Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

KẾT CỤC THỤ TINH ỐNG NGHIỆM CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP CÓ SỰ KHÔNG ĐỒNG BỘ GIỮA AMH VÀ AFC TRONG TIÊN LỢNG ĐÁP ỨNG KÉM 10 ĐIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.02 KB, 5 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>Đặt vấn đề: AMH và AFC tương quan thuận với nhau và với số nỗn chọc hút được. Ở một số trường </b></i>

<i>hợp, có sự bất tương đồng giữa AMH và AFC trong dự đốn đáp ứng buồng trứng kém, chúng tơi muốn đánh giá xem dấu ấn sinh học nào có giá trị hơn. </i>

<i><b>Mục tiêu: So sánh giá trị dự đoán đáp ứng kém của AMH và AFC ở nhóm bệnh nhân có sự bất tương đồng </b></i>

<i>giữa AMH và AFC. </i>

<i><b>Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại Bệnh viện Mỹ </b></i>

<i>Đức, Tp.HCM. Đối tượng nghiên cứu là nhóm có sự bất đồng giữa AMH và AFC khi dự đoán đáp ứng buồng trứng kém. Đáp ứng kém là khi có ≤ 3 nỗn, hoặc chọc hút khơng nỗn, hoặc khơng nang phát triển. </i>

<i><b>Kết quả: Từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2019, có 1219 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu. Giá trị </b></i>

<i>AMH tốt hơn AFC trong dự đoán đáp ứng kém ở mức độ không nang phát triển AUC= 0,76 so với AUC=0,53, p <0,001 và khơng nỗn AUC= 0,73 so với AUC= 0,50, p <0,001). </i>

<i><b>Kết luận: Ở bệnh nhân có sự bất đồng giữa AMH và AFC, AMH có giá trị tốt hơn AFC để dự đốn khơng </b></i>

<i>nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được. </i>

<i><b>Từ khố: đáp ứng kém, AMH, AFC </b></i>

<i><b>Background: Anti-Mullerian Hormone (AMH) correlates well with antral follicle count (AFC) and with </b></i>

<i>the number of oocytes retrieved. In some circumstances, there is a discordance between AMH and AFC in predicting poor response. We want to investigate which biomarker has better predictive value in predicting poor response. </i>

<i><b>Objectives: To compare the predictive value of AMH and AFC to predict poor response in patients having a </b></i>

<i>discordance between AMH and AFC in predicting poor response. </i>

<i><b>Method: A retrospective cohort study was conducted at IVFMD, My Duc Hospital, Ho Chi Minh City. </b></i>

<i>Eligible patients had a discordance between AMH and AFC in predicting poor ovarian response. Poor ovarian response was defined as ≤3 oocytes retrieved, or no oocyte retrieved or no developing follicle. </i>

<i><b>Results: From January 2016 to December 2019, a total of 1219 patients were recruited to the study. </b></i>

<i>AMH has a better predictive value as compared to AFC in predicting poor ovarian response, including no </i>

<small>1Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, Trung tâm nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh 2Trung tâm nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh </small>

<small>3Bộ mơn Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh </small>

<i><small>Tác giả liên lạc: BS. Lê Long Hồ ĐT: 0356177147 </small><b><small>Email: </small></b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>developing follicle (AUC = 0.76 versus AUC = 0.53, p <0.001) and no oocyte retrieved (AUC = 0.73 versus AUC = 0.50, p <0.001). </i>

<i><b>Conclusion: In patients having a discordance between AMH and AFC, AMH has a better predictive value </b></i>

