Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

riêng tư của trẻ em trên không gian mạng pháp luật một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 95 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<i><b>THUỘC NHĨM NGÀNH : LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b></i>

Trưởng nhóm: Huỳnh Thanh Bình

<b>Mã số cơng trình :………. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>

<i><b>THUỘC NHĨM NGÀNH : LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b></i>

Trưởng nhóm: Huỳnh Thanh Bình

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 1 CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ PHÁP LÝ VỀ </b>

<b>QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG ... 6 1.1 Khái quát về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng ... 6 </b>

<i><b>1.1.1 Khái quát về lịch sử quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng .. 6 1.1.2 Khái niệm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng ... 8 1.1.3 Đặc điểm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng ... 12 1.1.4 Ý nghĩa quy định quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng ... 15 </b></i>

<b>1.2 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới ... 16 </b>

<i><b>1.2.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ... 16 1.2.2. Quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng theo pháp luật của Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa ... 27 1.2.3 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Đại Hàn Dân quốc ... 35 1.2.4 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Vương quốc Thái Lan ... 42 </b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 50 CHƯƠNG II. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ... 51 </b>

<b>2.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật Việt Nam ... 51 </b>

<i><b>2.1.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật Việt Nam từ năm 1946 đến 1992 ... 51 2.1.2 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo quy định của Hiến pháp 2013 và pháp luật hiện hành ... 55 </b></i>

<b>2.2 Một số bất cập và kiến nghị về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam ... 64 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>2.2.1 Một số bất cập về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam ... 64 2.2.2 Một số kiến nghị hoàn thiện quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam ... 75 </b></i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 81 KẾT LUẬN ... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Theo quan điểm của các nhà khoa học ủng hộ các quyền tự nhiên như Zeno (333‐264 TCN), Thomas Hobbes (1588‐1679), John Locke (1632‐ 1704), Thomas Paine

<i>(1731‐1809) thì quyền con người (Human rights, Droits de L'Homme) là toàn bộ các </i>

quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ. Tuy nhiên, để quyền con người được công nhận như hiện tại, cần một quá trình đấu tranh rất dài của các quốc gia, dân tộc, cùng công nhận những giá trị chung của con người. Trên lý thuyết, quyền con người là những quyền tối thiểu để con người có thể tồn tại và phát triển. Pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia đều quan tâm quy định rất chi tiết về những quyền cơ bản của con người. Trong đó, quyền riêng tư là một trong những quyền rất quan trọng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế. Quyền riêng tư là quyền của mỗi các nhân được bảo vệ những thông tin cá nhân, bí mật đời sống cá nhân khơng bị ai xâm phạm. Quyền này giúp các cá nhân có đời sống riêng của mình bên cạnh những quyền giúp con người hòa nhập xã hội.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng Internet cao nhất thế giới. Ngoài những lợi ích to lớn do cơng nghệ thơng tin mang lại, nó cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy cơ về việc thông tin, dữ liệu cá nhân bị đánh cắp, bị phát tán và sử dụng vào những mục đích xấu. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến quyền riêng tư của cá nhân thông qua những quy định xuyên suốt về quyền riêng tư của con người, của công dân trong các bản Hiến pháp từ 1946 đến 2013 và nhiều văn bản luật, nghị định, chỉ thị, …liên quan.

Pháp luật hiện hành của nước ta vẫn còn nhiều lỗ hổng trong quy định về bảo vệ quyền riêng tư đặc biệt là quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng trong bối cảnh cơng nghệ phát triển nhanh chóng một cách khó kiểm sốt. Hiến pháp và các luật liên quan có nhiều quy định về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, nhiều nghị định, thông tư cũng ra đời phục vụ cho mục đích bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em – nhóm người yếu thế trong xã hội trước những nguy cơ mất an tồn thơng tin trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, quy định pháp luật còn chưa thực sự tập trung mà quy định rải rác trong rất nhiều văn bản khác nhau, dẫn đến sự mâu thuẫn, chồng chéo và rất khó trong q trình áp dụng của các chủ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><b>Chính vì những lý do trên, nhóm tác giả chọn đề tài: “Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng – Pháp luật một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam” nhằm nghiên cứu sâu hơn về pháp luật quốc tế và một số quốc gia đi đầu </b></i>

trong lĩnh vực an tồn thơng tin và bảo vệ trẻ em trước nguy cơ mất an toàn riêng tư trên khơng gian mạng. Từ đó, nhóm tác giả nêu lên một số bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật để rút ra kiến nghị hoàn thiện những quy định về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam.

<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>

Quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng nói riêng là đề tài được các nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm và đã được thực hiện với nhiều cơng trình với nhiều góc độ và mức độ nghiên cứu chuyên sâu khác nhau:

<i>Về sách chuyên khảo: Thái Thị Tuyết Dung (2012), “Quyền tiếp cận thông tin và </i>

quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia”, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Cơng Giao, Ngô Minh Hương, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (2018), “Quyền về sự riêng tư”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật; Nguyễn Thị Quế Anh, Ngô Huy Cương (đồng chủ biên) (2018), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với cải cách pháp luật Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.

<i>Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Lê Đình Nghị (2009), “Quyền bí mật đời tư </i>

theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), “Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội; Trần Ngọc Nam (2022), “Bảo vệ quyền riêng tư trong môi trường Internet theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội,…

<i>Về bài báo được đăng trên các tạp chí: Thái Vĩnh Hằng (2017), “Bảo vệ quyền </i>

riêng tử ở Mỹ, Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 8; Nguyễn Thị Hoa Tâm (2017), “Luật Trẻ em 2016 và một số đóng góp nhằm hồn thiện pháp luật về trẻ em”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8(107); Dương Văn Hậu (2017), “Luật Trẻ em và các biện pháp bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21 (349); Phạm Thị Duyên Thảo, Phan Thị Lan Phương (2020), “Hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16 (416); Trần Thị Diệu Hà (2022), “Bàn về khái niệm quyền riêng tư trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí pháp luật và thực tiễn, (51); Ngô Thị Hường (2022), “Bảo vệ quyền trẻ em trong kỷ nguyên số”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3(360); Nguyễn Thị Thanh Nga (2023), Tác động cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến quyền riêng tư, Tạp chí Quản Lý Nhà nước, số (325), …

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Có nhiều cơng trình nghiên cứu và bài báo khoa học nghiên cứu về quyền riêng tư của con người, các tác giả bên cạnh phân tích pháp luật liên quan, còn nêu lên thực trạng và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện nhưng các bài viết đều chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó quyền riêng tư trên không gian mạng và chỉ đề cập hoặc phân tích khái quát các nội dung về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng. Hiện nay, vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chi tiết các vấn đề liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng. Tuy nhiên, các cơng trình nêu trên là nguồn tài liệu quý báu để nhóm tác giả tham khảo, phát triển ý tưởng và trích nguồn để chứng minh cho các lập luận của mình trong bài viết.

Một số cơng trình tiêu biểu bằng tiếng nước ngồi nghiên cứu về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng có thể kể đến như: Livingstone, Sonia, Mariya Stoilova, and Rishita Nandagiri (2019), “Children's data and privacy online: growing up in a digital age: an evidence review”, London School of Economics and Political Science, Department of Media and Communications; Nairn, Agnes, and Dowsiri Monkgol (2007) “Children and privacy online” Journal of Direct, Data and Digital Marketing Practice 8, p. 294-308; Steinberg, Stacey B (2016) “Sharenting: Children's privacy in the age of social media” Emory Lj 66, p. 839; Benjamin Shmueli and Ayelet Blecher-Prigat (2011), “Privacy for Children”, Columbia Human Rights Law Review 42(3), p.759-796,… Các cơng trình nêu trên đã nghiên cứu, đánh giá một cách chung nhất về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng của quốc gia nghiên cứu và một số quốc gia trên thế giới. Các công trình nghiên cứu được thực hiện dưới quy định của pháp luật cũng như điều kiện nội tại của quốc gia đó, do đó khơng thể trực tiếp áp dụng pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, các cơng trình đã có những đóng góp khoa học như: đưa ra khái niệm về quyền riêng tư; các cơ chế để bảo vệ quyền riêng tư trẻ em trên thế giới,… Nhóm tác giả tham khảo và trích nguồn để chứng minh cho các lập luận trong bài viết để góp phần hoàn thiện quy định bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam.

<b>3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

Đề tài nhằm mục đích làm sáng tỏ một số đề vấn lý luận liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng và tìm hiểu về thực trạng quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam về quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng, từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ: phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng; nghiên cứu, phân tích pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng của một số quốc gia điển hình trên thế giới và rút ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tiếp thu; phân

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

tích pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.

<b>4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận cơ bản về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại một số quốc gia điển hình trên thế giới và Việt Nam, thực trạng thực hiện việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng trong thời gian qua và những bất cập.

Về phạm vi nghiên cứu về không gian: đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng của các quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Hoa, Thái Lan, Hàn Quốc và Việt Nam.

Về phạm vi nghiên cứu về thời gian: trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả chỉ tập trung các vấn đề lý luận cơ bản về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng và các vấn đề pháp lý liên quan được quy định trong hiến pháp và các đạo luật liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng đang có hiệu lực của các quốc gia Hoa Kỳ, Trung Hoa, Thái Lan, Hàn Quốc; riêng với Việt Nam, đề tài nghiên cứu về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng trong các bản Hiến pháp từ 1946 đến nay và các văn bản có liên quan.

<b>5. Ý nghