Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

báo cáo cuối kỳ môn lịch sử văn minh thế giới thành tựu về khoa học và kỹ thuật của ả rập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG

<b>KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN</b>

<b>BÁO CÁO CUỐI KỲ MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI</b>

<b>THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT CỦA Ả RẬP GVHD : </b>

<b> SVTH : MSSV : LỚP :</b>

<i><b> </b></i>

<b>TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1/2022</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Mục lục</b>

<b>MỞ ĐẦU...3</b>

<b>NỘI DUNG...4</b>

1. Giới thiệu nền văn minh...4

2. Lịch sử hình thành Nhà nước Ả Rập – Đế quốc Ả Rập bành trướng và tan rã...4

3. Thành tựu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập...5

3.1. Thành tựu khoa học tự nhiên...5

3.2.2. Máy nâng nước...10

4. Lí do tạo nên thành tựu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập...10

<b>KẾT LUẬN...12</b>

<b>Tài liệu tham khảo...13</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Kể từ khi con người lần đầu tiên xuất hiện và vươn lên đứng đầu chuỗi thức ăn nhờ vàokiến thức và sự sáng tạo của mình, đã tạo tiền đề cho sự phát triển từ một kỷ nguyên hoang dãđã phát triển thành kỷ nguyên khoa học và công nghệ như ngày nay. Không thể phủ nhậnnhững đóng góp của các nền văn minh cổ đại chính là tiền đề để khoa học kỹ thuật phát triển.Con người đã sử dụng kiến thức của mình để giải thích các hiện tượng tự nhiên và tạo ranhững cỗ máy có thể giúp ích cho con người. Các nhà khoa học Ả Rập đã đạt được nhữngtiến bộ đáng kinh ngạc giúp mở rộng hiểu biết của nhân loại về thế giới tự nhiên. Nghiên cứukhoa học của Ả Rập phát triển mạnh mẽ và tạo ra những khám phá quan trọng trên thế giớitrong các lĩnh vực tốn học, vật lý, thiên văn học, hóa học, y học, sinh học và quang học. Cácthành tựu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập là một chủ đề rất rộng, và khơng dễ dàng để cóthể liệt kê hoàn chỉnh tất cả thành tựu trong chỉ trong một bài báo cáo này. Tuy vậy, bài báocáo này sẽ nói về một số thành tựu tiêu biểu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập đã để lại chonhân loại, qua đó có thể hiểu được quá trình và phương pháp các nhà khoa học Ả Rập đạtđược những thành tựu có giá trị cho đến hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>NỘI DUNG</b>

Một nghìn năm trước, thế giới Hồi giáo náo nhiệt với những ý tưởng liên quan đến khoahọc, văn hóa và kinh tế. Baghdad - q hương của "Ngơi nhà của Trí tuệ", nơi các học giả đãdịch các văn bản cổ điển nước ngoài sang tiếng Ả Rập, và mệnh danh là bộ sưu tập kiến thứcvĩ đại nhất trên thế giới. Đại số, thiên văn học, y học và hóa học đều phát triển mạnh mẽ trongmột thời đại đôi khi được phương Tây lãng mạn hóa như một “thời kỳ vàng son”.

<b>1. Giới thiệu nền văn minh</b>

Ả Rập là một đế quốc hùng mạnh và rộng lớn chiếm phần lớn diện tích bán đảo Ả Rập (lớnhơn diện tích ¼ châu Âu), thuộc khu vực Tây Á. Ả Rập là bán đảo lớn nhất trong khu vực, cónhiều đường thương mại quốc tế đi ngang qua bởi vì là nơi tiếp giáp với ba châu lục lớn Á –Phi – Âu.

Ban đảo Ả Rập diện tích tuy lớn nhưng đa số đều là sa mạc khô cằn, thiếu nước, thời tiếtkhắc nghiệt, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm rất lớn, dê và lạc đà là hai súc vật được cư dân ởđây chăn nuôi chủ yếu. Ốc đảo thường là nơi con người sinh sống, buôn bán, tranh chấp vàgiành giật nguồn nước quý hiếm. Tuy vậy, cả bán đảo có hai vùng là vùng Yêmen ở phía TâyNam, và vùng Hejaz nằm dọc theo Hồng Hải ở phía Tây bán đảo là những vùng tương đốiphát triển. Nhờ vị trí nằm trên con đường buốn bán giữa Tây Á và Bắc Phi nên vùng Yêmencó cơ hội phát triển về thương nghiệp. Cịn vùng Hejaz cũng có vị trí khá thuận lợi, nơi đây làcầu nối việc buôn bán giữa phương Đông với khu vực Địa Trung Hải, tạo điều kiện để pháttriển kinh tế hàng hóa. Chính vì nhờ điểm này, Ả Rập là nơi đã sớm xuất hiện các thành phố,văn hóa bán đảo, đáng kể nhất là Mécca và Yatơrip.

<b>2. Lịch sử hình thành Nhà nước Ả Rập – Đế quốc Ả Rập bành trướng và tan rã</b>

Vào thế kỉ VII, nhà nước Ả Rập được thành lập. Trong quá trình thành lập nhà nước ẢRập, đạo Hồi ra đời và đóng một vai trị quan trọng trong thống nhất bán đảo Ả Rập. Chính vìvậy, quá trình hình thành nhà nước Ả Rập gắn liền với sự nghiệp hình thành và truyền bá đạoHồi của Muhammad

Muhammad xuất thân từ bộ lạc có thế lực tại Mecca. Vào giai đoạn 610-632 là khoảng thờigian ông truyền bá đại Hồi trong phạm vi bán đảo và đây cũng là thời kì hình thành nhà nướcẢ Rập. Sau khi Muhammad mất, người thừa kế địa vị của ông được gọi là Calipha (ngườithừa kế tiên tri), sẽ trở thành người đứng đầu nhà nước và tôn giáo ở Ả Rập. Calipha đều lànhững người có quan hệ thân thuộc với Muhammad, sẽ do người trong giới quý tộc bầu chọnra. Trong khoảng thời gian từ năm 632-661, có bốn Calipha được bầu chọn lần lượt làAbukéc, Ơma, Ơtman, Ali, đây cịn được gọi là thời kì bốn Calipha thay nhau cầm quyền.Giai đoạn này chủ yếu là quá trình xâm lược mở rộng lãnh thổ từ Ai Cập đến Ba Tư, chiếmphần lớn đất đai của Bidantium và các khu vực khác như Lưỡng Hà, Iran,… Đến năm 661,Ali bị giết chết, viên tổng đốc ở Xiri thuộc họ Ômayát lên cầm quyền và thành lập vươngtriều đầu tiên – Ômayát, chuyển kinh đô về Đamát ở Xiri. Từ khoảng thời gian năm 661-750,đây là thời kì lãnh thổ Ả Rập được mở rộng nhất và trở thành một đế quốc rộng lớn. Năm750, triều Ômayát bị lật đổ, triều Abát được thành lập bởi Calipha là một địa chủ ở Irắc. Đếnnăm 752, kinh đô được dời đến Bátđa. Đến thế kỉ X, thế lực dần suy yếu, lãnh thổ của Ả Rập

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

càng thu hẹp. Năm 1258, Mông Cổ xâm lược, kinh đô Bátđa bị chiếm, triều Abát sụp đổ dẫnđến đế quốc Ả Rập diệt vong.

<b>3. Thành tựu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập </b>

Ả Rập tuy là nước thành lập khá muộn, nhưng dựa vào các thành tựu của các nền văn minhđi trước như Trung Quốc, Ấn Độ nên khoa học của Ả Rập đã phát triển nhanh chóng. Nhữngthành tựu về khoa học, kỹ thuật,… của Ả Rập đã ảnh hưởng lớn đến thời kỳ Phục hưng ChâuÂu vào thế kỉ XV và XVI. Các phương pháp khoa học được phát minh bởi người Ả Rập đãđược các nhà khoa học phương Tây ứng dụng và phát triển trong nền khoa học hiện nay.

