Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.33 MB, 98 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
— NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
<small>1.1. Khái niệm về phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác</small>
<small>2.1. Nhữnz an</small>
2.2. Những căn cứ để nhà làm Luật đánh giá tinh nguy hiểm cho
xã hội của hành vi--- 39
<small>2.3. Đánh giá sự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác</small>qua các quy định của BLHS và đề xuất hoàn thiện pháp luật--- 48
<small>3.1. Giải thích luật hình sự và ý nghĩa của nó đối với việc phân biệt tội</small>
phạm với các vi phạm pháp luật khdc--- 60
3.2. Những căn cứ để nhà giải thích đánh giá tính nguy hiểm cho xã
<small>héii cla anh vi--- +2202 2-22-92 a ằĂ 653.3. Eánh giá về su phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật</small>
khác trong hoạ t động giải thích luật hình sự và những đề xuất--- 70
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">HINH SU ---~-~---~-~~-~~~--~~~=~~===~==>==>z===r 794.1. Ý nghĩa của việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật
<small>khác trong hoạt động áp dụng luật hình sự --- 79</small>
4.2. Những căn cứ để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật
khác đối với người áp dụng luật --- 81
4.3. Đánh giá về việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luậtkhác trong hoạt động áp dụng luật hình sự hiện nay và những dé2617/0000 CAN gg‡Ệ†{v— 88
<small>Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác như vi phạm hành chính,</small>
dân sự, lao động, kinh tế...tuy đều là các vi phạm pháp luật song giữachúng có những điểm khác nhau, trong đó điểm khác biệt cơ bản vàquan trọng nhất là khác biệt về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.
<small>Chính trên cơ sở sự khác biệt này mà Nhà nước xác lập các loại tráchnhiệm pháp lý khác nhau cũng như áp dụng các biện pháp pháp lý khác</small>
nhau để đấu tranh với chúng. Vì vậy một vấn để đặc biệt quan trọng
được đặt ra là trên cơ sở sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm
<small>cho xã hội của hành vi, phải có sự phân biệt giữa hành vi bi coi là tộiphạm với hành vi vi phạm pháp luật khác.</small>
Sự khác biệt về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vilà tiêu chí chung thống nhất để phân biệt tội phạm với các vi phạmpháp luật khác nên bất kể một ngành luật nào khi xác định loại vi phạm
là đối tượng điều chỉnh của mình đều phải dựa trên tiêu chí chung đó.
Điều đó có nghĩa việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luậtkhác được thực hiện trong nhiều ngành luật khác nhau, là nhiệm vụ củacả hệ thống pháp luật, đối với cả pháp luật thực định, thực tiễn áp dụngluật và khoa học pháp lý. Tuy nhiên giới han của dé tài chỉ nghiên cứu
<small>sự phân biệt trong hoạt động ban hành, giải thích và áp dụng luật hìnhsự - tức là chỉ trong luật hình sự.</small>
<small>Luật hình sự Việt Nam xác định tội phạm là hành vi có tính nguy</small>hiểm cho xã hội ở mức độ cao, là “đáng kể”, còn các vi phạm pháp luậtkhác có tính nguy hiểm “khơng đáng kể” cho xã hội. Tuy nhiên ranh
giới phân biệt đó khơng phải đối với tội phạm nào cũng rõ ràng, cụ thể
và cố định mà khơng có sự thay đổi. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác là do các điều kiện chính trị - kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">tế - xã hội quyết định, thay đổi mỗi khi các điều kiện này có sự biến
đổi. Vì lẽ đó, việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác làmột vấn để phức tạp, đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên, trongcả quá trình từ ban hành luật đến áp dụng luật.
<small>Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác là một vấn dé</small>
đặc biệt quan trọng và rất phức tạp nên được nhiều người trong cả giớikhoa học và áp dụng luật quan tâm. Nghiên cứu vấn đề này luôn lnmang tính thời sự và cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nó cịnmang tính cấp thiết. Tính cấp thiết của dé tai này xuất phát bởi các lẽ
cụ thể hơn ranh giới giữa tội phạm với các vi phạm pháp luật khác, phaibổ sung một số tội phạm mới, đồng thời xóa bỏ một số tội phạm hiện
hành khơng cịn phù hợp với thực tiễn nữa. Những vấn đề đó đặt ranhiệm vụ cho các nhà làm luật phải tiến hành phân biệt tội phạm vớicác vi phạm pháp luật khác trên cơ sở tình hình mới với các điều kiện<small>mới.</small>
- BLHS được ban hành với một khái niệm chung về tội phạm lầnđầu tiên được quy định, với một hệ thống các tội phạm cụ thể tương đốiđầy đủ, hoàn chỉnh đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phân biệt tội phạm với
<small>các vi phạm pháp luật khác, giúp cho hoạt động truy cứu trách nhiệm</small>
hình sự được thống nhất và có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên cũng cịn cónhiều tội phạm được quy định còn khái quát, thiếu cụ thể nên ranh giới
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>phân biệt với các vi phạm pháp luật khác khơng rõ ràng, dứt khốt, gây</small>
khó khăn cho những người áp dụng luật, dẫn đến tình trạng hoạt động
diéu tra, truy tế, xét xử chưa thực sự đảm bảo ngun tắc pháp chếXHCN, cịn có nhiều sai sót. Trong khi đó hoạt động giải thích và hướng
<small>dẫn thi hành BLHS cũng chưa được chú trọng, mới chỉ giới hạn ở một số</small>
tội phạm nhất định. Vì vậy cần phải nghiên cứu, xem xét lại việc phân
<small>biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong BLHS, trong hoạt</small>
động giải thích và thực tiễn áp dụng luật hình sự để sự phân biệt trở nênrõ ràng, chính xác hơn, đảm bảo sự tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp
- Vấn dé phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trongthời gian qua được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đã có một số cơngtrình khoa học và bài viết của trên sách báo pháp lý về vấn dé nay. Tuy
<small>nhiên cũng chưa có một cơng trình nào có tính chun khảo nghiên cứu</small>
vấn dé một cách toàn diện, cụ thé ở đồng thời cả 3 hoạt động ban hành,giải thích và áp dụng luật hình sự trên cơ sở mối quan hệ chặt chẽ giữa3 hoạt động này. Xung quanh vấn đề phân biệt tội phạm với các vi
phạm pháp luật khác cũng cịn có nhiều quan điểm khác nhau, chẳng
hạn như về cơ sở của tội phạm hoá và phi tội phạm hoá, về các căn cứđể đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi... Sự không thống nhất
<small>trong lý luận làm cho người làm cơng tác xây dựng, giải thích và áp</small>
dụng luật gặp nhiều khó khăn khi tiến hành phân biệt tội phạm với các<small>vị phạm pháp luật khác.</small>
Với tất cả các lẽ trên, việc nghiên cứu đề tài “Phân biệt tội phạm
<small>với các vi phạm pháp luật khác ” là cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả</small>
về lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do để tác giả chọn để tài này làm<small>luận án cao học Luật.</small>
2. Mục đích - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>* Mục đích nghiên cứu</small>
Mục đích của dé tai này là nghiên cứu một cách tồn diện, có hệthống vấn đề phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác từ ban
hành đến thực tiễn áp dụng luật hình sự, chỉ ra các tổn tại, khiếm
khuyết của việc phân biệt qua các qui định của BLHS, trong hoạt động
giải thích và thực tiễn áp dụng luật hình sự, đưa ra các kiến nghị giảipháp để giải quyết các tổn tại khiếm khuyết do.
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sự phân biệt tội phạm với các vi phạm phápluật khác dựa trên cơ sở sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểmcho xã hội của chúng trên một bình điện rộng, bao gồm các vấn dé cụ
<small>thé :</small>
- Tiêu chuẩn và căn cứ để phân biệt tội phạm pháp luật khác trong
<small>3 hoạt động ban hành, giải thích và áp dụng luật hình sự.</small>
<small>- Tinh hình phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác qua</small>
các quy định của BLHS, qua các văn bản giải thích và hướng dẫn thihành BLHS, qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi
<small>phạm pháp luật hiện nay.</small>
<small>* Phạm vi nghiên cứu</small>
Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu của dé tài là vấn dé phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật
<small>khác trong hoạt động ban hành, giải thích và áp dụng luật hình sự ở Việt</small>
Nam kể từ năm 1985 khi BLHS được ban hành cho tới nay.
3. Phương pháp nghiền cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Dé tài được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
<small>về nhà nước và pháp luật; trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm của</small>
Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về vai trị của pháp luật hình sự
trong đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật.
Đề tài sử dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu... đểnghiên cứu. Việc kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cho phép nhậnthức vấn để được toàn diện, từ khái quát tới cụ thể, từ lý luận tới thực
tiễn trong mối quan hệ biện chứng thống nhất, đặc biệt là nghiên cứu
được vấn dé trong trang thái động dưới ảnh hưởng sự biến đổi của các
điều kiện chính trị - xã hội.
