoai LeEmail: </small>

<small>Institute of Human Studies. Vietnam Academy of Social Sciences</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><small>tài chính quốc gia, thực hiện giáo dục từ sớm, bằng nhiều kênh và nhiều phương pháp khác nhau cho sinh viên cũng như cho giới trẻ Việt Nam. </small></i>

<small>Từ khóa:</small><i><small> đo lường, hiểu biết tài chính, kiến thức tài chính, sinh viên.</small></i>

<b>1. Giới thiệu</b>

Cụm từ hiểu biết tài chính hay am hiểu tài chính xuất phát từ thuật ngữ gốc tiếng Anh là Financial Literacy. Literacy là thuật ngữ thường dùng trong giáo dục, đặc biệt là giáo dục ngôn ngữ. Hiểu biết tài chính được dùng trong phạm vi của nghiên cứu này nhấn mạnh “knowledge acquiring” thay vì chỉ là “understanding”. Đến nay, một định nghĩa chung về hiểu biết tài chính vẫn chưa có sự thống nhất hồn tồn, mà thường được điều chỉnh hay thay đổi tùy thuộc vào từng nghiên cứu của các tác giả khác nhau hay mỗi chương trình triển khai của mỗi tổ chức. Lusardi & Mitchell (2014) coi am hiểu tài chính là việc một cá nhân có được những kiến thức và hiểu biết tài chính (HBTC), áp dụng những hiểu biết này để ra các quyết định tài chính. Cũng nhóm tác giả này trong một nghiên cứu khác năm 2011 đã khẳng định, HBTC là rất quan trọng, nhất là đối với an ninh hưu trí. Hogarth (2002) cho rằng HBTC là các cách thức quản lý nguồn tài chính trên phương diện dự phòng cá nhân, đầu tư, tiết kiệm và lập ngân sách cá nhân. Schagen& Leans (1996) định nghĩa HBTC là khả năng phán quyết một cách có hiểu biết và ra các quyết định hiệu quả liên quan

<i>đến việc sử dụng và quản lý đồng tiền. Theo </i>

OECD- tổ chức đã có các đợt khảo sát đánh giá về HBTC định kỳ ở rất nhiều nước trên thế giới, đưa ra định nghĩa sau: Hiểu biết tài chính là sự kết hợp của nhận thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành vi thiết yếu để đưa ra quyết định tài chính hiệu quả, cuối cùng đạt được mức độ cao về hiểu biết tài chính cá nhân (OECD, 2012).

Vai trò quan trọng của HBTC của mỗi cá nhân thể hiện ở cả góc độ từng cá nhân và cả góc độ tồn nền kinh tế. Ở góc độ cá nhân, có HBTC giúp bản thân cá nhân và gia đình của cá nhân đó có các quyết định chi tiêu tốt hơn không chỉ cho hiện tại, gồm cả tiêu dùng và đầu tư, mà còn cho cả giai đoạn hưu trí trong tương lai. Hiểu biết tài chính cá nhân giúp người tiêu dùng lập kế hoạch ngân sách và quản lý thu nhập, tiết kiệm và đầu tư hiệu quả hơn, cũng giúp họ tránh được các hành vi lừa đảo (OECD, 2005). Perry &Morris (2005) cho rằng HBTC ảnh hưởng đến việc lập ngân sách, tiết kiệm và chi tiêu, ông nhận định những người có trình độ HBTC thấp hơn thường có nhiều khoản thế chấp đắt đỏ và khơng được tái cấp vốn. Lusardi & Tufano (2009) chỉ ra rằng HBTC thấp có nhiều khả năng sẽ làm người dân phải đi vay với chi phí cao. Những người có kiến thức tài chính (KTTC) thấp cũng ít có khả năng tham gia vào thị trường chứng khoán (Van Rooij, Lusardi, & Alessie, 2011) và ít có kế hoạch tài chính cho việc nghỉ hưu hơn (Lusardi & Mitchell, 2008).

