Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo khoa học: giá trị thức ăn của một số cây đậu trồng tại vùng đất gò đồi huyện L-ơng Sơn - Hoà Bình pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.7 KB, 5 trang )

giá trị thức ăn của một số cây đậu trồng tại vùng đất gò đồi
huyện Lơng Sơn - Hoà Bình
Nutritive value of some legumes in hilly area of Luong Son district,
Hoa Binh province
Bùi Quang Tuấn, Mai Thị Thơm

summary
An experiment was carried out to determine the nutritive value of Stylosanthes
guianensis, Leucaena leucocephala and Flemingia congesta in hilly area of Luong Son district,
Hoa Binh province. The results of the study showed that Stylosanthes guianensis gave first cut at
90
th
day, meanwhile Leucaena leucocephala and Flemingia congesta gave first cut at 180
th
day
since planting. Due to fast growing rate Stylosanthes guianensis had high consumable yield
(13.13 tons of DM/ha/year), high yield of crude protein (2.03 tons of CP/ha/year). Stylosanthes
guianensis and Leucaena leucocephala had high digestibility and palatibility. Since unpleasant
smells cattle did not eat Flemingia congesta.
Key words: Stylosanthes guianensis, Leucaena leucocepha, Flemingia congesta, nutritive
value, hilly area
1. Đặt vấn đề
Trong mấy năm gần đây, chất lợng giống của đàn bò sữa, bò thịt nớc ta đã đợc cải
thiện đáng kể, song chất lợng thức ăn thô xanh còn kém. Nguồn thức ăn thô xanh chính bao
gồm cỏ tự nhiên và cỏ trồng phần lớn là cỏ hoà thảo (cỏ voi, cỏ ghi nê, cỏ lông para ). Cỏ tự
nhiên ở nớc ta có tỷ lệ protein thô thấp (khoảng 9 - 10% CK khi non và giảm xuống 7 - 8% CK
khi già), cỏ hoà thảo trồng cũng có tỷ lệ protein thô không cao (khoảng 10% CK). Do vậy một
trong những biện pháp chính để nâng cao chất lợng thức ăn thô xanh cho đàn gia súc nhai lại ở
nớc ta là phát triển cây họ đậu. Chúng ta đã nhập và trồng thử nhiều giống cây đậu trên một số
vùng sinh thái khác nhau (Trơng Tấn Khanh, 2003; Nguyễn Ngọc Hà và cộng sự, 1992;
Nguyễn Thị Liên, 2000). Bài viết này sẽ trình bày kết quả khảo sát, tuyển chọn tập đoàn cây đậu


làm thức ăn cho gia súc nhai lại đối với vùng đất gò đồi huyện Lơng Sơn - Hoà Bình.
2. phơng pháp nghiên cứu
Cây thức ăn gia súc đợc đánh giá theo Wong (1991). Qua bớc đánh giá thứ nhất và thứ
hai, 3 giống đậu sau đợc chọn nghiên cứu tiếp là: đậu Stylo (Stylosanthes guianensis), keo dậu
(Leucaena leucocephala), đậu công hay đậu Sơn Tây (Flemingia congesta).
Bớc 3: Nghiên cứu đáp ứng của gia súc. Thí nghiệm chỉ theo dõi tỷ lệ sử dụng của các
giống cây đậu nghiên cứu.
Bớc 4: Nghiên cứu khả năng sinh trởng và năng suất của các giống đậu trên trong điều
kiện canh tác của ngời nông dân Lơng Sơn, Hoà Bình. Ba giống đậu trên đều đợc chọn trồng
cho nhóm đất gò đồi của huyện.
Thí nghiệm đợc bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi giống là một công thức, mỗi
công thức nhắc lại ba lần, diện tích mỗi công thức là 30 m
2
.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm:
- Độ cao của cây đậu đợc tính từ mặt đất tới điểm (hoặc mặt phẳng) mà 50% số lá đạt
đợc, đo 10 ngày một lần.
- Năng suất của cây đậu đợc xác định từ các ô thí nghiệm có diện tích 30 m
2
(chiều rộng
5m, chiều dài 6m), trong đó diện tích để tính 20 m
2
, diện tích bảo vệ 10 m
2
.
- Thành phần hoá học của cây thức ăn đợc phân tích theo phơng pháp của AOAC (1995)
tại phòng phân tích thức ăn khoa Chăn nuôi - Thú y, Trờng ĐH Nông nghiệp 1.
- Phơng pháp xác định tỷ lệ tiêu hoá in - vitro
Tỷ lệ tiêu hoá in - vitro xác định theo hớng dẫn của De Boever (1986): Cân 0,3 g mẫu
vào chén có nắp đáy, cho 30 ml dung dịch men pepsin đã chuẩn bị từ trớc. Đậy nắp chén và cho