Đề tài được viết trên cơ sở sự nghiên cứu của cá nhân tác giả qua
<small>nghiên cứu các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua các văn</small>
bản pháp luật và giải thích luật, kết hợp với sự tham khảo tài liệu, sáchbáo pháp lý của nhiều tác giả trong nước.
<small>«A? 4,2 A 4</small>4. Diém mới của luận án
Nội dung của luận án có những điểm mới sau :
- Luận án đã xây dựng được lý luận về phân biệt tội phạm với các
<small>vi phạm pháp luật khác trong hoạt động ban hành, giải thích và áp dụngluật hình sự trên cơ sở mối quan hệ chặt chẽ giữa 3 hoạt động này, bao</small>
gồm nhiều vấn dé như khái niệm và ý nghĩa của sự phân biệt, những cơsở để tội phạm hoá và phi tội phạm hoá, những căn cứ để người ban
<small>hành, giải thích và áp dụng luật đánh giá mức độ của tính nguy hiểmcho xa hội của hành vi... Đặc biệt luận án nêu quan điểm mới về</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">những cơ sở để tiến hành tội phạm hố và phi tội phạm hố, góp phânhồn thiện ly luận về vấn dé này.
- Luận án đã nghiên cứu vấn dé dưới sự chi phối của những điều
kiện chính trị - kinh tế - xã hội có nhiều biến đổi hiện nay của đất nước,
trên cơ sở đó đã chỉ ra những khiếm khuyết của việc phân biệt tội phạm
<small>với các v1 phạm pháp luật khác trong cả hoạt động ban hành, giải thích và</small>
áp dụng luật hình sự. Luận án cũng đã nêu những ý kiến để xuất hoàn
thiện pháp luật, những giải pháp để giải quyết những khiếm khuyết trong
thực tiễn phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác, góp phần
quan trọng để việc phân biệt diễn ra thực sự khoa học, chính xác và đúng
5. Cơ cấu của luận án
Cơ cấu của luận án được quyết định bởi mục đích, đối tượng và phạm vinghiên cứu, bao gồm phần mở đầu, 4 chương và phần kết luận.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">1.1. Khái niém về phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp
<small>luật khác</small>
<small>Pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sự</small>
cưỡng chế của Nhà nước nên được đại đa số nhân dân tôn trọng và
nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà vẫn xay
ra nhiều vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho các lợi ích của Nhà nước,của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
<small>Vị phạm pháp luật là hành vi của con người trái với quy định của</small>
pháp luật, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và
bảo vệ. Chính vì có những đặc điểm như vậy nên tất cả các vi phạmpháp luật đều là các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nguy hiểm cho xãhội là thuộc tính của tất cả các vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật rất đa dang, tùy theo loại quy phạm pháp luật bị
<small>vị phạm mà có tên gọi khác nhau như vi phạm pháp luật hành chính, viphạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật kinh tế và vi phạm pháp luậthình sự - hay còn goi là tội phạm. Tội phạm và các vi phạm pháp luậtkhác có tên gọi khác nhau song bản chất của chúng đều là các hành vi</small>
nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chúng đều là các vi phạm pháp luật. Tuy
<small>nhiên giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác cũng có những điểm</small>
khác nhau, chẳng hạn sự khác nhau về chủ thể, về hậu quả pháp lý, về
hình thức pháp lý quy định chúng, về mức độ nguy hiểm cho xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Do có nhiều điểm khác biệt nên để phân biệt tội phạm với các viphạm pháp luật khác có thể dựa trên nhiều tiêu chí. Chẳng hạn nếu xétvề hình thức pháp lý quy định thì có thể phân biệt tội phạm là hành vi
<small>được quy định trong luật hình sự còn các vi phạm pháp luật khác đượcquy định trong các văn bản của các ngành luật khác; hoặc nếu xét vềhậu quả pháp lý thì tội phạm là hành vi bị xử lý bằng biện pháp cưỡngchế là hình phạt còn các vi phạm pháp luật khác bị xử lý bằng các biện</small>
pháp cưỡng chế khác không phải là hình phạt. Tuy nhiên sự phân biệt
<small>tội phạm với các vi phạm pháp luật khác theo các tiêu chí này khơng</small>
cho thấy sự khác nhau về tính chất giữa chúng và ít có ý nghĩa.
Sự phân biệt thể hiện một cách rõ ràng nhất sự khác nhau về tính chất
<small>giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác và có ý nghĩa hơn cả là sự</small>
phân biệt dựa trên sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội.Chính sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội quyết địnhđến sự khác biệt về hậu quả pháp lý, về hình thức pháp lý quy định và điều
<small>đó mới lý giải được tại sao Nhà nước lại buộc kẻ phạm tội phải chịu tráchnhiệm hình sự - là loại trách nhiệm pháp lý có tính nghiêm khắc hơn bất kỳ</small>
<small>loại trách nhiệm pháp lý nào khác mà người vi phạm hành chính, vi phạm</small>dân sự... phải gánh chịu. Sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội là sự khác nhau về nội dung chính trị - xã hội giữa tội phạm và các vi
<small>phạm khác.</small>
<small>Sở dĩ giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác có sự khác</small>
nhau về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội là do chúng xâm hại
đến các quan hệ xã hội khác nhau về tính chất hoặc tuy cùng xâm hại
<small>đến một quan hệ xã hội song thiệt hại gây ra, thủ đoạn thực hiện, tính</small>
chất lỗi... có thể có sự khác nhau. Dựa trên tất cả các yếu tố này, tộiphạm được coi là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao, làđáng kể, còn các vi phạm pháp luật khác có tính nguy hiểm hạn chế,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">không đáng kể. Nguy hiểm “dang kể” hay “khơng đáng kể” cho xã hộichính là ranh giới để phân biệt tội phạm với cac vi phạm pháp luật
Luật hình sự Việt Nam đã dựa trên cơ sở sự khác nhau về mức độ
của tính nguy hiểm cho xã hội để phân biệt tội phạm với các vi phạmpháp luật khác. Khoản 3 điều 8 của BLHS đã quy định “Những hành vituy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hộikhơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện
<small>phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác nêu trên mới được</small>
pháp luật hình sự nói riêng, trong thực tiễn đấu tranh phịng chống tội
<small>phạm va các vi phạm pháp luật chúng ta cũng đã dựa trên sự khác nhau</small>
về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội để phân biệt tội phạm với các
vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên với khoản 3 điều 8 của BLHS thì lần
đầu tiên ở góc độ pháp luật thực định ranh giới phân biệt tệi phạm các
<small>vi phạm pháp luật khác mới được chính thức ghi nhận.</small>
Như vậy nguy hiểm “đáng kể” hay “không đáng kể” là ranh giới
phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác song “đáng kể” hay“không đáng kể” là khái niệm trừu tượng, có tính chất khái qt. Vấndé quan trọng đặt ra là phải cụ thể hóa ranh giới này, để có thể dé dàng
<small>nhận biết hành vi như thế nào là tội phạm hoặc chỉ là các vi phạm pháp</small>
luật khác mà không phải là tội phạm. Đây là một vấn dé phức tap địi
hồi phải có sự cụ thé hóa ở nhiều mức độ khác nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">hoạt động lập pháp hình sự. Trên cơ sở ranh giới chung nhà làm luật quy
“đáng kể” cho xã hội, tùy theo từng tội phạm mà quy định đó là dấu hiệu
gì. như thế nào. Những dấu hiệu đã được nhà làm luật quy định được gọi là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, dựa vào các dấu hiệu đó có thể
<small>phân biệt với các vi phạm pháp luật khác.</small>
Trong BLHS có rất nhiều tội phạm được quy định. Bên cạnh nhữngtội phạm 6ó dấu hiệu cấu thành của nó được nhà làm luật quy định một
chỉ được quy định một cách khái quát, trừu tượng. Sở dĩ có những trường
hợp như vậy vì quy phạm pháp luật hình sự cũng như quy phạm pháp luậtnói chung có đặc điểm là có tính khái quát, chỉ ghi nhận và điều chỉnh
những hoàn cảnh và hành vi đặc trưng nhất trong đời sống thực tế, trong khithực tế lại rất đa dạng và sinh động. Vì vậy nếu như ở tội phạm nào dấuhiệu để phân biệt với các vi phạm pháp luật khác cũng được nha làm luậtquy định cụ thể, tỉ mỉ thì quy phạm pháp luật đó sẽ rất dài dịng và cũngkhông quy định được hết các hành vi đa dạng trên thực tế. Mặt khác tínhnguy hiểm cho xã hội là cho các điều kiện khách quan quyết định, mức độnguy hiểm “đáng kể” cho xã hội của hành vi thay đổi khi các diéu kiện
khách quan có sự biến đổi. Nếu các dấu hiệu thể hiện tính nguy hiểm
“đáng kể” được mô tả cụ thể, ti mỉ trong luật thi mỗi khi thực tế thay đổi lại
phải sửa đổi luật. Cho nên, đối với những tội phạm nhất định có dấu hiệu
thể hiện tính nguy hiểm “đáng kể” cho xã hội chỉ được nhà làm luật quyđịnh một cách khái quát, việc cụ thể hóa nó sẽ được thực hiện thơng qua
<small>một hoạt động khác - đó là hoạt động siải thích luật. Nhà giải thích luật sẽ</small>
dựa trên nhiều căn cứ khác nhau để cụ thể hóa các dấu hiệu cấu thành tội
phạm đã được nhà làm luật quy định. Như vậy, việc cụ thể hóa ranh giới
nguy hiểm “đáng kể” hay “không đáng kể” cho xã hội của hành vi để phân
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">-10-biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác được thực hiện ở mức độ thứ
hai, thông qua hoạt động giải thích luật.