<i>than AFC in predicting no developing follicle and no oocyte retrieved. </i>

<i><b>Keywords: poor ovarian response, AMH, AFC </b></i>

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ </b>

Trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm, có nhiều yếu tố được dùng để dự đoán đáp ứng buồng trứng như tuổi, FSH cơ bản, AFC và AMH<small>(</small>1<small>)</small>. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh AMH và AFC là 2 dấu ấn sinh học có giá trị dự đoán đáp ứng buồng trứng tốt nhất. AMH là mọ t ph n t gồ 2 chuỗi g coprotein, thuọ c nh ếu tố t ng tru ởng và biẹ t hóa TGF-β. Hoạt đọ ng c H đu ợc khởi đọ ng ng s u hi n ng noãn ngu n th đu ợc chiêu mọ v o nh phát triển v H c nhiều nhất ở các n ng tiền hốc v c hốc nh . vậ , H đại diện cho tổng số ượng noãn nguyên thuỷ c a phụ nữ ở một thời điểm. AFC là số nang thứ cấp được đế v o đầu chu kỳ kinh nguyệt khi các nang nguyên thuỷ phát triển đến gi i đoạn nang có hốc lớn từ 2–10 mm. AFC thu ờng đu ợc xem là mọ t dấu ấn sinh học trực tiếp c dự trữ buồng trứng, nhu ng thạ t r , F h ng b o gồ các n ng noãn ngu n th , so cấp và thứ cấp nh , mà F ch phản ánh số nang noãn thứ cấp c hả n ng đáp ứng với kích thích c FSH. Nghiên cứu c ương Thị Ngọc Lan (2014) cho thấy AMH và AFC có giá trị ti n ượng rất tốt và H ti n ượng tốt hơn F trong dự đoán đáp ứng buồng trứng<small>(</small>2<small>)</small>. Trong thực tế lâm sàng, H v F thường được dùng để định liều FSH s dụng b n đầu trong kích thích buồng trứng<small>(</small>1<small>)</small>.

H v F thường có mối tương qu n thuận với nhau và với đáp ứng buồng trứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có sự bất tương đồng giữa giá trị c H v F , nghĩ H b nh thường nhưng F thấp v ngược lại. Nghiên cứu c a Zhang Y (2019) trên 1121 bệnh nhân ghi nhận AFC dự đoán đáp ứng kém tốt hơn H hi c sự bất tương đồng giữa AMH và AFC, tức dự đốn chọc hút 3 nỗn<small>(</small>3<small>)</small>.

Nghiên cứu n được thực hiện nhằm trả lời câu h i: “Trong các trường hợp có sự bất đồng giữa AMH và AFC, dấu ấn sinh học nào chính xác hơn trong dự đoán đáp ứng buồng trứng kém ở các mức độ khác nhau: 3 nỗn, khơng nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được?”

<b>Mục tiêu </b>

So sánh độ chính xác c a AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng kém ở 3 mức độ: <3

<b>nỗn, khơng nang phát triển, khơng nỗn. </b>

<b>ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>

<b>Đối tượng nghiên cứu </b>

Bệnh nhân hiếm muộn điều trị thụ tinh trong ống nghiệm có bất đồng kết quả AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng buồng trứng kém. Nghiên cứu được thực hiện tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức, Tp. HCM từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2019.

<i><b>Tiêu chuẩn nhận </b></i>

Bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm. Kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist, khởi động trưởng thành noãn bằng hCG.

Có bất đồng giá trị AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng é , được chia làm 2 nhóm:

Nhóm 1 có AMH <1,25 ng/ v F ≥6 n ng, Nhóm (2) c H ≥1,25 ng/ v F <6 n ng.

<i><b>Tiêu chuẩn loại </b></i>

Xin noãn.

Khởi động trưởng thành noãn bằng GnRH agonist.

<b>Phương pháp nghiên cứu </b>

<i><b>Thiết kế nghiên cứu </b></i>

<b>Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. </b>

<i><b>Cách chọn mẫu </b></i>

Chọn mẫu toàn bộ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Toàn bộ các chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệm thoả tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu.

<i><b>Phương pháp tiến hành Định lượng AMH và đếm AFC </b></i>

Được thực hiện v o ng 2 chu ỳ inh. Xét nghiệ H được thực hiện bằng ỹ thuật H tự động ho n to n. Đế F được thực hiện bằng si u đầu dò đạo với tần số 7,5MHz.

<i>Kích thích buồng trứng </i>

Kích thích buồng trứng được thực hiện với phác đồ GnRH đối vận. FSH được s dụng từ ngày thứ 2 c a chu kỳ inh. GnRH đối vận được bắt đầu ti dưới da bụng từ ngày 5 c a FSH cho đến ngày khởi động trưởng thành noãn hay ngừng chu kỳ. Khởi động trưởng th nh noãn được thực hiện khi có ít nhất 2 n ng nỗn đạt 17 mm.