<i><b>3.1. Thành tựu khoa học tự nhiên</b></i>

3.1.1. Tốn học

Trong thời kì hồng kim của Hồi giáo, đặc biệt là ở thế kỉ IX và X, toán học Ả Rập được xây dựng dựa trên toán học Hy Lạp (Euclid, Archimedes, Apollonius) và toán học Ấn Độ (Aryabhata, Brahmagupta),… Có lẽ một trong những tiến bộ quan trọng nhất của toán học Ả Rập đã bắt đầu vào thời điểm những nghiên cứu của al-Khwarizmi, cụ thể là sự khởi đầu của đại số.Muhammad ibn Musa al-Khwarizmi (780–850) thường được gọi là al-Khwarizmi, là một trong những nhà toán học vĩ đại của mọi thời đại, cha đẻ của mơn đại số. Ơng là nhà Tốn học Hồi giáo đáng chú ý nhất trong thời kỳ vàng của Hồi giáo. Cơ sở của Đại số được tìm ra bởi Al Khwarizmi, người đã phát hiện ra nó vào đầu thế kỉ thứ IX. Từ "đại số" bắt nguồn từ "Al-Jabr", được lấy từ tên cuốn sách Hisab Al-Jabr wal Muqabala của ông. Trong cuốn sách mà al-Khwarizmi đã viết, ơng đã trình bày các quy trình để giải sáu loại phương trình: bình phương căn bằng nhau, bình phương số bằng nhau, căn số bằng nhau, bình phương và căn số bằng nhau, bình phương và số căn bằng nhau, căn và số bằng nhau. Trong đó, al-Khwarizmi đã ứng dụng con số 0 (Ả Rập: Sifr) của Ấn Độ vào các phương trình đại số,sau đó số 0 đã trở thành một thành phần của hệ thống chữ số Ả Rập. Ngồi ra, al-Khwarizmi cịn được biết đến là người đã giới thiệu thế giới phương Tây về hệ thống số thập phân, đây làhệ thống số được sửdụng rộng rãi nhất hiện nay.

Nhà thơ, nhà triết học và nhà thiên văn học nổi tiếng Omar Khayyam (1048–1122) đồng thời là một nhà toán học vĩ đại. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông về đại số là Luận án về Sự biểu diễn các vấn đề Đại số. Trong cuốn sách của mình, bên cạnh việc đưa ra cả lời giải số học và hình học cho các phương trình bậc hai, và phân loại đầy đủ các phương trình bậc ba với các nghiệm hình học được tìm thấy bằng các phần hình nón giao nhau. Ơng cịn mơ tả cáclời giải hình học cho các phương trình bậc ba bằng phương pháp cắt các đoạn conic. Một thành tựu khác trong toán học đại số là Khayyam nhận ra rằng một phương trình bậc ba có thể có nhiều hơn một nghiệm. Ơng đã chứng minh sự tồn tại của các phương trình có hai nghiệm, nhưng tiếc là dường như ơng khơng tìm ra rằng một phương trình lập phương có thể có ba nghiệm.

Al-Battani hay Albetagnius (850–929) là một nhà thiên văn học và tốn học. Ơng đã có nhiều đóng góp về Lượng giác học như đưa ra các tỉ số lượng giác, khái niệm sin, cosin, tang,ngồi ra ơng còn là người đầu tiên đặt ra khái niệm hàm cotang.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

3.1.2. Thiên văn

Sau quá trình hình thành và mở rộng lãnh thổ của người Ả Rập từ giữa thế kỉ VII đã đưa người Hồi giáo tiếp xúc với người Ba Tư và Byzantine, những người có truyền thống lâu đời trong lĩnh vực thiên văn học. Họ còn dựa trên các nguồn cổ từ Hy Lạp, Iran và Ấn Độ để nghiên cứu các phương pháp đo và tính tốn chuyển động của các thiên thể, đồng thời tiếp tụcphát triển các mơ hình vũ trụ và chuyển động của các hành tinh bên trong nó.

Trong thời trị vì của al-Ma'mun (786-833), viện hàn lâm khoa học và đài quan trắc thiên văn đã được người ta xây dựng nên với mục đích để nghiên cứu các hiện tượng liên quan đến thiên văn học. Nhờ vậy, các thông số mới về chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh đã được tính tốn, độ lệch của hồng đạo được đo, và các quan sát đã được thực hiện để xác định vị trí của các ngơi sao. Các nhà thiên văn cũng thực hiện các phép đo trắc địa để xác định kích thước của Trái Đất bằng cách đo kinh độ (để tạo ra bản đồ mới của thế giới), và các tọa độ địa phương cố định, trong khi đồng thời quan sát nguyệt thực ở Baghdad và Mecca để xác định qibla (phương hướng) ở Baghdad.