<small>Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong hoạt</small>
động giải thích luật hình sự là sự cụ thể hoá các dấu hiệu cấu thành
tội phạm được luật quy định nhằm làm cho ranh giới phân biệt giữa
một tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trở nên rõ ràng cụ thể
hơn. Điều đó có nghĩa việc giải thích chỉ giới hạn trong phạm vinhững dấu hiệu luật định, không được vượt ra khỏi phạm vi những
dấu hiệu đó. Các văn bản giải thích chỉ có nhiệm vụ là làm rõ nội
<small>dung các quy phạm pháp luật hình sự.</small>
Những dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định một cách
khái quát và được cụ thể hố thơng qua hoạt động giải thích. Nhưngdo nhiều lý do mà không phải bất kể tội phạm nào được quy định
cũng đều được giải thích và cũng khơng phải bất kể tội phạm nàokhi được giải thích thì các dấu hiệu cấu thành cũng trở nên thật rõràng cụ thể. Vì vậy khi xem xét một hành vi cụ thể có phải là tội
<small>phạm hay khơng địi hỏi người áp dụng luật phải dựa trên cơ sở quyđịnh của luật, trên cơ sở các văn bản giải thích tự mình đánh giá</small>
hành vi đó có nguy hiểm “đáng kể” hay “khơng đáng kể”. Việcđánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể dựa trênquy định của luật và các văn bản giải thích để xác định hành vi đó là
<small>tội phạm hay khơng của người áp dụng luật chính là sự phân biệt tộiphạm với các vi phạm pháp luật khác trong hoạt động áp dụng luật.</small>
Như vậy trên cơ sở ranh giới chung được luật xác định để phân
biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác là tính nguy hiểm
“đáng kể” hay “không đáng kể” cho xã hội, việc phân biệt tội phạm
<small>với các vi phạm pháp luật khác được thực hiện ở 3 mức độ khác</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>-11-nhau, thông qua 3 hoạt động là ban hành, giải thích và áp dụng luậthình sự. Việc phân biệt tội phạm với các vị phạm pháp luật khác ở</small>
cả 3 mức độ như vậy là có tính khách quan, là một yêu cầu tất yếu. *
* Có quan điểm cho rằng hoạt động của nhà làm luật là quy định
<small>tội phạm vào trong văn bản luật hình sự và hoạt động của nhà giải thích</small>
là cụ thể hố các dấu hiệu đã được luật định nên trong ban hành và giải
<small>thích luật là sự phân định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm chứ khôngphải là phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác ; việc phânbiệt chỉ có trong hoạt động áp dụng luật khi người áp dụng luật trên cơsở quy định của luật (và các văn bản giải thích) phải xác định một hành</small>
vi cụ thể có phải là tội phạm hay khơng. Chúng tôi đồng ý với quan điểmnày. Tuy nhiên để có thé phân định một hành vi nào đó là tội phạm doi
hỏi nhà làm luật cũng phải thực hiện sự đánh giá để xác định hành vi đó
có tính nguy hiểm “đáng kể” cho xã hội hay không (nhà giải thích cũng
phải như vậy). Việc đánh giá một hành vi là nguy hiểm “đáng kể” hay
"không đáng kể” cho xã hội chính là cơ sở của việc phân định tội phạmvới các vi phạm pháp luật khác về mặt lý thuyết. Hiểu theo nghĩa này
trong phạm vi của luận án chúng tôi vẫn gọi việc phân định tội phạm với
<small>các vi phạm pháp luật khác của nhà làm luật (và của nhà giải thích) làsự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong hoạt độngban hành và giải thích luật hình sự.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Việc thừa nhận tính tất yếu của việc phân biệt tội phạm với các viphạm pháp luật khác ở 3 hoạt động nêu trên phải dựa trên nguyên tac :
tội phạm phải được luật quy định. Điều đó có nghĩa các dấu hiệu cấu
thành tội phạm phải được nhà làm luật quy định và trên cơ sở các dấu
hiệu đã được quy định này nhà giải thích và người áp dụng luật cụ thểhóa để xác định một hành vi như thế nào là tội phạm. Phân biệt tội
phạm với các vi phạm pháp luật khác trong 3 hoạt động ban hành, giải
thích và áp dụng luật hình sự là một quá trình dựa trên mối quan hệ giữa
<small>hoạt động ban hành luật, giải thích và áp dụng luật, trong đó hoạt độngban hành luật tạo giới hạn pháp lý cho các hoạt động kia. Cho nên một</small>
mặt chúng ta thừa nhận tính tất yếu khách quan phải phân biệt tội phạm
với các vi phạm pháp luật khác ở 3 mức độ qua 3 hoạt động khác nhau
sonz phải khẳng định : sự phân biệt trong hoạt động ban hành luật là
<small>đặc biệt quan trọng, tạo giới hạn pháp lý cho sự phân biệt trong hoạt</small>
động giải thích và áp dụng luật. Tội phạm phải được luật quy định và
quy định một cách rõ ràng, hạn chế thấp nhất quyền tùy nghi xác định
tội phạm của người áp dụng luật. Đó là một đảm bảo quan trọng để tuân
thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người. Phân biệt
<small>tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong hoạt động giải thích vàáp dụng luật hình sự tuy quan trọng song chỉ giới hạn trong phạm vi các</small>
dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà nhà làm luật đã xác định.
Để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là “đáng kể”hay “không đáng kể” và qua đó để xác định là tội phạm hay chỉ là các
<small>vi phạm phap luật khác, nhà làm luật, nhà giải thích và người áp dụng</small>
luật đều phải dựa trên cơ sở những căn cứ nhất định, chẳng hạn dựa vào
tính chất và mức độ thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội, mức độ của
lỗi, tính chất của thủ đoạn phạm tội, nhân thân người phạm tội... Trong
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">-13-số các căn cứ này khơng có một căn cứ nào được dùng cho tất cả các tội
phạm mà tùy theo từng loại tội phạm sẽ dựa trên sự kết hợp của một số
căn cứ để phân biệt với các vi phạm pháp luật khác. Trong hoạt động
<small>ban hành, giải thích và áp dụng luật thì việc dùng căn cứ nào, cách thức</small>
ra sao để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có sự khác
<small>nhau, do các sự khác nhau giữa 3 hoạt động này.</small>
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như của bất kể viphạm pháp luật nào là do các điều kiện chính trị - xã hội ở trong mỗimột giai đoạn lich sử quyết định, nó thay đổi mỗi khi các điều kiện
chính trị - xã hội có sự biến đổi. Vì vậy ranh giới để phân biệt với các vi
phạm pháp luật khác của nhiều tội phạm cũng không cố định và có sự
thay đổi tùy theo tình hình thực tế. Bên cạnh những hành vi mà khi xảy
<small>ra luôn luôn được xác định là tội phạm như hành vi giết người, cướp tài</small>
sản, hiếp dâm... thì có rất nhiều hành vi trong một hoàn cảnh và thời
<small>gian nay bị coi là tội phạm nhưng trong một hoàn cảnh và thời gian khác</small>
lại không phải là tội phạm và ngược lại. Sự thay đổi về tính nguy hiểm
<small>cho xã hội của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật đòi hỏi sựphân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác phải căn cứ vào tình</small>
hình thực tế, phải ln có sự điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với thực tế.
Xuất phát từ yêu cầu trên nhà lập pháp, nhà giải thích và người áp
dụng luật khi tiến hành phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luậtkhác đều phải dựa trên những cơ sở thực tiễn khách quan, không được
<small>áp đặt ý thức chủ quan của mình. Việc coi hành vi này là tội phạm hay</small>
chỉ là các vi phạm hành chính, dân sự... là do các điều kiện chính trị - xã
hội ở mỗi thời điểm lịch sử quyết định.
Cũng từ yêu cầu trên, ở hoạt động ban hành luật việc phân biệt tội
<small>phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác phải được thực hiện trên 2</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">-14-hướng : -14-hướng thứ nhất là nhà làm luật xác định một hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội “đáng kể” và quy định vào trong đạo luật hình sự; hướng
<small>thứ hai là nhà làm luật xem xét những tội phạm hiện đã được quy định song</small>
do sự biến đổi của các điều kiện chính trị - xã hội mà tính nguy hiểm
“khơng cịn đáng kể” cho xã hội để “đưa” ra khỏi luật hình sự, coi đó là vi
<small>phạm pháp luật khác (hoặc chỉ là vi phạm đạo đức). Sự phần biệt tội phạmvới các vi phạm pháp luật khác của nhà làm luật theo 2 hướng như vậy</small>
<small>được khoa học pháp lý gọi là tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Tội phạm</small>
<small>hóa và phi tội phạm hóa là 2 quá trình đối lập nhau, ngược chiều nhau song</small>
lại thống nhất, đều thể hiện sự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp<small>luật khác trong hoạt động ban hành luật hình sự.</small>
BLHS của nước ta được ban hành năm 1985, thời điểm mà đất nướccòn chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh, nền kinh tế còn theo cơ chế tậptrung quan liêu bao cấp. Dé phát triển đất nước, hơn 10 năm qua Đảng vaNhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực của cuộcsống, đặc biệt đã chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Do vậy đời
sống xã hội của nước ta trong thời gian qua đã có những biến đổi sâu sắc.Tình hình này đã đặt ra yêu cầu cấp bách là phải đổi mới pháp luật hình sự(và pháp luật nói chung), phải tiến hành sửa đổi BLHS cho phù hợp vớithực tế. Một trong những nội dung quan trọng của việc sửa đổi BLHS làphải tiến hành tội phạm hóa nhiều hành vi phạm pháp luật cũng như phải
phi tội phạm hóa nhiều tội phạm hiện được quy định trong BLHS. Đây sẽ là
<small>quá trình phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác rất lớn tronghoạt động ban hành pháp luật hình sự của nước ta.</small>
Như phần trên đã trình bày việc phân biệt tội phạm với các vi phạm
<small>pháp luật khác trong hoạt động giải thích và áp dụng luật cũng đòi hỏi phải</small>
xuất phát từ thực tế khách quan, trong phạm vi những dấu hiệu luật định
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">-15-nhà giải thích và người áp dụng luật căn cứ vào tình hình thực tế kháchquan mà xác định một hành vi cụ thể là tội phạm hay chỉ là các vi phạmpháp luật khác. Trong tình hình đất nước có nhiều biến đổi như hiện nay thì<small>vai trị của việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong</small>hoạt động giải thích và áp dụng luật rất là quan trọng nhưng cũng đòi hỏi
nhà giải thích và người áp dụng phải nắm bắt được các thay đổi của thực tế
khách quan để tiến hành sự phân biệt cho chính xác.
1.2. Y nghĩa của việc phân biệt tội phạm với các vị phạm
<small>Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác có ý nghĩa đặc</small>
biệt quan trọng. Y nghĩa đó thể hiện chủ yếu trên các mặt sau :
1.2.1. Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác là
Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác đều có tính nguy hiểmcho xã hội song theo thang bậc thì tội phạm có mức độ tính nguy hiểm
cao nhất. Xét cả về mặt chủ quan và khách quan tội phạm là sự phủđịnh các đồi hỏi của xã hội ở mức độ cao nhất. Vì vậy người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm nặng nề hon bất kểloại trách nhiệm pháp lý nào. Điều đó thể hiện sự phan ứng đúng mức
<small>của Nhà nước, của xã hội đối với người đã phủ định các đòi hỏi của xã</small>
hội ở mức độ cao. Đó cũng là thể hiện sự công bằng và nghiêm minh
<small>2 “ a</small>
<small>cua pháp luật.</small>
<small>- Í6 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">-Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý “nặng nể” nhất,
nghiêm khắc nhất. Biểu hiển của trách nhiệm hình sự là hình phạt, một
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có thể hạn chế và tước bỏ nhữngquyền và lợi ích thiết thực của người phạm tội như quyền sở hữu, quyền
chính trị, quyền tự do và thậm chí cả quyển sống. Người phạm tội khi bị
<small>áp dụng hình phạt sau khi chấp hành xong cịn phải chịu án tích trong</small>
một thời gian nhất định theo luật định. Khi đó họ sẽ bị hạn chế thựchiện các quyền công dân của mình, chẳng hạn sẽ khơng được ứng cử
<small>vào các cơ quan đại diện của Nhà nước hoặc sẽ không được phép thànhlập doanh nghiệp hoặc cơng ty nếu trước đó bị phạt tù..</small>
Giai đoạn trước khi BLHS được ban hành do nhiều nguyên nhân
<small>mà tội phạm được quy định ở nhiều văn bản pháp luật hình sự khác</small>
nhau, như trong các sắc lệnh, pháp lệnh... Trong các văn bản này cũng
chủ yếu quy định những tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội cao, trực
tiếp gây nguy hại đến việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Vì lẽ đó,
để đáp ứng u cầu của cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm chúng ta
đã cho phép được áp dụng nguyên tắc “tương tự” để truy cứu trách
<small>nhiệm hình sự. Việc áp dụng nguyên tắc “tương tu" trong giai đoạn đó</small>
là cần thiết nhưng nó cũng rất dễ tùy tiện, có thể dẫn đến những sai sót,
<small>khơng thật sự đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN mặc dù việc ápdụng “tương tự” phải tuân thủ những điều kiện nhất định. Cho nên khiBLHS được ban hành chúng ta đã xóa bỏ việc áp dụng nguyên tắc</small>
“tương tự”, khẳng định “tội phạm phải được quy định trong luật hình sự,
<small>“khơng có luật thì khơng có tội”. Theo đó cơ sở pháp lý để buộc mộtngười phải chịu trách nhiệm hình sự là hành vi họ thực hiện bị luật hìnhsự quy định là tội phạm. Đó chính là biểu hiện của một xã hội có nền</small>
pháp chế cao, là biểu hiện của một Nhà nước pháp quyển. Có được
<small>thành tựu to lớn đó là do chúng ta đã thực hiện tốt việc phân biệt tộiphạm với các vi phạm pháp luật khác. Kết quả là một hệ thống các tội</small>
phạm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh được quy định trong một đạo luật
được điển chế ở mức độ cao - đó là BLHS.
<small>1.2.2. Phân biệt toi phạm với các vi phạm pháp luật khác là</small>
đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật, đẳmbảo cuộc đấu tranh này đạt hiéu quả, đảm bảo cho pháp luật
<small>năng, nhiệm vụ của mình</small>
Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác tuy khác nhau về mức độnguy hiểm cho xã hội nhưng có mối liên hệ nội tại thống nhất, tạo thành
hệ thống. Do vậy đấu tranh với chúng cũng phải tuân theo tính hệ
thống, phải bao gồm nhiều biện pháp khác nhau, hỗ trợ và bổ sung cho
nhau. Đẳng và Nhà nước ta luôn xác định : đấu tranh phòng chống tội
<small>phạm và các vi phạm pháp luật là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,</small>
phải sử dụng kết hợp nhiều biện pháp đấu tranh như biện pháp chính trị
tư tưởng, biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, biện pháp văn hóa
<small>-xã hội, biện pháp pháp lý... Phương châm của Đảng và Nhà nước ta là</small>
phải kết hợp giữa giáo dục thuyết phục với cưỡng chế, trong đó lấythuyết phục giáo dục là chính. Sử dụng các biện pháp pháp lý cũng phai
<small>theo phương chim này, theo đó thì mỗi biện pháp pháp lý được sử dụng</small>
phù hợp với mỗi một loại vi phạm tương ứng với mức độ nguy hiểm cho
<small>xã hội của chúng.</small>
Biện pháp hình sự là một trong tổng thể các biện pháp pháp lý. So
<small>với các biện pháp khác như biện pháp hành chính, biện pháp dân sự,biện pháp kỷ luật thì biện pháp hình sự có tính mạnh mẽ nhất, nghiêm</small>
khắc nhất. Tính nghiêm khắc và mạnh mẽ của nó trước hết được thểhiện qua chế tài của nó (hình phat) là loại chế tài có khả năng hạn chế
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">-18-và tước bỏ những quyển lợi thiết thân nhất, lớn lao nhất của con người.Chính vì có tính nghiêm khắc và mạnh mẽ như vậy nên biện pháp hình
sự chỉ được sử dụng để đấu tranh với loại vi pháp luật có tính nguy hiểmcho xã hội cao, tức là tội phạm. Đối với loại vi phạm có tính nguy hiểm
thấp hơn thì chỉ sử dụng các biện pháp pháp lý có tính nghiêm khắc,
<small>mạnh mẽ it hơn.</small>
Để có thể sử dụng biện pháp hình sự hay các biện pháp pháp lý
<small>khác rõ ràng phải có sự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật</small>
khác, để xác định một hành vi là tội phạm hay chỉ là vi phạm hành
<small>chính, vi phạm kỷ luật...</small>
Việc sử dụng biện pháp pháp lý nào để đấu tranh với một loại vi
phạm pháp luật là có cơ sở khoa học, hồn tồn khơng phải là sự áp đặt
chủ quan. Chính tính chất xã hội của đối tượng đấu tranh quyết định đến
phạm là hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cho xã hội cao
nhất nên dẫn đến nhu cầu phải sử dụng biện pháp có tính mạnh mẽ và
nghiêm khắc nhất để đấu tranh. Biện pháp pháp lý hình sự có vai trị rấtquan trọng, có nhiều ưu thế song nó chỉ thích hợp khi sử dụng đấu tranh
phịng chống tội phạm.
Đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật là
<small>nhiệm vụ của pháp luật nói chung, của pháp luật hình sự nói riêng.</small>
Nhiệm vụ đấu tranh đó hồn tồn khơng được hiểu đơn giản là trừng trị
<small>người phạm tội và người vi phạm pháp luật mà lớn lao hơn là phải cải</small>
tạo giáo dục họ trở thành người tuân thủ pháp luật, đồng thời còn phai
<small>nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, làm cho nhân dân tôn trọng vàtự giác tuân thủ pháp luật. Nhiệm vụ đó của luật hình sự đã được quy</small>
định tại điều 1 của BLHS.
<small>-10..</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó của luật hình sự, vấn để quan trọng
<small>đặt ra là phải sử dụng đúng pháp luật hình sự. Như trên đã trình bày</small>
biện pháp hình sự chỉ được sử dụng để đấu tranh với tội phạm, chỉ khi
<small>như vậy thì luật hình sự mới thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của</small>
<small>Khi một người thực hiện một tội phạm họ phải chịu sự xử lý</small>
bằng biện pháp hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
do luật tố tụng hình sự quy định và phải chịu hình phạt, biện pháp
cưỡng chế “nặng nể” nhất. Khi đó bản than người phạm tội nhậnthấy sự phan ứng của xã hội, của pháp luật phù hợp với mức độ nguyhiểm cho xã hội của hành vi của mình, nhận thấy ở pháp luật tính
nghiêm khắc nhưng cũng có tính cơng bằng, từ đó sẽ có sự tự giáccải tạo giáo dục. Tất nhiên q trình cải tạo giáo dục họ cịn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài tác động, song sự tự giác của họgiữ vai trò quyết định.
Khi một người thực hiện một hành vi thực tế khơng có tính nguyhiểm cho xã hội “đáng kể” nhưng lại bị xác định “nhầm” là tội
<small>phạm và phải chịu sự xử lý của pháp luật hình sự thì họ sẽ chỉ thấy ở</small>
pháp luật sự nghiêm khắc, không thấy sự nghiêm minh, công bằng.
Khi đó họ có thể “sợ pháp luật” nhưng lại không tôn trọng pháp luật,
mất niém tin vào pháp luật, thậm chí sinh ra thái độ “ốn giận” từ đó
<small>mà không chịu cải tạo giáo dục. Ngược lại, một người thực hiện một</small>
hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức “đáng kể” nhưng lại không bi
xác định là tội phạm, tức là không bị xử lý bằng pháp luật hình sự sẽ
<small>có thái độ coi thường, khinh nhờn pháp luật. Người đã có thái độ nhưvậ y thì rõ ràng họ sẽ không tuân thủ pháp luật.</small>
Đối với những người khác, những người khơng vi phạm phápluật thì việc sử dụng đúng pháp luật hình sự có tác động rất tích cực
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">-20-tới ý thức pháp luật của họ. Có ý kiến cho rằng sở dĩ nhiều ngườikhông phạm tội là do họ sợ bị pháp luật trừng trị vì họ thấy nhữngngười phạm tội bị trừng trị nghiêm khắc. Sự tác động này là cónhưng khơng phải là chủ yếu. Chính việc sử dụng đúng pháp luậthình sự làm cho mọi người thấy được ở pháp luật sự cơng bằng và
<small>nghiêm minh, từ đó tơn trọng pháp luật, tin tưởng ở pháp luật mà tự</small>
giác tuân thủ pháp luật, đồng thời tích cực tham gia đấu tranh phịng
chống tội phạm.
<small>Rõ ràng pháp luật hình sự chỉ đạt được vai trị, nhiệm vụ của</small>
mình khi nó được sử dụng đúng, cụ thể là nó được sử dụng để đấu
tranh với loại vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm “đáng kể” cho xã
<small>hội - là tội phạm. Do đó, phân biệt tội phạm với các vi phạm phápluật khác đảm bảo cho pháp luật hình sự cũng như pháp luật nói</small>
chung thực hiện được tốt nhiệm vụ của mình.
Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác tuy đều là các vi phạm phápluật, đều là những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng có sự khác nhau vềmức độ của tính nguy hiểm. Sự khác nhau về mức độ của tính nguy hiểmcho xã hội là sự khác biệt quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất giữa tội phạm và
các vi phạm pháp luật khác, là tiêu chi để phân biệt chúng. Cụ thể luật hình
sự Việt Nam đã xác định tội phạm là hành vi có tính nguy hiểm “đáng kể”cho xã hội, những hành vi có tính nguy hiểm “khơng đáng kể” cho xã hội
<small>thì khơng phải là tội phạm. Ranh giới phân biệt này đã được quy định tại</small>
khoản 3 điều 8 của BLHS.
<small>Trên cơ sở ranh giới phân biệt đã được BLHS quy định nhà làm luật</small>
quy định các tội phạm cụ thể vào trong BLHS với các dấu hiệu thể hiệntính nguy hiểm “đáng kể” cho xã hội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà khơng
phải trường hợp nào các dấu hiệu cấu thành tội phạm cũng được quy định
một cách rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền giải thích luật hìnhsự phải tiếp tục cụ thể hố các dấu hiệu đó, đồng thời trong phạm vi luật
<small>định và trên cơ sở các văn bản giải thích người áp dụng luật cũng phải tự</small>
mình đánh giá để xác định một hành vi cụ thể có phải là tội phạm hay
<small>khơng ? Như vậy trên cơ sở tiêu chí chung việc phân biệt tội phạm với các</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>vi phạm pháp luật được thực hiện ở cả 3 hoạt động ban hành, giả! thích va</small>
áp dụng luật hình sự. Tất nhiên việc phân biệt của nhà giải thích cũng như
<small>của người áp dụng luật được và chỉ được giới hạn trong phạm vi những quy</small>
định của luật, hồn tồn khơng có quyền thay người làm luật để quy định
<small>tội phạm. Nói một cách khác sự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp</small>
luật khác trong hoạt động ban hành luật có tính khuôn mẫu tạo giới hạn
<small>pháp lý cho sự phân biệt trong hoạt động giải thích và áp dụng luật.</small>
Mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác phụ thuộc nhiều yếu tố và do các điều kiện chính trị - xã hội
quyết định, thay đổi mỗi khi các điều kiện này có sự biến đổi. Vì vậy việcđánh giá một hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm “đáng kể” hay“khơng đáng kể” cho xã hội để qua đó xác định là tội phạm hay khôngphải là tội phạm phải dựa trên nhiều căn cứ và phải xuất phát từ thực tế
<small>khách quan.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Nhu trong chương 1 đã trình bay, phân biệt tội phạm với các vi phạm</small>
pháp luật khác được thực hiện đầu tiên và ở cấp độ cao nhất là ở trong hoạt
<small>động ban hành pháp luật hình sự. Đây là sự phân biệt quan trọng nhất, có ý</small>
nghĩa nhất vì kết quả của nó là tội phạm được quy định trong đạo luật hình
sự, tạo cơ sở pháp lý cho tất cả sự phân biệt ở các cấp độ khác.
<small>Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác trong hoạt độngban hành pháp luật hình sự là hoạt động của nhà làm luật, được tiếnhành theo các trình tự, thủ tục của hoạt động lập pháp. Sự phân biệt này</small>
được thực hiện theo 2 hướng vừa đối lập lại vừa thống nhất với nhau :hướng thứ nhất là nhà làm luật quy định một hành vi là tội phạm trong
<small>đạo luật hình sự; hướng thứ hai là nhà làm luật xác định một hành vi</small>
khơng cịn là một tội phạm nữa, chỉ là các vi phạm pháp luật khác và
<small>đưa nó khỏi đạo luật hình sự. Đó chính là q trình tội phạm hóa và phi</small>
tội phạm hóa. Để có thể tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, địi hỏi nhà
làm luật phải dựa trên những cơ sở và căn cứ nhất định.
<small>Quy định tội phạm là hoạt động chủ yếu của nhà làm luật. Quyđịnh tội phạm không đơn giản chỉ là việc nêu tên của tội phạm mà quantrọng là phải quy định được các dấu hiệu của tội phạm đó, làm cơ sở đểphân biệt nó với các vi phạm pháp luật khác. Có như vậy thì mới đảm</small>
<small>«RF</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">bảo được các nguyên tắc của pháp luật hình sự, đảm bảo việc truy cứu
trách nhiệm hình sự được thống nhất và chính xác, đảm bảo hiệu quacủa cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Để đạt được điều đó là một
vấn đề hết sức khó khăn nhưng bất luận thế nào thì yêu cầu được đặt ralà tội phạm được quy định phải phù hợp với điều kiện chính trị - xã hội,ranh giới phân biệt với các vi phạm pháp luật phải rõ ràng và cụ thể.
Để thực hiện yêu cầu trên, việc quy định tội phạm phải được thực
hiện cả 2 mức độ : mức độ khái quát và mức độ cụ thể.
phạm. Khái niệm chung về tội phạm nêu lên các đặc điểm của mộthành vi bị coi là tội phạm, đồng thời nêu ranh giới để phân biệt tội
<small>phạm với các vi phạm pháp luật khác. Khái niệm tội phạm được quy</small>
định tại Điều 8 BLHS đã thể hiện những vấn dé này.