<i><b>Quản lý và phân tích số liệu </b></i>

Số liệu điều trị được thu thập bằng phần mềm quản lý bệnh viện. h n t ch số iẹ u đu ợc thực hiẹ n bằng phần ề R, phi n bản 3.3.3.

Giá trị p <0,05 đu ợc xe c nghĩ thống kê.

<i><b>Y đức </b></i>

Nghiên cứu n được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 08.1/2020/ Đ-HĐĐĐ,

<b>ngày 6/4/2020. </b>

<b>KẾT QUẢ </b>

Từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2019, có 1219 chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệ được nhận vào nghiên cứu. Trong đ , nh 1 c 719 chu ỳ và nhóm 2 có 500 chu kỳ. 11 bệnh nh n h chu ỳ do h ng c n ng noãn phát triển, chiế t ệ 0,9%. Số bệnh nh n chọc hút h ng noãn là 13, chiế tỷ ệ 1,1%.

Đạ c điể lâm s ng c bẹ nh nh n trong

<i>nghi n cứu đu ợc trình bày trong ảng 1. </i>

Kết quả kích thích buồng trứng được trình

<i>bày ở Bảng 2. </i>

So sánh giá trị c a AMH và AFC trong dự đoán đáp ứng buồng trứng é được trình bày

<i>trong Hình 1. </i>

<i><b> ảng Đạ</b>c điểm lâm sàng của ẹnh nhân trong nghi n cứu n 121 </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b><small>Đặc điểm Dân số chung Nhóm 1 Nhóm 2 Giá trị p </small></b>

Về đặc điểm bệnh nh n, tương tự như nghiên cứu c a Zhang Y, nghiên cứu c a chúng tôi ghi nhận nhóm bệnh nhân có AMH bình thường nhưng F thấp có tuổi lớn hơn nh ngược lại. Điều này có thể lý giải do hiện tượng chiêu mộ b n đầu từ gi i đoạn nang nguyên th đến nang thứ cấp nh khơng hiệu quả ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, dù số ượng nang noãn nguyên th y dự trữ vẫn cịn. Về đặc điểm kích thích buồng trứng, nhóm có AMH bình

thường nhưng F thấp dùng nhiều thuốc FSH hơn nh c H thấp v F b nh thường. Điều này có thể do tác động c a tuổi lớn trong việc đáp ứng buồng trứng cũng như bác sĩ s ng thường c hu nh hướng điều ch nh liều thuốc c o hơn cho bệnh nhân lớn tuổi hơn, dù cùng đáp ứng é như nh u.

Về đáp ứng buồng trứng, nghiên cứu này ghi nhận tỷ lệ đáp ứng é ≤3 noãn 16%, hơi c o hơn nghi n cứu c ương Thị Ngọc Lan và Võ Minh Tuấn (2014) là 13,8%<small>(2)</small> và thấp hơn nghiên cứu c a Zhang Y (2019) là 34,4%<small>(</small>3<small>)</small>. Tỷ lệ không nang phát triển c a nghiên cứu này là 0,9% so với Zhang Y (2019) là 3,4%<small>(</small>3<small>)</small>.

Kết quả nghiên cứu c a chúng tôi cho thấy để dự đốn 3 nỗn chọc hút được, AMH và AFC có giá trị ti n ượng kém giống nhau với diện t ch dưới đường cong lần ượt là 0,47 và

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

0,40. Khác với nghiên cứu này, nghiên cứu c a Zhang Y lại cho thấy AFC có giá trị ti n ượng tốt hơn H<small>(</small>3<small>)</small>. Sự khác biệt có thể do tiêu chuẩn dùng để định nghĩ ti n ượng đáp ứng ké hác nh u. Điể đặc biệt trong nghiên cứu c chúng t i c ph n t ch th ti n ượng đáp ứng kém trầm trọng ở mức độ không nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được. Điều này có giá trị ứng dụng lâm sàng tốt vì có thể tư vấn trước kích thích buồng trứng cho các bệnh nh n n để họ cân nhắc xin noãn hơn cố gắng kích thích buồng trứng, giúp giảm gánh nặng chi ph điều trị và gánh nặng tâm lý. Kết quả nghiên cứu này ghi nhận AMH có giá trị tiên ượng tốt hơn F đối với tình trạng khơng nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được. Kết quả n cũng tương tự như nghi n cứu c a ương Thị Ngọc Lan và Võ Minh Tuấn (2014), có thể do đối tượng nghiên cứu c a 2 nghiên cứu c đặc điể tương đồng<small>(4)</small>.

<b>Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu </b>

Điể ạnh c nghi n cứu n c ẫu ớn với tr n 1219 chu ỳ được phân tích. Ngồi ra, giá trị ứng dụng vào thực tế lâm sàng c a nghiên cứu tốt do có phân tích khả năng ti n ượng đáp ứng kém ở các tình trạng ≤3 nỗn và các tình trạng đáp ứng kém trầm trọng hơn như h ng nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được.

Với mục ti u so sánh độ chính xác c a AMH và AFC trong chẩn đoán các trường hợp đáp ứng kém ở các mức độ 3 nỗn, khơng nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được, thiết kế đo n hệ hồi cứu và chọn toàn bộ mẫu trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng 1219 chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệm th a tiêu chuẩn nhận bệnh được nhận vào nghiên cứu. Với diện t ch dưới đường cong trong dự đoán đáp ứng buồng trứng giữa AMH và AFC lần ượt : nh ≤3 noãn (0,47 so với 0,40), nhóm không nang phát triển (0,76 so với 0,53), nhóm khơng noãn chọc hút (0,73 so với 0,50), trong đ , sai lầm loại 1 là

0,05, như vậy lực c mẫu cho so sánh diện tích dưới đường cong giữa hai dấu ấn sinh học AMH và AFC lần ượt : nh ≤3 noãn 31%, nhóm khơng nang phát triển 70%, nhóm khơng nỗn chọc hút 89%. Do đ , ẫu c a nghiên cứu chư đ lực để so sánh độ chính xác c a AMH và F để chẩn đoán ức độ đáp ứng é ≤3 noãn trong tình huống có sự bất đồng giữa 2 xét nghiệm này.

<b>Hạn chế củ nghiên cứu </b>

Thiết ế hồi cứu nên khơng kiể sốt được yếu tố gây nhiễu chính n đáp ứng buồng trứng là liều thuốc kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, ở tất cả bệnh nhân, cả H v F đều được thực hiện, do đ , tác động c a yếu tố gây nhiễu này ch ảnh hưởng lên t lệ đáp ứng kém chứ không lên mục tiêu c a nghiên cứu là so sánh giá trị dự đoán c a AMH và AFC.

<b>KẾT LUẬN </b>

Ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm có sự bất đồng giữa AMH và AFC trong tiên ượng đáp ứng kém, AMH có giá trị tốt hơn F để dự đoán t nh trạng đáp ứng kém trầm trọng là không nang phát triển và khơng nỗn chọc hút được.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

<small>1. Nelson SM (2013). Biomarkers of ovarian response: current and </small>

<i><small>future applications. Fertility and sterility, 99(4):963-969. </small></i>

<i><small>trứng thụ tinh trong ống nghiệm. Nghiên cứu Y học, 87(2):15-20.</small></i>

<small>3. Zhang Y, Xu Y, Xue Q, Shang J, Yang X, Shan X, Kuai Y, Wang S, Zeng C (2019). Discordance between antral follicle counts and anti-Müllerian hormone levels in women undergoing in vitro </small>

<i><small>fertilization. Reproductive Biology and Endocrinology, 17(1):51. </small></i>

<small>4. ương Thị Ngọc Lan, Võ Minh Tuấn (2014). So sánh giá trị dự đoán c H, FSH v F đối với đáp ứng kém và huỷ chu kỳ do không nang phát triển ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm. </small>

<i><small>Phụ Sản, 12(1):28-33. </small></i>

<i><small>Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày ài áo được đăng: 10/03/2021 </small></i>

</div>

×