Ở góc độ nền kinh tế, việc các cá nhân có quyết định chi tiêu đúng đã ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tài chính quốc gia theo nhiều khía cạnh khác nhau như giảm tính dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính khi đối mặt với các cuộc khủng hoảng tài chính từ cấp độ cá nhân, gia đình đến cấp độ cả thị trường tài chính; tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của các cá nhân hiệu quả, từ đó ngăn cản, thậm chí ngăn cấm hành vi kinh doanh không trung thực của các định chế tài chính. Khơng những thế, sự thiếu HBTC và thiếu niềm tin của người dân đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

với các thị trường tài chính, khơng hiểu các quan hệ hợp đồng, các nền tảng cơ bản của tài chính cịn kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh do không biết cách khởi nghiệp, xây dựng và quản lý một dự án kinh doanh (Đinh Thị Thanh Vân & Nguyễn Thị Huệ, 2016; Nguyễn Đình Trung, 2013; Phạm Tiến Mạnh, 2018).Thiếu HBTC cá nhân mà trước tiên là yếu kém về KTTC, nhất là đối với những người trẻ tuổi, khi nhu cầu kiếm tiền và khát vọng làm giàu cao, nhiều người đã rơi vào tình trạng kiệt quệ về tài chính do có các quyết định đầu tư sai lầm hoặc bị lừa đảo. Việc sau một thời gian dài bị mất hoặc giảm sút thu nhập do đại dịch Covid-19 đã làm hàng triệu cá nhân và gia đình ở Việt Nam mất khả năng chi trả cho các sinh hoạt tối thiểu đã bộc lộ rõ hơn hậu quả của việc khơng có tiền tiết kiệm, khơng thu xếp và lựa chọn được các công cụ để đầu tư, phịng ngừa rủi ro, khơng có các kế hoạch tài chính dài hạn... cũng làm dấy lên lo ngại về làm sao có thể giúp người dân, nhất là người lao động, ngay từ khi còn trẻ có hiểu biết tài chính, có đầy đủ các KTTC để họ có thể đạt được an tồn tài chính cá nhân. Nghiên cứu này tiến hành điều tra KTTC của sinh viên bằng cách hỏi họ 11 câu hỏi được chia thành ba cấp độ từ kiến thức cơ bản đến kiến thức nâng cao. Sinh viên tham gia khảo sát đến từ các trường đại học, cao đẳng trên tồn quốc cũng là nhằm mục tiêu muốn tìm hiểu xem các yếu tố cá nhân khác nhau của sinh viên, gồm cả yếu tố vùng miền thì kiến thức tài chính của họ có khác nhau hay khơng. Từ đó, khuyến nghị các giải pháp để có thể giáo dục tài chính phù hợp để nâng cao KTTC nói riêng và HBTC nói chung cho sinh viên Việt Nam.

<b>2. Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Tổng quan nghiên cứu </b></i>

Cho đến nay, mơ hình đo lường hiểu biết tài chính chưa có sự thống nhất, tuy nhiên các nghiên cứu khá đồng nhất ở việc hiểu biết tài chính cá nhân bao gồm 3 trụ cột chính là kiến thức tài chính, thái độ tài chính và hành vi tài chính. Phần lớn các nghiên cứu đi trước sử dụng bảng hỏi của OECD (2016, 2018), bộ câu hỏi tiêu chuẩn của Jump$art (1997), Lusardi & Mitchell (2011), Potrich & Vieira (2016), nhưng tựu chung đều thống nhất đo lường HBTC là tổng điểm của ba thành tố trên. Mỗi bộ chỉ tiêu có thể có các câu hỏi cụ thể tùy theo đối tượng, bối cảnh và phạm vi nghiên cứu.

Để đo lường KTTC, các nghiên cứu đều sử dụng các câu hỏi để kiểm tra mức độ hiểu biết. OECD (2016) trong cuộc khảo sát quốc tế về năng lực tài chính của người lớn đã đo lường KTTC qua các câu hỏi về Lãi đơn và Lãi kép, Lạm phát và giá trị thời gian của tiền, Rủi ro và Tỷ suất sinh lời và Đa dạng hoá rủi ro. OECD (2018) đã yêu cầu điểm kiến thức tài chính tối thiểu là 6/9. Các nội dung đánh giá bao gồm nhiều hành vi tài chính như lập ngân sách; hỗ trợ khả năng phục hồi tài chính- hành vi mà mọi người có thể cần lặp lại để giúp bản thân có khả năng chống chọi với những cú sốc tài chính. Chúng bao gồm tiết kiệm tích cực, cân nhắc mua hàng và thanh tốn hóa đơn đúng hạn, cũng như theo dõi các vấn đề tài chính cá nhân. Thực hiện các bước nhằm tránh vay nợ để trang trải cuộc sống cũng như khả năng phục hồi tài chính. Thái độ tài chính được đo lường qua thái độ đối với tiền bạc và kế hoạch trong tương lai.