Trong Điều 8, nhà làm luật đã nêu các đặc điểm của tội phạm, đồng
<small>thời chỉ rõ ranh giới phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác dựa</small>
trên mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, cụ thể tội phạm là
hành vi có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội “đáng kể” cịn các hànhvi có tính nguy hiểm cho xã hội “không đáng kể” là các vi phạm pháp luậtkhác. Trên cơ sở ranh giới này, nhà làm luật xác định các tội phạm cụ thể
<small>và quy định vào trong luật hoặc loại bỏ ra khỏi luật những hành vi bị quy</small>
định là tội phạm nhưng tính nguy hiểm khơng cịn là “đáng kể ”nữa. Ranh
<small>giới phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác ở khoản 3 Điều 8</small>
BLHS chính là cơ sở để nhà làm luật tiến hành tội phạm hóa và phi tội
<small>phạm hóa.</small>
Quy định các tội phạm cụ thể là kết quả cụ thể của việc phân biệt
<small>tội phạm với các vi phạm pháp luật khác của nhà làm luật. Hiện nay</small>
xung quanh vấn đề quy định tội phạm cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
<small>«GAs</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Sự khác nhau nay không đơn giản là vấn dé học thuật hay kỹ thuật lập
pháp mà đó là sự thể hiện các quan điểm khác nhau về thẩm quyền và
<small>phạm vi phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác của người</small>
làm luật và người áp dụng luật. Theo hay khơng theo quan điểm nào có
ý nghĩa rất quan trọng vì nó liên hệ trực tiếp đến các nguyên tắc cơ bản
<small>của pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng.</small>
Ý kiến thứ nhất cho rằng : khi quy định tội phạm, nhà làm luật phải
nêu đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm đó, phải xác định rõ ràng và dứt
<small>khoát ranh giới phân biệt với các vị phạm pháp luật khác. Cách quy</small>
định như vậy nhằm hạn chế đến mức tối đa quyền tùy nghi xác định tộiphạm của người áp dụng luật, dam bảo triệt để nguyên tắc pháp chế xã
<small>hội chủ nghĩa, loại trừ khả năng việc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy</small>
tiện, khơng thống nhất và chính xác.
Ý kiến thứ 2 cho rằng : khi quy định tội phạm, nhà làm luật chỉ nêu
tên tội phạm - tức là chỉ quy định tội danh - còn hiểu thế nào là tùy ởngười áp dụng luật. Cách này mở rộng đến mức tối đa quyền xác định
tội phạm của người áp dụng luật, nhằm tạo cho việc truy cứu tráchnhiệm hình sự trên thực tế được linh động, đáp ứng được kịp thời những
yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Một ý kiến nữa mang tính chất dung hịa 2 ý kiến trên, cho rằng : nhà
làm luật chỉ quy định rõ ràng, cụ thể một số tội phạm có mức độ nguy hiểmcho xã hội cao, có tính điển hình, cịn lại thì cho phép người áp dụng luậtđược sử dụng nguyên tắc áp dụng tương tự luật để xác định tội phạm trên
cơ sở các điều luật được quy định, tuân thủ những điều kiện nhất định. Cách
này vừa có khả năng vẫn đảm bảo được nguyên tắc pháp chế XHCN, lạivẫn có thể tạo sự linh hoạt cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự trên thựctế, đáp ứng kịp thời những thay đổi của tình hình.
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">-25-Việc đánh giá ý kiến này là hợp lý hay không hợp lý phải xuấtphát từ nhiều yếu tố, không được suy xét một cách thiếu căn cứ, phảicăn cứ vào đặc điểm của mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn lịch sử nhấtđịnh. Những yếu tố phải xem xét là : các điều kiện về chính trị - kinh tế- xã hội; tình hình diễn biến của tội phạm, ý thức pháp luật của người
<small>dân, ý thức pháp luật và trình độ của đội ngũ của những người áp dụng</small>
luật... Mỗi cách quy định tội phạm có thể phù hợp với một hồn cảnh,
một thời điểm này nhưng lại không phù hợp với một thời điểm, một
<small>hồn cảnh khác.</small>
<small>Nhìn lại lịch sử việc quy định tội phạm trong luật hình sự Việt Nam</small>
chúng ta thấy ở trong mỗi giai đoạn khác nhau có sự khác nhau. Khi
BLHS chưa ra đời do nhiều nguyên nhân nên tội phạm được quy định từchỗ rất khái quát, chung chung, có khi chỉ được nêu tên đến chỗ đượcquy định tương đối rõ ràng, cụ thể : tội phạm không chỉ được quy định
trong pháp luật thực định mà nó còn được xác định trong thực tiễn ápdụng luật, do chúng ta cho phép áp dụng nguyên tắc “tương tự”. Khi
BLHS ra đời, các tội phạm cụ thể đã được nhà làm luật quy định nhìnchung là rõ ràng, với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó, đặc biệtchúng ta đã xóa bỏ nguyên tắc “tương tự”, khẳng định nguyên tắc “tội
<small>phạm phải được quy định ở trong luật hình sự”.</small>
Mặc dù trong mỗi giai đoạn lịch sử chúng ta đã sử dụng các cáchthức quy định tội phạm khác nhau song có một điều rất dễ nhận thấy là
tội phạm ngày càng được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Chúng tơi
hồn tồn nhất trí với xu hướng như vậy. Một khi những điều kiện
<small>khách quan và chủ quan cho phép thì tội phạm được và chỉ được quy</small>
định trong đạo luật được điển chế ở mức độ cao là BLHS, với đầy đủ
các dấu hiệu của nó, ranh giới phân biệt nó với các vi phạm pháp luật
<small>khác phải rõ ràng và dứt khoát, hạn chế đến mức thấp nhất quyển tự</small>
<small> 26 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">-xác định tội phạm của người áp dụng luật. Tất nhiên để đạt được điều
<small>đó thì trước tiên hoạt động ban hành pháp luật hình sự phải được thực</small>
hiện thật tốt, việc quy định tội phạm phải dựa trên những cơ sở khoahọc, trên những tiêu chuẩn, căn cứ nhất định. Một mặt chúng ta hạn chế
quyền tự xác định tội phạm của người áp dụng luật nhưng một mặt
chúng ta phải thừa nhận quyền này là một tất yếu khách quan. Cho nên
<small>việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác đòi hỏi phải</small>
được thực hiện tốt đồng thời ở cả 3 hoạt động ban hành, giải thích và ápdụng luật hình sự. Vì vậy cùng với việc sửa đổi bổ sung hoàn thiện phápluật hình sự đồng thời phai khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn
<small>và ý thức pháp luật của đội ngũ những người làm công tác áp dụng luật.</small>
luật. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa 3 hoạt động này có ý nghĩa rấtquan trọng đối với việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật
<small>Nghiên cứu hoạt động ban hành pháp luật hình sự của Nhà nước ta</small>
từ trước cho:tới nay thấy rằng khi tiến hành tội phạm hóa và phi tộiphạm hóa, nhà làm luật mới chủ yếu xuất phát từ kinh nghiệm, từ thực
tiễn hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chưa thật sự dựa trên
những căn cứ khoa học. Vì vậy một vấn dé hết sức quan trọng đặt ra làphải xác định những cơ sở để nhà làm luật tiến hành tội phạm hóa vàphi tội phạm hóa, thể hiện sự phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp<small>luật khác trong hoạt động ban hành pháp luật hình sự.</small>
<small>Như đã trình bày, dựa trên ranh giới phân biệt tội phạm với các vi</small>
phạm pháp luật khác mà khoản 3 Điều 8 BLHS đã nêu, nhà làm luật
tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Mức độ của tính nguy
<small>= 27 «</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">hiểm cho xã hội của hành vi chính là cơ sở để tội phạm hóa và phi tộiphạm hóa, là tiêu chuẩn để nhà làm luật phân biệt tội phạm với các vi
<small>phạm pháp luật khác.</small>
Tuy nhiên, có một vấn để đang đặt ra mà hiện nay có nhiều người
quan tâm nghiên cứu là : để tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa
ngồi cơ sở mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhà làmluật có cần phải dựa vào các cơ sở khác nữa hay không? Giải quyết vấn đểnày có ý nghĩa quan trọng bởi tầm quan trọng đặc biệt của vấn dé tội phạm
<small>hóa và phi tội phạm hóa và càng có ý nghĩa đặc biệt khi hiện nay chúng ta</small>
đang tiến hành sữa đổi bổ sung BLHS.
Theo chúng tơi, để tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, ngồi
cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất và cơ bản nhất là mức độ của tính nguyhiểm cho xã hội của hành vi, nhà làm luật cần phải dựa vào cơ sở khác nữa.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành bởi các
điều kiện của cơ sở hạ tầng nên các quy định của pháp luật phải phù hợp
với điều kiện của cơ sở hạ tầng, phù hợp với các bộ phận khác hợp thànhkiến trúc thượng tầng. Vì lẽ đó, khi tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm
hóa, khơng thể khơng đặt q trình đó trong mối quan hệ với các điều kiện,các yếu tố của cơ sở hạ tầng cũng như kiến trúc thượng tầng. Cho nên khi
tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, ngồi cơ sở là mức độ của tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhà làm luật cần phải dựa vào các cơ sở
<small>khác nữa như : đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; ý thức phápluật của nhân dân; những quan niệm đạo đức của nhân dân và truyền</small>
thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc; tính đồng bộ của hệ thống pháp luật...
<small>Thừa nhận việc tội phạm hóa va phi tội phạm hóa phải dựa vào các cơ</small>
sở khác nữa ngoài cơ sở mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vinhưng chúng ta phải khẳng định : mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">của hành vi là cơ sở quan trọng nhất, phải được xem xét trước tiên vì nó
chính là tiêu chuẩn để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác.
Những cơ sở khác tuy có tính độc lập tương đối so với tính nguy hiểm choxã hội của hành vi song chính chúng cũng phần nào phản ánh tính nguyhiểm. Những cơ sở này cần phải xem xét sau cơ sở tính nguy hiểm cho xã<small>hội.</small>
Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa là 2 q trình đối lập, ngược chiềunhau nhưng lại thống nhất, nếu tách ra để xem xét thì chúng có những cơ sởriêng song về thực chất thì cơ sở của phi tội phạm hóa là xuất phát từ nhữngcơ sở của tội phạm hóa. Vì vậy trong phạm vi phần này, những cơ sở của tội
<small>phạm hóa và phi tội phạm hóa được xem xét chung.</small>
Khoản 3 Điều 8 BLHS đã quy định “Những hành vi tay có dấu hiệucủa tội phạm nhưng có tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì
<small>khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng những biện pháp khác”. Theo</small>
quy định này thì ranh giới giữa nguy hiểm “đáng kể” và “không đángkể” là ranh giới để nhà làm luật phân biệt tội phạm với các vi phạmpháp luật khác, là cơ sở để nhà làm luật tiến hành tội phạm hố và phi
<small>tội phạm hố.</small>
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có tính khách quan, do các
điều kiện khách quan quyết định, vì vậy tính nguy hiểm cho xã hội của
một hành vi là “đáng kể” hay “không đáng kể” không thể do sự áp đặt
<small>chủ quan của nhà làm luật, mà nhà làm luật chỉ xác định một thực tế</small>
<small>khách quan. Nói như vậy khơng có nghĩa là người làm luật khơng có vai</small>
<small>-29.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">trị gì mà trái lại, vai trị của họ rất quan trọng bởi lẽ việc đánh giá tính
chất và mức độ nguy hiểm của một hành vi là một q trình nhận thức
mà nhà làm luật chính là chủ thể của q trình nhận thức đó. Việc đánh
<small>giá có chính xác hay khơng, tức là tội phạm hóa và phi tội phạm hóa có</small>
đúng đắn hay khơng phụ thuộc vào khả năng nhận thức của nhà làm
<small>luật. Khơng ngừng nâng cao ý thức pháp luật và trình độ của đội ngũ</small>
những nhà làm luật là một biện pháp quan trọng để pháp luật hình sự
<small>được ban hành ngày càng hồn thiện.</small>
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có tính khách quan, thay đổitheo sự biến đổi của các điều kiện chính trị - xã hội. Một hành vi lúc này là
lại nguy hiểm “khơng đáng kể” nên chỉ là vi phạm hành chính hay vi
phạm kỷ luật và ngược lại. Đánh giá được sự thay đổi về mức độ của tínhnguy hiểm cho xã hội của một hành vi dưới ảnh hưởng sự biến đổi của cácđiều kiện chính trị - xã hội để tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóalà một u cầu có tính nguyên tắc được đặt ra cho các nhà làm luật. Trongquá trình sửa đổi bổ sung BLHS hiện nay yêu cầu này càng đặc biệt phảiđược chú trọng bởi các điều kiện chính trị - xã hội ở nước ta trong nhữngnăm qua có những biến đổi rất lớn. Để thực hiện yêu cầu này, nhất thiếtphải có sự khảo sát, đánh giá những đổi thay của các điều kiện xã hội, nhấtlà trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực có những biến đổi sâu sắc nhất.
Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi được thể hiện ở cả trên nhữngđặc tính về “chất” và “lượng”, phụ thuộc vào những dấu hiệu ở cả mặt
khách quan và mặt chủ quan, ở cả những dấu hiệu thuộc bản thân chủ thể,
nhưng trước hết nó phụ thuộc vào tính chất quan trọng, giá trị xã hội củacác quan hệ xã hội bị xâm hại. Đây là căn cứ đầu tiên và quan trọng nhấtđể nhà làm luật đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi tiến
<small>hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Những quan hệ xã hội đó được quy</small>
<small>- 30 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">-định tại Điều 8 BLHS. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tộiphạm là hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội đã được xác định là kháchthể bảo vệ của luật hình sự. Điều đó lý giải tại sao có hành vi 6 nước khác
quy định là tội phạm nhưng ở nước ta thì khơng và ngược lại.
Để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có thể dựa trên
nhiều căn cứ. Tuy nhiên mỗi một căn cứ có sự ảnh hưởng đến tính nguy
cứ nhất định được nhà làm luật sử dụng. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể cáccăn cứ này ở phần sau.
Khoản 3 Điều 8 BLHS đã xác định ranh giới để nha làm luật phânbiệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác, theo đó tính nguy hiểm
“đáng kể” cho xã hội là đặc tính của bất kể tội phạm nào. Trên cơ sở
đó, ở phần các tội phạm, ở từng tội phạm cụ thể nhà làm luật sẽ quy
định các dấu hiệu thể hiện tính nguy hiểm “đáng kể”. Đối với mỗi loại
tội phạm nhà làm luật sẽ quy định những dấu hiệu khác nhau, song có
một yêu cầu chung đặt ra là nhà làm luật phải bằng cách nào đó quy
định rõ các dấu hiệu này để việc phân biệt với các vi phạm pháp luật
khác được rõ ràng. Những trường hợp vì lý do nào đó khơng thể xác
định rõ ràng được cũng địi hỏi nhà làm luật phải đưa ra những dấu hiệu
<small>chung tạo giới hạn cho việc xác định tội phạm của hoạt động giải thích</small>
và áp dụng luật sau nay. Đó là một điều quan trọng để dam bảo nguyên
tắc pháp chế trong luật hình sự.
Tóm lại, mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơsở quan trọng nhất của việc tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, nó quyết
định đến việc xác định một hành vi là tội phạm hay chỉ là các vi phạm
<small>pháp luật khác, mặc dù việc tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cịn cần</small>
phải xem xét đến các cơ sở khác nữa.
<small>- </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">2.1.2.1. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa phải dựa trên
Điều 4 Hiến pháp 1992 đã quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là
<small>lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo</small>
đó của mình bằng cách dé ra đường lối, chính sách về các vấn dé củađời sống xã hội và Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách đó bằngpháp luật. Vì vậy, một u cầu đặt ra là các quy định của pháp luật nói
<small>chung, của pháp luật hình sự nói riêng phải phù hợp với các đường lối</small>
chính sách đó. Do đó, khi tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóanhà làm luật cũng phải dựa trên cơ sở đường lối, chính sách của Dang ,
<small>Nhà nước, đảm bảo việc xác định tội phạm hay không phải là tội phạm</small>
phai phù hợp với các đường lối chính sách đó.
Chúng ta đều biết rằng hiện nay hành vi buôn bán và sử dụng matúy xảy ra rất nhiều, đang thật sự trở thành một hiểm hoa của đất nước.
Vì vậy, hành vi trồng trái phép cây thuốc phiện hoặc các loại cây cóchứa chất ma túy khác đã trở nên nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội.
Thế nhưng nếu chỉ thuần túy căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi này mà xác định tất cả các hành vi trồng trái phép cây thuốc
<small>phiện là tội phạm thì lại khơng phù hợp với chính sách đối với miền núi</small>
được trồng ở những vùng núi phía Bắc, do đồng bào các dân tộc ít người
trồng, do thói quen từ bao đời nay của họ và có một thực tế là họ khơngbiết hoặc khơng có khả năng trồng cây gi thay thế cho cây thuốc phiệnđể làm nguồn sống. Vì vậy chủ trương của Đảng và Nhà nước là giúpđỡ họ bằng nhiều biện pháp như giúp họ có điều kiện vật chất để
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">-32-chuyển đổi sang loại cây trồng khác, giáo dục tuyên truyền để họ nhậnthức được tác hại của ma túy mà tự giác bỏ cây thuốc phiện... chỉ khinào một người đã được Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện sinh sống mà
vẫn cố tình trồng trái phép cây thuốc phiện thì chúng ta mới xử lý bằng
pháp luật, mà bước đầu là xử phạt hành chính, sau đó nếu cịn vi phạmmới xử lý bằng biện pháp hình sự. Do vậy trong Luật sửa đổi bổ sungmột số diéu của BLHS được Quốc hội thông qua ngày 10 tháng 5 năm1997, tội trồng cây thuốc phiện và các loại cây trồng khác có chứa chất
<small>ma túy được quy định nhưng chỉ giới hạn trong trường hợp “đã được</small>
giáo dục nhiều lần, được tạo điều kiện ổn định cuộc sống” mà vẫn cốtình trồng với số lượng lớn và bị xử phạt hành chính (Điều 185a). Rõràng việc tội phạm hóa hành vi trồng trái phép cây thuốc phiện như vậy
là phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với miền núi và
đồng bào các dân tộc ít người.