Trước khi con người bước lên Mặt Trăng và nhìn về Trái Đất, khi nhiều người vẫn nghĩ rằng Trái Đất phẳng, các học giả Hồi giáo đã biết rằng Trái Đất hình cầu. Nhà tốn học Ba Tưvào thế kỉ XI - Abu Rayhan al-Biruni đã sử dụng các kết quả lượng giác đơn giản để ước tính bán kính và chu vi của Trái Đất. Ơng ước tính bán kính của Trái Đất là khoảng 6.339 km, tức là chu vi Trái Đất vào khoảng 39.830 km, chính xác hơn so với tính tốn của Eratosthenes là khoảng 39.690 km. Ước tính của học giả Hồi giáo chỉ khác một vài km so với bán kính hiện tại của Trái Đất và được các nhà khoa học hiện đại ngày nay biết đến. Al-Biruni tiếp tục tiếp thu và phát triển lên một tầm cao mới. Ông khẳng định Mặt trời và các vì sao có bản chất rực lửa giống nhau, ngược lại với các hành tinh và các thiên thể tối. Ơng cho rằng Mặt trời khơng quay quanh Trái Đất mà chính Trái Đất quay quanh Mặt Trời, giống với những hành tinh khác. Ngoài ra, trong cơng trình thiên văn học Mas'ud Canon của mình, al-Biruni đã quan sát thấy rằng apogee của mặt trời (điểm cao nhất trên bầu trời) khơng cố định, có thể di chuyển, khác hẳn với lập luận Ptolemy từng đưa ra.

Đến đầu thế kỉ XI, sau khi nỗ lực thực hiện các quan sát chính xác, cùng với sự phát triển của các phương pháp mới trong thiên văn toán học đã trở thành một đặc điểm đặc trưng của thiên văn học Hồi giáo: Các nhà thiên văn học liên quan bao gồm Abd al-Rahman al-Sufi (903- 86), Abu al-Wafa' Buzjani (940-998), Ibn Yunus (950-1009), và Abu Rayhan al-Biruni (973-1048). Người Ba Tư al-Sufi, trong Cuốn sách về những ngơi sao cố định của mình(964) - đây là cuộc khảo sát hoàn chỉnh đầu tiên về bầu trời đêm kể từ thời Ptolemy đã cung cấp danh mục sao chính xác với các hiệu chỉnh đối với dữ liệu vị trí và độ lớn trong danh sách saocủa Ptolemy. Cuối thế kỉ XI, một thiên cầu bằng đồng thau xuất hiện do các nhà khoa học Ả Rập làm ra có đường kính 209mm, trên đó có 47 chịm sao gồm 1015 ngơi sao.

3.1.3. Vật lí

Một trong những nhà triết học đầu tiên, al-Kindi, đã viết về trọng lượng riêng, thủy triều, phản xạ ánh sáng và quang học. Al-Haytham (được biết đến ở châu Âu với cái tên Alhazen) đã viết một cuốn sách vào thế kỉ X, tác phẩm Sách quang học của ông được mệnh danh là tác phẩm có tính chất khoa học nhất nhất ở thời đó. Ibn al-Haytham nói rằng ánh sáng đến từ một

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nguồn bên ngoài và phát ra (phản xạ hoặc khúc xạ) từ đối tượng đập vào mắt người gây ra nhận thức. Ông chia ánh sáng thành hai loại: Ánh sáng sơ cấp bắt nguồn từ các vật thể tự phátsáng như ngọn lửa, ngọn nến, ngôi sao hoặc mặt trời; và ánh sáng thứ cấp phát sinh từ các vậtphát ra ánh sáng mà chúng thu được từ các vật tự phát sáng.

Ibn al-Haytham đã khám phá bản chất của ánh sáng thông qua việc chế tạo một thiết bị được gọi là camera obscura - hay còn được gọi là camera lỗ kim - hoặc Albeit

Almuzlim. Thiết bị là một căn phịng tối tăm có một lỗ nhỏ để truyền ánh sáng, hình ảnh đượcchiếu ngược lại trên bức tường đối diện. Thiết bị này giống với phát minh máy ảnh và nó là cơ sở của nhiếp ảnh.