Potrich & Vieira (2016) sử dụng 20 câu hỏi theo thang đo Likert 5 mức để khảo sát ngẫu nhiên 534 sinh viên đang theo học ở Brazil đánh giá KTTC, thái độ và hành vi tài chính của sinh viên. Đối với kiến thức tài chính, nghiên cứu phân thành hai nhóm

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

câu hỏi: nhóm câu hỏi đánh giá kiến thức căn bản gồm 3 câu hỏi (lạm phát, lãi suất, giá trị thời gian của tiền) và 5 câu hỏi nâng cao (cổ phiếu, trái phiếu chính phủ và sự đa dạng hoá rủi ro). Các câu hỏi kiến thức được gán trọng số theo quy tắc, mỗi câu hỏi đúng ở phần kiến thức căn bản được 1 điểm và mỗi câu hỏi đúng ở phần kiến thức nâng cao được 2 điểm. Các câu hỏi kiến thức cũng cho phép sinh viên chọn phương án “Tôi không biết”. Lusardi & Mitchel (2011) nghiên cứu HBTC tại Mỹ và đưa ra 3 câu hỏi trở thành tiêu chuẩn cho những nghiên cứu đánh giá về kiến thức tài chính gồm có: 01 câu hỏi về lãi suất; 01 câu hỏi về lạm phát; 01 câu hỏi về đa dạng hoá rủi ro. Các câu hỏi đều cho phép người được hỏi lựa chọn phương án “Tôi không biết” hoặc “Từ chối trả lời”, thang đo này được cho là phù hợp với khảo sát HBTC của sinh viên (SV).

The Nielsen Finance IPG (2012), Nguyễn Thị Hải Yến (2016), Trần Thanh Thu và Đào Hồng Nhung (2020), nghiên cứu về KTTC của sinh viên Việt Nam cho thấy HBTC nói chung và KTTC nói riêng của sinh viên Việt Nam còn yếu, trong khi sinh viên là lực lượng lao động chính đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội trong tương lai. Trong bối cảnh đó, Chiến lược tài chính tồn diện của Việt Nam đã được ban hành nhưng Chương trình giáo dục tài chính quốc gia lại chưa được xây dựng, nên việc nghiên cứu, đánh giá KTTC cho sinh viên Việt Nam để tìm ra những điểm yếu cụ thể trong kiến thức của họ chính là khoảng trống mà nghiên cứu này hướng đến.

<i><b>2.2. Phương pháp nghiên cứu</b></i>

<i>2.2.1. Thiết kế câu hỏi nghiên cứu </i>

Nghiên cứu này kế thừa và sử dụng bộ câu hỏi của Lusardi & Mitchell (2011) gồm ba câu hỏi tiêu chuẩn để đo lường KTTC căn bản về lãi kép, lạm phát, và giá trị thời gian

của tiền; 5 câu hỏi về cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, thẻ tín dụng, đa dạng hoá rủi ro để đo lường KTTC mức trung bình; 3 câu hỏi về bảo hiểm, phịng ngừa rủi ro, kế hoạch hưu trí để đo lường KTTC nâng cao. Một số chi tiết của các câu hỏi cũng được chỉnh sửa cho phù hợp với thị trường tài chính và các sản phẩm tài chính của Việt Nam. Bảng hỏi online được thiết kế trên phần mềm kototoolbox, các số liệu sau khi thu thập từ bảng hỏi được xử lý bằng phần mềm STATA. Bộ câu hỏi bao gồm đặc điểm đối tượng khảo sát (các nhà nghiên cứu quan tâm Bộ câu hỏi xin liên hệ qua email tới Tác giả bài viết).

<i>2.2.2. Dữ liệu nghiên cứu</i>

Ban đầu nghiên cứu tập trung khảo sát các trường đại học ở Hà Nội, Nghệ An và Thái Nguyên, mỗi nơi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp 100 bảng hỏi (trước đó đã tổ chức toạ đàm khoa học để lấy ý kiến chuyên gia và khảo sát thử nghiệm 10 mẫu). Sau đó, cũng trong năm 2021, khảo sát online đã được mở rộng ra ở hầu khắp các trường đại học và cao đẳng trên toàn quốc (chủ yếu là đại học). Cũng trong giai đoạn này nhiều tỉnh thành phải thực hiện giãn cách do đại dịch Covid-19 nên để có thể thu được số mẫu lớn, khảo sát đã được chuyển sang hình thức lấy online ngẫu nhiên. Kết quả thu về được 4.140 phiếu (người trả lời bảng hỏi là ngẫu nhiên). Mẫu nghiên cứu được phân bổ trên 5 địa bàn chính, trong đó, SV ở các trường đại học Hà Nội là 1.518 SV với tỷ lệ cao nhất 36,7%. SV đến từ các trường đại học ở TP Hồ Chí Minh là 824 người, chiếm tỷ lệ gần 20%. Khu vực miền núi phía Bắc và miền Trung lần lượt chiếm tỷ lệ là 6,4% và 9,2%. Ngoài ra có 27,9% SV đến từ các tỉnh thành, khu vực khác trong cả nước. So sánh với tỉ lệ số SV toàn quốc theo học tại các vùng miền khác nhau có thể thấy mẫu nghiên cứu có tính đáp ứng