2.1.2.2. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa phải dựa trên cơ
sở ý thúc pháp luật cua nhân dân
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của công dân và tháiđộ của họ đối với quy định của pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc<small>thực hiện pháp luật. Một hành vi bị quy định là tội phạm đòi hỏi</small>
<small>phải phù hợp với nhận thức của nhân dân, được nhân dân đồng</small>
tình, hưởng ứng. Vì vậy khi tiến hành tội phạm hóa một hành vinào đó, nhà làm luật phải xem xét nhận thức về hành vi đó của
nhân dân như thế nào, thái độ của nhân dân ra sao khi hành vi đó
bị coi là một tội phạm. Chúng tơi đồng ý với một số tác giả cho
rằng : tệ say rượu là một hiện tượng có tính nguy hiểm cho xã hội
<small>không kém gi các hành vi khác đã được quy định là tội phạm, rất</small>
nhiều trường hợp say rượu là nguyên nhân gây ra các tội phạm
<small>khác. Trong nhận thức của nhân dân, không ai không thấy được say</small>
<small></small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">-33-rượu là một hiện tượng xấu và nguy hiểm song do nhiều nguyên
nhân mà số đông lại chưa nhất trí phải đấu tranh với người sayrượu bằng biện pháp hình sự. Vì lẽ đó BLHS khơng quy định tộisay rượu mà chỉ trừng trị nghiêm khắc người nào phạm tội trong
tình trạng say rượu, như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 186 (Tội
vi phạm các quy định về an tồn giao thơng vận tải).
Một ví dụ nữa thể hiện rất rõ khi tiến hành tội phạm hóa nhà
làm luật đã dựa trên cơ sở ý thức pháp luật của nhân dân. Đó là
việc trong Luật sửa đổi bổ sung một số diéu của BLHS mà Quốc
<small>hội thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997, chúng ta đã quy định 2</small>
tội phạm mới : tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 202a) vàtội dâm 6 đối với trẻ em (Điều 202b). Trẻ em là một tối tượng đặc
biệt được toàn thể xã hội quan tâm chăm sóc, giáo dục; trong nhậnthức của mọi người việc giữ gìn, bảo vệ sự phát triển lành mạnh,
trong sáng cho trẻ em là một nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Thếnhưng gần đây tình trạng lạm dụng tình dục đối với trẻ em đã xẩyra rất nhiều, gây nên sự căm phẫn trong nhân dân. Chính sự cămphẫn, sự lên án một cách gay gắt đối với hành vi lạm dụng tình dục
đối với trẻ em địi hỏi các nhà làm luật phải quy định những hành
<small>vi này là tội phạm. Cho nên mặc dù hành vi mua dâm và dâm 6 nóichung chúng ta chưa quy định là tội phạm nhưng hành vi mua dâm</small>
và dâm 6 trẻ em cần phải coi là tội phạm. Chính vì vậy ma chúngta đã tiến hành tội phạm hóa hai hành vi này. Theo dõi thực tếchúng tôi thấy rằng nhân dân rất đồng tình với việc tội phạm hóađó và chắc chắn cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ nhận được ở đơngđảo nhân dân sự hưởng ứng, sự đóng góp tích cực vào việc đấu
tranh phịng chống 2 tội phạm này.
<small>“HH «</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">2.1.2.3. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa phải phù hợp với
quán tốt đẹp của dân tộc
Pao đức là những quan niệm, quan điểm của con người về các
vấn dé khác nhau thuộc đời sống tinh thần của xã hội, như về cái
thiện, cái ác, về sự công bằng, về nghĩa vụ, danh dự... Trong một
xã hội có thể tổn tại các loại quan niệm đạo đức khác nhau songbao giờ giai cấp thống trị xã hội cũng giữ gìn, phát triển các quanniệm đạo đức phù hợp với lợi ích giai cấp. Khi các quy tắc đạo đức
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị xã hội thì nó có vai trịhết sức to lớn, cùng với pháp luật nó là nhân tố rất quan trọng đểdiéu chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa và đạo đức xã hội chủ nghĩa có mốiquan hệ rất chặt chế do có cùng bản chất, cùng có chung mục đích,nhiệm vụ là bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động. Có rất nhiều quy phạm pháp luật được quy định bắt nguồn từcác quy tắc đạo đức. Một đòi hỏi đặt ra đối với pháp luật là các
quy phạm pháp luật phải phù hợp với quy tắc đạo đức. Một quy
phạm pháp luật phù hợp với quy tắc đạo đức sẽ được nhân dân
đồng tình hưởng ứng, từ đó tự giác tn thủ; ngược lại nếu trái với
quy tắc đạo đức sẽ không được nhân dân đồng tình, thậm chí quy
<small>định của pháp luật sẽ không được thực hiện trên thực tế, mặc dù nó</small>
được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Các phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc cũng là cơ sở
<small>quan trọng hình thành ý thức pháp luật của nhân dân. Việc giữ gìn</small>
và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc hiện đang được Đảng
<small>và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Vì lẽ đó các quy định của pháp</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">luật cũng phải phù hợp với các tập quán, truyền thống tốt đẹp của<small>dan tộc.</small>
Yêu cầu các quy phạm cửa pháp luật phải phù hợp với cácquan niệm đạo đức của nhân dân, với truyền thống và tập quán tốtđẹp của dân tộc là yêu cầu đòi hỏi đối với bất kể quy phạm của<small>ngành luật nào, trong đó có luật hình sự. Vì vậy tội phạm hóa và</small>phi tội phạm hóa cũng phải dựa trên cơ sở của yêu cầu đó.
Tuân theo yêu cầu trên, theo chúng tôi chúng ta cần phải xem
xét lại hai tội phạm là tội “che dấu tội phạm” và “không tố giác
tội phạm” được quy định tại Điều 246 và 247 của BLHS. Theo hai
diéu luật này thì người có hành vi “che dấu” hoặc “khơng tế giác”
<small>một trong các tội phạm quy định thì phải chịu trách nhiệm hình sự,</small>
bất kể hành vi đó diễn ra giữa những người thân thích, ruột thịt với
<small>nhau. Quy định như vậy là hồn tồn khơng phù hợp với quan niệm</small>
đạo đức, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta về đạo nghĩa vợ
chồng, cha mẹ, con cái. Tất nhiên ở đây chúng ta cũng phải xemxét đến nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân song dù sao quy địnhnhư hai diéu luật 246 và 247 như hiện nay là chưa hợp lý. Theo
chúng tôi, chúng ta phải sửa đổi 2 điều luật 246 và 247 theo hướng
<small>phi tội phạm hóa, loại trừ trách nhiệm hình sự của người có hành vi</small>
che dấu, khơng tố giác người thân thích ruột thịt của mình khi người
<small>này phạm tội.</small>
<small> 36 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">-2.1.2.4. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa phải dita trên cơ
khác và với các hiệp ước quốc tế mà Nhà nước ta tham gia
Hệ thống pháp luật XHCN bao gồm nhiều ngành luật khác
<small>nhau có chức năng, nhiệm vụ riéng song giữa chúng có tính thống</small>
nhất nội tại cao do đều được hình thành trên các điều kiện chung,đều nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dânlao động. Vì vậy một yêu cầu hết sức quan trọng luôn được đặt ra
<small>là các quy định của các ngành luật không được mâu thuẫn vớinhau, mà phải phù hợp nhau. Khi quy định của các ngành luật trái</small>
ngược mâu thuẫn với nhau sẽ làm giảm hiệu lực của pháp luật. Vì
lẽ đó, khi tiến hành tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cũng phải
<small>đảm bảo tội phạm được quy định phải phù hợp với quy định của cácngành luật khác, đặc biệt là không được trái với Hiến pháp - đạoluật cơ bản của Nhà nước.</small>
BLHS được ban hành trong những năm mà nền kinh tế ở nướcta còn theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, dù đã được sửa đổinhưng nó vẫn là một sản phẩm của cơ chế đó, nên có một số tội
<small>phạm được quy định khơng cịn phù hợp với các quy định của Hiến</small>
pháp và pháp luật kinh tế hiện nay, khi nền kinh tế của chúng ta đã
chuyển sang kinh tế thị trường. Vì vậy một yêu cầu bức xúc đang
<small>được đặt ra là chúng ta phải tiến hành tội phạm hóa và phi tội</small>
phạm hóa các tội phạm về kinh tế.
<small>Việc tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cũng cịn phải phù hợp</small>
với các hiệp ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Trong nhữngnăm qua thực hiện đổi mới về đối ngoại, chúng ta đã ký kết nhiều
hiệp ước quốc tế ở trong nhiều lĩnh vực. Khi ký kết các hiệp ước
<small>- </small>
</div>