chén vào bể ổn nhiệt và duy trì nhiệt độ 39
0
C. Cứ 5 giờ lắc nhẹ chén một lần và ủ 24 giờ. Sau 24
giờ lấy chén ra ngâm vào bể ổn nhiệt khác có nhiệt độ 80
0
C trong vòng 45 phút. Rửa mẫu 3 lần
với nớc cất ấm (60
0
C). Làm nh thế với dung dịch men xenlulaza. Sấy mẫu ở 105
0
C và tro hoá
mẫu ở 540
0
C.
- Tỷ lệ sử dụng của cây thức ăn đợc xác định trên 3 bò lai Sind có khối lợng 200 kg.
Bò đợc ăn khối lợng thức ăn thô xanh bằng 2,5% khối lợng cơ thể (tính theo chất khô).
Trong thức ăn thô xanh cây đậu chiếm 1/3, còn cỏ voi chiếm 2/3 khối lợng. Thời gian thu thập
số liệu là 5 ngày.

Thức ăn cho ăn Thức ăn thừa
Tỷ lệ sử dụng (%) = x 100
Thức ăn cho ăn

- Phơng pháp xử lý thống kê
Các số liệu theo dõi của mỗi giống đậu đợc phân tích phơng sai theo từng chỉ tiêu
nghiên cứu, sử dụng bảng tính Microsoft Excel.
Đề tài đợc tiến hành từ năm 2002 đến năm 2004.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Khả năng sinh trởng, năng suất của cây đậu
Cây Stylo là cây đậu thân bụi, còn cây keo dậu và cây đậu công là cây đậu thân gỗ. Cây

đậu Stylo cho thu cắt lứa đầu ở 90 ngày tuổi, đạt độ cao 59,6 cm. Do phát triển chậm cây keo
dậu và cây đậu công cắt lứa đầu ở 180 ngày tuổi, đạt độ cao tơng ứng 152 và 150 cm. Từ lứa 2
trở đi, cây Stylo cho thu cắt ở 60 ngày, cây keo dậu và đậu công cho thu cắt ở 90 ngày (mùa hè -
thu). Trong 4 tháng mùa đông - xuân các cây đậu chỉ cho thu cắt 1 lần.
Bảng 1. Tốc độ tái sinh của cây đậu (cm/ngày đêm)
Giống đậu
Mùa vụ Stylo Keo dậu Đậu công
Hè - thu 0,81 0,01 0,88 0,04 0,85 0,04
Đông - xuân 0,41 0,02 0,52 0,03 0,60 0,02
Tốc độ sinh trởng của cây đậu Stylo đạt cao, còn tốc độ sinh trởng của cây keo dậu và
đậu công trồng tại Lơng Sơn - Hoà Bình tơng đối thấp so với tiềm năng của giống. Nguyễn
Thị Liên (2000) cho biết tại Thái Nguyên cây keo dậu và cây đậu công cho tốc độ sinh trởng
tơng ứng là 1,26 và 1,35 cm (vụ hè - thu), 0,83 và 0,89 cm/ngày đêm (vụ đông - xuân).
Bảng 2. Năng suất của cây đậu (tấn CK/ha/năm)
Chỉ tiêu Stylo Keo dậu Đậu công
Cành+lá (tấn CK/ha/năm) 13,13 1,30 12,28 1,68 11,92 1,70
Ngọn non+lá (tấn CK/ha/năm) 13,13 1,30 7,74 1,41 8,34 1,56
Protein thô (tấn/ha/năm) 2,03 0,16 1,46 0,19 1,36 0,14
Năng suất ngọn + lá (phần gia súc sử dụng đợc) của cây đậu Stylo rất cao (13,13 tấn
CK/ha/năm), trong khi đó cây keo dậu và cây đậu công chỉ đạt tơng ứng 7,74 và 8,34 tấn
CK/ha/năm. Cây keo dậu trồng tại Thuỵ Phơng, Từ Liêm, Hà Nội và Ba Vì, Hà Tây đạt năng
suất khá cao (13,37 tấn CK/ha/năm) (Lê Hoà Bình và cộng sự, 1992). Tại vùng đất tốt ở Gia
Lâm - Hà Nội và Đan Phợng - Hà Tây, năng suất của cây Stylo cũng chỉ đạt 13,9 tấn
CK/ha/năm (Bùi Quang Tuấn, 2004). Tại Thái Nguyên, năng suất ngọn + lá của cây keo dậu và
cây đậu công tơng ứng là 9,83 và 10,16 tấn/ha/năm (Nguyễn Thị Liên, 2000). Cây đậu công
phát triển rất tốt ở vùng đất Ba Vì, năng suất CK đạt 14,73 tấn/ha/năm (Ngô Tiến Dũng và CS,
2004).
Do năng suất cao hơn nên lợng protein thô thu đợc từ cây đậu Stylo cũng cao hơn so
với cây keo dậu và cây đậu công (P<0,05).
3.2. Giá trị dinh dỡng và tỷ lệ sử dụng của ba loại cây đậu