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

cao. Đặc điểm mẫu nghiên cứu được mơ tả tại Bảng 1.

Về giới tính, ngoại trừ 21 quan sát thuộc nhóm “Khác”, phần lớn mẫu nghiên cứu là “Nữ”, với 78,6%. Số lượng người trả lời có giới tính nữ gấp khoảng 3,6 lần giới tính nam. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, năm 2019, dân số Việt Nam trong độ tuổi từ 20-25 tuổi, tỷ lệ phân bổ dân số theo giới tính là vào khoảng 1,03 nam/1 nữ. Như vậy, kết cấu mẫu điều tra theo giới tính chưa thực sự bám sát kết cấu dân số theo giới tính nói chung tại Việt Nam. Điều này một phần là do người trả lời tập trung chủ yếu ở khối trường kinh tế, tài chính, khối khoa học xã hội và nhân văn- những trường đại học có tỷ lệ sinh viên nữ cao. Ngoài ra, do những đặc điểm như thận trọng, chi tiết, có kế hoạch, nữ giới thường dành quan tâm cho quản lý tiền bạc và tài chính cá nhân. Bên cạnh đó, nam giới trong nhiều nghiên cứu, nhất là các nghiên cứu về tài chính hành vi đã chỉ ra nam giới thường quá tự tin về bản thân, do đó, có thể điều này cũng làm cho họ khơng có nhu cầu học tập để

tìm hiểu cao như nữ giới. Tỉ lệ sinh viên năm thứ 5 và 6 ít cũng phù hợp với thực tế là các trường chủ yếu hiện nay SV chỉ học 4 năm đại học. Các sinh viên năm nhất có thể do ít hiểu biết nên họ muốn tham gia trả lời để tăng trải nghiệm nên có tỉ lệ cao trong mẫu.

Cùng năm 2021 nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 03 người làm công tác quản lý giáo dục tại các trường đại học, cao đẳng và 6 sinh viên ở Hà Nội, Thái Nguyên, Nghệ An để tìm hiểu về các ý kiến của họ liên quan đến việc giáo dục để tăng cường kiến thức tài chính cho sinh viên.

<i>2.2.3. Xử lý dữ liệu nghiên cứu</i>

11 câu hỏi trong bảng hỏi được thiết kế cho ba mức là căn bản, trung bình và nâng cao, mỗi câu hỏi có 4 phương án trả lời (trong đó chọn 1 phương án cho đáp số đúng trong 3 đáp số cho trước và có bao gồm phương án thứ 4 là “Tôi không biết”). Người được hỏi chọn 1 trong 4 phương án; mỗi câu trả lời đúng được tính điểm như sau: từ câu số 1 đến câu số 8 (các câu mức độ kiến thức

<b><small>Bảng 1. Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu</small></b>

<small>Giới tính</small>

<small>Ngành học</small>

<small>Năm học</small>

<small>Năm thứ nhất1.82244,0%</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

thông thường), với mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm; các câu số 9, 10, 11, với mỗi câu trả lời đúng được tính 1,5 điểm (những câu hỏi này thuộc phần kiến thức khó hơn do đó được gán trọng số cao hơn). Nghiên cứu cũng tiến hành kiểm định để so sánh điểm KTTC theo các tiêu chí giới tính, khu vực, ngành học, năm học (Bảng 5) để tìm hiểu xem các yếu tố cá nhân có ảnh hưởng đến KTTCh của sinh viên Việt Nam hay không.

<b>3. Kết quả và thảo luận </b>

<i><b>3.1. Đánh giá về kiến thức tài chính cá nhân của sinh viên Việt Nam</b></i>

Kết quả tính điểm kiến thức tài chính cụ thể như sau: mức điểm KTTC căn bản bình quân đạt 3,63/8,0 điểm KTTC nâng cao bình quân đạt 2,26/4,5 với độ lệch chuẩn 1,33 cho thấy kiến thức tài chính của SV ở mức thấp (Bảng 2). Kết quả này cũng tương đồng với kết quả của một số nghiên cứu trước đây như đã đề cập ở trên. Tồn tại mối tương quan thuận chiều giữa điểm KTTC căn bản và điểm KTTC nâng cao (hệ số tương quan Pearson có giá trị là 0,358 với p-value = 0.000). Điều này đồng nghĩa với việc sinh viên có điểm KTTC căn bản cao sẽ trả lời đúng nhiều câu hỏi KTTC nâng cao hơn. Trái lại, những sinh viên trả lời đúng từ 5 câu hỏi KTTC căn bản trở lên có tỷ lệ trả lời đúng 03 câu hỏi KTTC nâng cao ở mức cao, chiếm 47,5%.

Điểm kiến thức tài chính căn bản của SV bình quân thấp, chỉ đạt 3,63/8 với độ lệch chuẩn là 2,01. Có 18,91% SV trả lời đúng 3 câu; 17,68% SV trả lời đúng 4 câu. Tỷ lệ sinh viên trả lời đúng 7 hoặc 8 câu khá thấp, lần lượt ở mức 6,43% và 2,32%. Có khoảng 7% sinh viên không trả lời được bất kỳ câu hỏi nào (Biểu đồ 1).

Bảng 3 cho thấy trong 9 câu hỏi căn bản về

KTTC thì các câu hỏi số 1, số 3, số 4, số 5 và số 6 là những câu hỏi có tỷ lệ trả lời đúng khơng vượt q 50%. Tỷ lệ trả lời đúng của câu hỏi số 9 về bảo hiểm nhân thọ đạt cao nhất (71,6%), kết quả này cho thấy SV có sự quan tâm khá lớn đến bảo hiểm- giải pháp tài chính phịng ngừa rủi ro. Kết quả này cũng có thể do xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng trong vịng vài năm trở lại đây, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 lan rộng và có những diễn biến khó lường.Câu hỏi số 1 là câu hỏi về lãi kép; câu hỏi số 3 về giá trị thời gian của tiền; câu hỏi số 4, số 5, số 6 là những câu hỏi về các công cụ đầu tư căn bản là cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ song tỷ lệ sinh viên

<i><small>Basic_Know: Điểm kiến thức tài chính căn bản</small></i>

<i><small>Nguồn: Tính toán từ mẫu nghiên cứu</small></i>

<b><small>Biểu đồ 1. Tỷ lệ trả lời đúng các câu hỏi </small></b>

<b><small>kiến thức tài chính căn bản</small></b>

<b><small>Bảng 2. Điểm kiến thức tài chính cho tồn mẫu nghiên cứu</small></b>

<i><small>Nguồn: Tính tốn từ mẫu nghiên cứu</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trả lời đúng ở mức thấp, không đạt 50%. Đặc biệt, câu hỏi số 4, 5 về tỷ suất sinh lời của cổ phiếu và trái phiếu chỉ đạt được gần 35% câu trả lời đúng. Nếu coi đầu tư là một trong những cách thức căn bản để tăng giá trị tài sản cho tương lai thì kết quả này cho thấy cần phải có chiến lược giáo dục để cải thiện kiến thức đầu tư của thế hệ gen Z.Câu số 11 hỏi về lập kế hoạch tài chính cá nhân tổng hợp đạt tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất, chỉ ở mức 26,6%. Câu 11 là câu hỏi về lập kế hoạch tài chính cá nhân tổng hợp đòi hỏi sinh viên phải áp dụng các kiến thức và kỹ năng tính tốn nhất định để đưa ra câu trả lời đúng. Đây là câu hỏi có tỷ lệ sinh viên lựa chọn “tôi không biết” nhiều nhất, lên đến 1.376 SV với tỷ lệ 33,2%. Kết

quả này cũng chỉ ra việc vận dụng các kiến thức và kỹ năng tài chính để giải quyết một vấn đề thực tiễn của sinh viên còn yếu. Câu hỏi này cũng yêu cầu phải thực hiện nhiều bước tính tốn dễ khiến người trả lời có tâm lý ngại trả lời, hoặc nếu yếu về kỹ năng toán sẽ trả lời khơng chính xác. Kết quả điều tra của PISA (2018) đã cho thấy có sự liên hệ giữa điểm số mơn tốn và điểm KTTC của học sinh phổ thơng. Đây cũng có thể là lý do dẫn đến tỷ lệ trả lời đúng câu hỏi số 11 rất thấp so với những câu khác.

<i><b>3.2. Đánh giá kiến thức tài chính của sinh viên Việt Nam theo các tiêu chí phân nhóm</b></i>

Bảng 4 làm rõ điểm KTTC trung bình theo

<b><small>Bảng 3. Tỷ lệ trả lời đúng và tôi không biết của từng câu hỏi</small></b>

<i><small>Đơn vị: %</small></i>

<small>Tỉ lệ trả lời đúng49,659,838,133,536,041,153,351,671,652,626,6Tỉ lệ trả lời khơng biết8,515,521,417,720,925,012,917,811,121,833,2</small>

<i><small>Nguồn: Tính tốn từ mẫu nghiên cứu</small></i>

<b><small>Bảng 4. Điểm kiến thức tài chính trung bình theo các tiêu chí phân loại</small></b>

<small>Tiêu chí</small> <sup>KT căn </sup><sub>bản</sub> <sup>KT nâng </sup><sub>cao</sub> <sup>Tổng </sup><sub>điểm</sub> <small>Tiêu chí</small> <sup>KT căn </sup><sub>bản</sub> <sup>KT nâng </sup><sub>cao</sub> <sup>Tổng </sup><sub>điểm</sub>

<small>Miền núi phía Bắc3,082,005,09 Năm thứ hai3,592,245,83</small>

<small>TP. Hồ Chí Minh4,432,506,93 Năm thứ tư3,922,226,14</small>

<i><small>Nguồn: Tính tốn từ mẫu nghiên cứu, điểm số được làm tròn</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>các tiêu chí khác nhau. Khi xem xét theo </i>

<i>giới tính cho thấy không chênh lệch nhiều về </i>

tổng điểm do số điểm của SV nam là 5,90 và SV nữ là 5,88, nhưng điểm thành phần thì lại có sự khác biệt: nhóm SV nam điểm KTTC căn bản đạt 3,78/8, cao hơn mức 3,58/8 của SV nữ nhưng ở điểm KTTC nâng cao thì SV nam đạt 2,12/4,5 lại thấp hơn mức 2,29/4,5 của SV nữ. Bảng 5 dưới đây cho biết kết quả kiểm định các giả thuyết như sau: giả thuyết H1 và H2 cũng khẳng định điều này khi so sánh GTTB của điểm KTTC căn bản và nâng cao cho hai nhóm SV nam và nữ cho giá trị p-value <1%.

<i>Khi xét đến tiêu chí khu vực, yếu tố này </i>

có ảnh hưởng khá rõ rệt tới HBTC của SV Việt Nam. SV của các trường đại học ở TP. Hồ Chí Minh có điểm KTTC căn bản và nâng cao cao nhất, lần lượt là 4,43/8 và 2,50/4,5. Sau đó đến mức điểm của SV ở các trường đại học tại Hà Nội lần lượt là 3,88/8 và 2,29/4,5. Hai khu vực có điểm KTTC cao hơn mức trung bình của toàn mẫu cũng là một điều dễ lý giải bởi đây là hai trung tâm chính trị- kinh tế- văn hoá xã hội của Việt Nam. Nhịp sống năng động và áp lực tại đơ thị lớn địi hỏi SV phải cập nhật kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng để tồn tại. Ngồi ra, chính vị trí địa lý cho phép SV có cơ hội tiếp cận tốt hơn với các kiến thức và kỹ năng quản lý TCCN, dẫn đến điểm KTTC có sự vượt trội so với SV ở những khu vực khác.

Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu về sự khác biệt điểm KTTC căn bản và nâng cao giữa các khu vực từ giả thuyết H3 đến H13 (Bảng 5) cho thấy mức ý nghĩa thống kê p-value <5%. SV ở các trường đại học tại Tp.HCM có điểm KTTC căn bản và nâng cao cao nhất cả nước, tiếp đến là SV ở Hà Nội. Ngồi ra, khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh điểm KTTC căn bản và nâng cao giữa SV khu vực miền núi phía bắc và khu vực miền Trung; song điểm

KTTC của hai khu vực này đều thấp hơn hai đô thị lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Khi tách riêng các SV đang học tại các cụm trường Đại học ở Vùng là cụm vùng miền núi phía Bắc và cụm bắc Trung Bộ thì số liệu điều tra khơng có sự khác biệt về HBTC nếu xét trên góc độ nơi xuất thân (xem thêm về công bố kết quả nghiên cứu này tại Nguyễn Thị Hoài Lê và cộng sự, 2021); Nguyễn Thị Hồi Lê, Ngơ Thị Hằng, 2021). Điều này cho thấy nơi theo học mới là yếu tố quyết định đến HBTC chứ không phải nơi xuất thân.