Hơn nữa, Ibn al-Haytham đã nghiên cứu lý thuyết ánh sáng và màu sắc, cũng như cách ánhsáng đi qua bên dưới vật liệu màu; các vật trong suốt có thể truyền ánh sáng qua chúng, chẳng hạn như khơng khí và nước, nhưng các vật không trong suốt không thể truyền ánh sángqua chúng. Ơng cũng giải thích rằng các vật thể có độ trong và mờ khác nhau dẫn đến mức độtruyền ánh sáng khác nhau. Ngồi ra, ơng cịn đề cập đến các lý thuyết về đặc tính của ánh sáng như khúc xạ khi nó đi qua mơi trường trong suốt một phần hoặc ngược lại, và phản xạ khi nó chạm vào các bề mặt nhẵn như gương.

Hầu hết các tác phẩm của Ibn al-Haytham, bao gồm cả Sách Quang học của ông, đã được dịch sang tiếng Latinh. Chúng đã có tác động lớn đến sự phát triển của châu Âu, từ kiến thức của ông, các nhà vật lí học châu Âu đã phát minh ra kính hiển vi và kính viễn vọng.

3.1.4. Y học

Y học Ả Rập (Hồi giáo) sơ khai được xây dựng dựa trên những di sản của các thầy thuốc Hy Lạp và La Mã để lại, và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Galen và Hippocrates. Hầu hết các tài liệu y học từ cả Hy Lạp và La Mã đều được dịch sang tiếng Ả Rập, và sau đó được điều chỉnh để bao gồm các phát hiện và kết luận của riêng họ.

Ả Rập là nơi phần lớn lãnh thổ là sa mạc đầy cát gió, tỉ lệ người bị bệnh đau mắt cao nên bệnh này rất được các thầy thuốc chú trọng. Muhammad ibn Zakariya al-Razi (865 - 925) là một bác sĩ, nhà hóa học, nhà giả kim, nhà triết học và là một học giả. Ông là một bác sĩ nhãn khoa xuất sắc, đi đầu trong việc chẩn đoán và điều trị các bệnh về mắt. Ơng cịn là bác sĩ đầu tiên viết về miễn dịch học và dị ứng, ông phát hiện ra bệnh hen suyễn dị ứng và là người đầu tiên giải thích rằng sốt là một phần trong cơ chế bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng. Hơn nữa, ơng cịn là người đầu tiên phân biệt bệnh sởi với bệnh đậu mùa. Ông đã viết một cuốn sách có tên Các bệnh của trẻ em và có lẽ là bác sĩ đầu tiên định nghĩa nhi khoa là một lĩnh vực y học riêng biệt. Ông đã trở thành bác sĩ trưởng xuất sắc của bệnh viện Baghdad và Rey.

Abdallah ibn Sina (được gọi là Ibn Sina hoặc Avicenna, 980-1037), tác giải của cuốn Canon of medicine được viết vào thế kỉ thứ XII. Cuốn sách bao gồm năm phần: Các nguyên tắc y học tổng quát; thuốc Materia, một bản tóm tắt các loại thuốc đơn giản; chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ địa; chẩn đốn và điều trị các bệnh của tồn bộ cơ thể, chẳng hạn như sốt;và việc sử dụng thuốc tổng hợp, thuốc bơi ngồi da và các loại khác. Nó được coi là một trong những cuốn sách nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử y học, đồng thời thiết lập các tiêu chuẩn cho y học hiện đại ở cả thế giới Hồi giáo và châu Âu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Dưới sự bảo trợ của các vị vua Ả Rập, các bệnh viện như chúng ta biết ngày nay được thành lập lần đầu tiên vào thế kỉ VIII. Từ thời đại đó, họ tiếp tục cải tiến các nghệ thuật chữa bệnh của thế giới cổ đại. Họ đã bổ sung các bệnh viện thực sự với hệ thống quản lý và phường được hệ thống hóa, thiết lập những bệnh viện này ở những địa điểm lý tưởng trên khắp thế giới Hồi giáo. Được thêm vào các tổ chức này là các trường y tế, thư viện y tế, cửa hàng thuốc bào chế và hiệu thuốc.