Bảng 3. Thành phần hoá học của cây đậu (% CK)

Giống đậu
CK
(%)
Protein
thô
NDF

ADF

ADL

KTS

Stylo 19,9 15,5 65,7 33,2 3,8 10,6
Keo dậu (ngọn+lá non) 24,7 18,8 40,3 33,8 3,3 9,9
Đậu công (ngọn+lá non) 18,6 16,3 65,0 38,7 5,4 10,3
Nhìn chung 3 cây đậu trên đều giàu protein và khoáng chất (bảng 3). Khẩu phần ăn của
trâu bò sẽ đợc cải thiện đáng kể nếu hàng ngày trâu bò đợc ăn 7 - 10 kg cây đậu. Tỷ lệ tiêu
hoá in - vitro của 3 cây đậu đều đạt cao, tỷ lệ sử dụng của cây đậu stylo và cây keo dậu đạt trên
80%, còn cây đậu công do có mùi lạ nên bò không ăn. Do đó cần phải có thời gian cho trâu bò
tập ăn quen với cây đậu này (bảng 4).
Bảng 4. Tỷ lệ tiêu hoá in - vitro và tỷ lệ sử dụng của cây đậu (%)
Giống đậu Tỷ lệ tiêu hoá in - vitro Tỷ lệ sử dụng
Stylo 59,2 1,4 84,9 6,1
Keo dậu (ngọn+lá non) 59,8 2,1 82,7 8,3
Đậu công (ngọn+lá non) 56,2 1,8 -

4. Kết luận

Cây đậu Stylo tơng đối thích hợp với vùng đất gò đồi huyện Lơng Sơn - Hoà Bình.
Trong điều kiện sản xuất cây cho năng suất chất khô 13,13 tấn, sản lợng protein thô đạt 2,02
tấn/ha/năm. Tỷ lệ tiêu hoá in - vitro và tỷ lệ sử dụng của cây đậu stylo cao, tơng ứng đạt 59,2
và 84,9%.

Tài liệu tham khảo
Lê Hoà Bình, Vũ Chí Cơng, Hoàng Thị Lãng, Phan Thị Phần, Ngô Đình Giang (1992). Kết quả
nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cây keo dậu và cao lơng làm thức ăn gia súc. Kết quả
NCKH KT, Viện Chăn nuôi 1985 - 1990. NXB Nông nghiệp. 127 - 132.
Ngô Tiến Dũng, Đinh Văn Bình, Nguyễn Thị Mùi, Inger Ledin (2004). ảnh hởng trồng xen
cây đậu Flemingia congesta đến năng suất của cây sắn và sử dụng ngọn lá sắn khô thay thế
cám hỗn hợp trong khẩu phần cho dê sinh trởng. Báo cáo khoa học chăn nuôi - thú y, Hà
Nội 8 - 9/12/2004. NXB Nông nghiệp. 96 - 106.
Trơng Tấn Khanh (2003). Đánh giá hiện trạng đồng cỏ tự nhiên và nghiên cứu một số biện
pháp kỹ thuật nhằm cải thiện nguồn thức ăn xanh cho gia súc tại MDrak Daklak, luận án
tiến sỹ nông nghiệp.
Nguyễn Ngọc Hà, Đặng Thị Tuân, Bùi Văn Chính, Bùi Thị Oanh, Phan Thị Phần, Vũ Thị Thái
(1992). Xác định năng suất của một số giống keo dậu và sử dụng lá keo dậu làm thức ăn bổ
sung cho gia súc, gia cầm. Kết quả NCKH KT, Viện Chăn nuôi 1985 - 1990. NXB Nông
nghiệp. 132 - 137.
Nguyễn Thị Liên (2000). Nghiên cứu khả năng sinh trởng, tái sinh, sản lợng, giá trị dinh
dỡng của cây Leucaena leucocephala, Desmodium rensoni, Flemingia congesta và sử
dụng chúng làm thức ăn nuôi dê thịt tại Thái Nguyên. Luận án tiến sỹ nông nghiệp.
Bùi Quang Tuấn (2004). Năng suất và giá trị dinh dỡng của một số cây thức ăn gia súc trồng tại
Gia Lâm - Hà Nội và Đan Phợng - Hà Tây. Tạp chí Chăn nuôi số 10. 14 - 18.
Wong C.C (1991). "A review of forage screening and evaluation in Malaysia". In Grassland and
forage production in Southeast Asia Proc., No 1, pp: 61 - 68.













































×