<i>Đối với tiêu chí ngành học, SV đang học </i>

tập ở chun ngành Tài chính- Ngân hàng có điểm số KTTC cả căn bản và nâng cao đều ở mức cao nhất so với các nhóm khác. Điểm KTTC căn bản đạt 4,47/8, điểm KTTC nâng cao đạt 2,55/4,5. SV ngành kinh tế đạt 3,75/8 điểm KTTC căn bản và 2,35/4,5 điểm KTTC nâng cao.

Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về điểm KTTC căn bản và nâng cao theo ngành học từ H14 đến H26 (chi tiết xem Bảng 5) cho mức ý nghĩa thống kê p-value <5%. SV chun ngành Tài chính- Ngân hàng có kiến thức căn bản và nâng cao ở mức cao nhất trong các ngành học, tiếp đến là SV thuộc chuyên ngành kinh tế. SV ngành khoa học xã hội và nhân văn có cả điểm KTTC căn bản và nâng cao đều thấp và thấp nhất. Như vậy, những SV ngành tài chính- ngân hàng và kinh tế, nhờ có nền tảng đào tạo sẵn có từ các mơn học có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến nội dung câu hỏi, đã cho thấy điểm KTTC căn bản và nâng cao vượt trội so với những ngành học khác, điều này đã khẳng định vai trò quan trọng của việc được học các mơn học về kinh tế, tài chính đối với HBTC. Một kết quả đáng chú ý là SV ngành kỹ thuật và cơng nghệ có điểm KTTC cao hơn SV ngành khoa học xã hội và nhân văn, điều này cũng có thể là do những câu hỏi về

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

KTTC đòi hỏi những kỹ năng tính tốn nhất định. Phỏng vấn sâu cũng cho thấy, các bạn SV đánh giá cao việc được học các

mơn có liên quan đến tài chính hỗ trợ tốt cho họ về kiến thức tài chính ở trường đại học. Một bạn SV học tại Đại học Vinh cho

<b><small>Bảng 5. So sánh giá trị điểm kiến thức trung bình theo các tiêu chí</small></b>

<small>GIỚI TÍNH</small>

<small>KHU VỰC</small>

<small>H3-Điểm kiến thức căn bản của SV ở Hà Nội cao hơn MNPB0,000H4-Điểm kiến thức căn bản của SV ở Hà Nội cao hơn Miền Trung0,000H5-Điểm kiến thức căn bản của SV ở Hà Nội thấp hơn Tp.HCM0,000H6-Điểm kiến thức căn bản của SV ở Tp.HCM cao hơn MNPB0,000H7-Điểm kiến thức căn bản của SV ở Tp.HCM cao hơn miền Trung0,000H8-Điểm kiến thức nâng cao của Sv ở HN cao hơn MNPB0,010H9-Điểm kiến thức nâng cao của SV ở HN thấp hơn TP.HCM0,002H10-Điểm kiến thức nâng cao của SV ở HN cao hơn khu vực khác0,013H11-Điểm kiến thức nâng cao của SV ở Tp.HCM cao hơn MNPB0,000H12-Điểm kiến thức nâng cao của SV ở Tp.HCM cao hơn miền Trung0,002H13-Điểm kiến thức nâng cao ở Tp.HCM cao hơn khu vực khác0,000NGÀNH HỌC</small>

<small>H14-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành kinh tế cao hơn ngành khác0,000H15-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KT0,000H16-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KHXHNV0,000H17-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KTCN0,000H18-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành Khác0,000H19-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành KHXHNV thấp hơn ngành KTCN0,030H20-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành KTCN cao hơn các ngành khác0,000H21-Điểm kiến thức nâng cao của SV ngành KT cao hơn KTCN0,007H22-Điểm kiến thức nâng cao của SV ngành KT cao hơn các ngành khác0,000H23-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KT0,019H24-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KHXHNV0,032H25-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành KTCN0,000H26-Điểm kiến thức căn bản của SV ngành TCNH cao hơn ngành Khác0,000NĂM HỌC</small>

<small>H27-Điểm kiến thức căn bản của SV năm 3, năm 4 cao hơn năm 1,20,000</small>

<i><small>Nguồn: Tính tốn từ mẫu nghiên cứu</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

biết: “Các môn học tại đại học giúp mình cân đối được tài chính của bản thân, hiểu rõ được bản chất của tài chính” (PVS, nữ, 20 tuổi, học ngành Kế toán).