3.1.5. Sinh vật học

Các học giả Hồi giáo, như một phần của nghiên cứu về sinh học, đã làm sống lại ý tưởng về thuyết tiến hóa do Anaximander đề xuất lần đầu tiên. Đóng góp quan trọng nhất cho sự tiến hóa Hồi giáo và tác giả chính của học thuật về động vật học, al-Jahiz (776- 868) đã viết một chuyên luận chi tiết Kitab alHayawan (Sách về Động vật), trở thành một trong những tácphẩm quan trọng nhất trong lịch sử sinh học. Cuốn sách này mô tả chi tiết hơn 350 lồi động vật, đan xen với những mơ tả bằng thơ và những câu tục ngữ nổi tiếng. Al-Jahiz là học giả đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của môi trường đối với động vật, và ông hiểu rằng mơi trường sẽ quyết định khả năng sống sót của nó. Ơng tun bố rằng mỗi lồi động vật phải đấutranh để tồn tại, cố gắng tìm kiếm thức ăn, chống lại kẻ thù và tồn tại đủ lâu để sinh sản. Do đó, những con mạnh mẽ nhất sẽ truyền lại những đặc điểm của mình cho thế hệ sau, đảm bảo rằng chúng sẽ có khả năng thích nghi và sống sót cao khi tồn tại ở một mơi trường mới.

Al-Jahiz cũng nêu ý tưởng của mình về chuỗi thức ăn, ơng chú ý rằng có một số loài động vật sẽ ăn cỏ, nhưng chúng lại bị những loài động vật săn mồi ăn thịt; đặc điểm này tiếp tục lên chuỗi. Học giả cũng hiểu rằng chuỗi không phải là một chiều và động vật có nhiều hơn một nguồn thức ăn. Khi mỗi con vật bị săn đuổi, nó cũng bị săn theo lần lượt, như một phần của vòng đời.

Điều quan trọng, al-Jahiz thậm chí cịn áp dụng lý thuyết của mình về các đặc điểm di truyền cho con người, lưu ý rằng con người cũng thích nghi với mơi trường của họ, chỉ ra rằng những người da sẫm màu thường sống ở vùng khí hậu nóng hơn và khơ hơn. Trong một ví dụ điển hình về cách các học giả Hồi giáo thu thập thông tin và cải thiện nó, ơng đọc tác phẩm của Aristotle và sau đó bổ sung các ý tưởng và lý thuyết của riêng mình.

3.1.6. Hóa học

Trong thời kỳ trung cổ, các nhà khoa ở Ả Rập đã có rất nhiều đóng góp cho lĩnh vực hóa học. Hệ thống nguyên tố được sử dụng trong thuật giả kim thời Trung cổ được phát triển bởi Jabir ibn Hayyan (Geber). Hệ thống ban đầu của ơng bao gồm bảy ngun tố, trong đó có năm ngun tố cổ điển (ate, khơng khí, đất, lửa và nước), ngồi ra cịn có hai ngun tố hóa học đại diện cho kim loại : Lưu huỳnh và thủy ngân. Ngay sau đó, nguyên tố này phát triển thành tám nguyên tố, với khái niệm tiếng Ả Rập về ba nguyên tắc kim loại: Lưu huỳnh tạo ra tính dễ cháy hoặc cháy, thủy ngân tạo ra tính dễ bay hơi và ổn định, và muối tạo ra độ rắn. Ông là người đầu tiên phát hiện ra một số nguyên tố hóa học như: Asen, antimon và bitmut. Khơng những thế, Geber cịn là người phát minh ra nồi cất được gọi là alembic (theo tiếng Pháp). Chính ơng đã điều chế ra các chất làm thuốc thử hóa học dùng để chưng cất và coi nó như một phần của alembic, về sau các chất đó được được các nhà khoa học Hồi giáo sử dụng rộng rãi .

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Trước đó, người Ả Rập chỉ biết đến loại axit duy nhất là giấm. Nhưng nhờ sử dụng thiết bị mới như alembic và các quy trình như chưng cất tinh khiết, các nhà hóa học Hồi giáo trở thành những người đầu tiên phát hiện và phân lập nhiều loại axit mới, chẳng hạn như axit nitric và axit sulfuric. Các axit khoáng quan trọng - axitnitric, sunfuric và hydrochloric đều do Geber sản xuất đầu tiên. Đây vẫn là một số sản phẩm phổ biến nhất trong ngành công nghiệp hóa chất trong hơn một nghìn năm sau. Ngồi ra, người Ả Rập đã biết cách điều chế axit bằng các loại giấm thực vật, như axit axetic cũng lần đầu tiên được cô đặc từ giấm thông qua quá trình chưng cất bởi Geber vào thế kỉ VIII. Ơng cũng được ghi nhận với việc phát hiệnra axit xitric (thành phần chua của chanh và các loại trái cây chưa chín khác) và axit tartaric (từ bã rượu).

Bên cạnh đó, các nhà hóa học của Ả Rập là những người đầu tiên sản xuất rượu chưng cất hoàn toàn tinh khiết từ thế kỉ VIII và sản xuất chúng trên quy mơ lớn ít nhất là từ thế kỉ X, chúng thường được dùng để sử dụng trong y học và các ngành cơng nghiệp hóa chất và dược phẩm. mặc dù nó hiếm khi được sử dụng để uống Bởi vì Hồi giáo cấm uống rượu, nên nó hiếm khi được dùng để uống, tuy nhiên, những người khơng theo đạo Hồi vẫn có thể uống rượu.

Đến thế kỉ XI, Avicenna đã phát minh ra cuộn dây làm lạnh, có tác dụng ngưng tụ hơi thơm. Đây là một bước đột phá trong công nghệ chưng cất, trước đây ơng vốn cần phải có ống làm lạnh, nhưng bây giờ ông đã tận dụng phát minh của mình trong quy trình chưng cất bằng hơi nước của mình để sản xuất tinh dầu .

<i><b>3.2. Thành tựu về kỹ thuật</b></i>

3.2.1. Hệ thống thủy lợi

Trong số nhiều thành tựu khoa học và kỹ thuật của Ả Rập cổ đại, các con đập và hệ thốngthủy lợi nổi bật như một minh chứng đáng chú ý cho các kỹ năng tiên tiến trong kỹ thuật thủyvăn. Cư dân cổ đại của Ả Rập đã phát triển các phương tiện tinh vi để bắt và chuyển hướngnước, không chỉ liên quan đến kiến thức chi tiết về các dòng nước mà còn đòi hỏi sự phối hợpcủa lực lượng lao động đáng kể để xây dựng, vận hành và bảo trì. Mặc dù hệ thống thủy lợi ẢRập đôi khi bị lu mờ bởi các hệ thống thủy lợi Ai Cập, Lưỡng Hà và Nam Á đã sớm nổitiếng, nhưng dấu tích của các hệ thống kiểm sốt nước tiên tiến cũng đã được tìm thấy trênkhắp Ả Rập.

Bắt đầu dùng kỹ thuật xây dựng cho các cơng trình thủy lợi và dùng các kỹ thuật phân phốinước, đây là chính những thành tựu nổi bật của Nhà nước Ả Rập. Khi al-Basra được thànhlập trong thời kỳ của Umar, ông bắt đầu đồng thời xây dựng một số kênh đào để dẫn nước vàtưới tiêu. Hai kênh đào quan trọng được xây dựng nối al-Basra với sơng Tigris. Đó là sơng al-Ubulla và sơng Ma’qil. Basra có được nguồn nước uống cần thiết, và hai con kênh là cơ sở đểphát triển nông nghiệp cho cả vùng Basra.

3.2.2. Máy nâng nước

Các Noria cũng là một máy rất quan trọng trong lịch sử của kỹ thuật Ả Rập. Nó bao gồmmột bánh xe lớn làm bằng gỗ và có mái chèo. Bánh xe được gắn trên một trục trên dòng chảy,được đặt ở vị trí sao cho các cánh và các khoang ở phần thấp nhất nằm ở trong nước. Lực của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

dòng điện tác dụng lên các cánh khuấy làm cho bánh xe quay, các ngăn chứa đầy nước và xảchất chứa bên trong khi chúng lên đến đỉnh của bánh xe. Nước thường thu thập trong bể chứađầu nguồn và sau đó được dẫn qua kênh cấp nước đến hệ thống tưới tiêu hoặc cấp nước đôthị. Noria tự hoạt động nhờ sự vận hành của dịng nước, ngồi ra nó cũng cần sự giúp đỡ củacả con người và động vật cho hoạt động của nó.

Năm chiếc máy nâng nước được mơ tả trong cuốn sách Kiến thức về những thiết bị khéoléo của al-Jazari, được viết tại Diyar Bakr (Thổ Nhĩ Kì) vào năm 1206. Một trong số đó làsaqiya chạy bằng nước, một loại máy móc được sử dụng hàng ngày trong Hồi giáo thời trungcổ. Ba trong số những cái khác là những sửa đổi đối với shaduf,rõ ràng là nhằm mục đíchnâng cao sản lượng của máy truyền thống. Đây là những ý tưởng quan trọng đối với những ýtưởng mà chúng thể hiện, những ý tưởng có tầm quan trọng trong sự phát triển của kỹ thuậtcơ khí. Máy thứ năm là đáng kể nhất, đây là một máy bơm xi lanh đơi dẫn động bằng nước.Các tính năng quan trọng thể hiện trong máy bơm này là nguyên tắc tác động kép, chuyển đổichuyển động quay thành chuyển động qua lại và sử dụng các đường ống hút thực sự. Các máybơm điều khiển bằng tay của thời cổ điển và thời Hy Lạp hóa có các xi lanh thẳng đứng đứngtrực tiếp trong nước đi vào chúng thông qua các van tấm ở đáy của các xi lanh trên các hànhtrình hút. Do đó, máy bơm khơng thể được đặt ở trên mực nước. Nhưng máy bơm xi lanh củaẢ Rập hoạt động một cách hoàn hảo, với khả năng truyền động trơn tru và xả dòng nước ổnđịnh từ đường ống phân phối. Năm 1976, một mơ hình với quy mơ bằng một phần tư củachiếc máy bơm đã được mô phỏng lại trong lễ hội Thế giới của Hồi giáo tại Bảo tàng Khoahọc, London. Cấu trúc giống như cấu trúc của chiếc máy được al-Jazari mô tả, ngoại trừ việcổ đĩa là điện.

<b>4. Lí do tạo nên thành tựu về khoa học và kỹ thuật của Ả Rập</b>

Khái niệm này được thể hiện trong phần đầu tiên của Shahadah, bằng chứng của đức tin:"Khơng có thần thánh nào ngồi Đức Chúa Trời." Mọi thứ trong nền văn minh Hồi giáo, baogồm cả các ngành khoa học đều nảy sinh từ tuyên bố cơ bản này, nó là một biểu hiện của sựsiêu việt của sự thống nhất thần thánh. Ý thức về Đấng duy nhất của Thượng đế được đặt ởtrung tâm của thế giới quan Hồi giáo để hoạt động như một lực lượng chỉ đạo thu hút tất cảcác cấp độ của thực tại hiển hiện trong bình diện vũ trụ. Tun bố rằng khơng có thượng đếnhưng Thượng đế phải chứng thực rằng có một nguyên tắc thống nhất thiết yếu đằng sau sựđa dạng rõ ràng của vũ trụ, trong Hồi giáo, không chỉ giới hạn trong thực tại có thể quan sátvà nhận thức được mà cịn vượt ra ngồi lãnh thổ của Đấng khơng thể nhìn thấy.

Trong hơn 1400 năm, người Hồi giáo, cũng như một số người không theo đạo Hồi, đã lấycảm hứng từ Kinh Qur'an, mà họ coi là Lời Chúa thực sự, được tiết lộ cho Nhà tiên triMohammed bởi thiên thần Gabriel. Đối với người Hồi giáo, Kinh Qur'an không chỉ thiết lậpnhững điều được phép và điều gì khơng được phép, mà còn xác định phạm vi hoạt động củacon người - từ khi thụ thai đến khi chết, và vượt ra ngoài cái chết thể xác đến hồi sinh và cuộcsống sau khi chết.

Sự xuất hiện của các ngành khoa học trong nền văn minh Hồi giáo cũng được nhìn nhậntheo quan điểm tơn giáo tương tự vì Tự nhiên nói chung được coi là tác phẩm của Chúa - nhưmột trong những Dấu hiệu của Ngài và kiến thức về tự nhiên được tìm kiếm để biếtChúa. Tương tự như vậy, hệ thống hành tinh được coi là dấu hiệu của Chúa trong Hồi

</div>

×