<i>Với tiêu chí thời gian đào tạo, giả thuyết </i>

nghiên cứu H27- SV năm thứ 3 và thứ 4 có điểm KTTC căn bản cao hơn SV năm nhất và năm hai có mức ý nghĩa thống kê p-value <1%. Mối tương quan giữa thời gian được đào tạo với điểm KTTC căn bản là 0,125 ở mức thống kê p-value <1%; điều này cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu đi trước, tuy nhiên, không tồn tại mối quan hệ có mức ý nghĩa thống kê giữa điểm KTTC nâng cao với thời gian đào tạo. Như vậy, phải chăng việc vận dụng kiến thức căn bản vào những tình huống thực tiễn liên quan đến quản lý tài chính cá nhân có thể khơng phụ thuộc vào thời gian đào tạo mà địi hỏi những phương pháp giáo dục khác, cũng có thể là sự chủ động từ phía SV để tự nâng cao kiến thức và kỹ năng từ các nguồn khác ngồi kiến thức có được từ giảng đường đại học. Bên cạnh đó, việc SV năm nhất có HBTC kém nhất cũng đặt ra vấn đề cần quan tâm đến nâng cao HBTC cho họ từ khi còn là học sinh phổ thông. Từ kết quả nghiên cứu nêu trên có thể thấy: Kiến thức tài chính cá nhân của SV Việt Nam còn thấp, nhu cầu được nâng cao KTTC cho SV thực sự là rất cấp thiết. Bên cạnh đó, sự không đồng đều giữa các vùng trong cả nước cũng là vấn đề đáng quan tâm. Điều này có thể giải thích là do Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có Chiến lược giáo dục tài chính quốc gia, việc giáo dục tài chính cá nhân cho người dân cịn yếu và thiếu, cơng tác giáo dục tài chính khá phụ thuộc vào quan điểm và nhận thức của từng gia đình hay từng trường học. Mới đây nhất, bài học về tài chính cá nhân được chính thức đưa vào chương trình lớp 10 phổ thông trung học từ năm học 2022- 2023, ở môn học Kinh tế và Pháp luật (thuộc bộ

giáo trình Cánh diều), nhưng vẫn thuộc các môn học tự chọn và chỉ chiếm một chương trong cuốn sách này.

Năm thực hiện khảo sát của nghiên cứu này là năm 2021, cùng năm này thị trường tài chính Việt Nam đã có những tăng trưởng tích cực như: chỉ số chứng khốn VN-Index tăng 35,7%; vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 48,4%; thanh khoản thị trường tăng 253%; lợi nhuận trước thuế của 29 ngân hàng thương mại, chiếm 80% thị phần toàn ngành tăng trưởng 32%; thị trường bảo hiểm, năm 2021 có tổng doanh thu đạt 217 nghìn tỷ đồng, tăng gần 19% so với mức tăng 14% của năm 2020. Lợi nhuận rịng của các cơng ty kinh doanh bảo hiểm niêm yết tăng 19% (Đào Vũ, 2022).

Trong bối cảnh đó mà KTTC của SV, những người nắm giữ tương lai của đất nước vẫn ở mức rất thấp là một điều đáng quan ngại. Bỏ qua yếu tố có thể mỗi nghiên cứu có các câu hỏi chi tiết ở các nghiên cứu là khác nhau nhưng phương pháp và quan điểm để đánh giá là khá thống nhất cho thấy, tuy đã qua nhiều năm, song hiểu biết tài chính cá nhân nói chung và kiến thức tài chính của SV Việt Nam chưa mấy được thay đổi. Ví dụ như so sánh với kết quả nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Vân và Nguyễn Thị Huệ (2016), hay nghiên cứu của Morgan & Trịnh (2017) tiến hành điều tra HBTC tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chỉ ra rằng có 59,4% số dân thành thị tự đánh giá mức hiểu biết trung bình.

<b>4. Kết luận và khuyến nghị</b>

Kết quả nghiên cứu cho thấy thực trạng KTTC của SV Việt Nam nhìn chung là yếu, trong đó có sự khác nhau giữa các ngành, các khu vực, và đặc biệt là SV rất yếu trong kiến thức về lập kế hoạch tài chính cho thấy thực sự cần một kế hoạch thực hiện chiến lược giáo dục tài chính cá nhân có

</div>

×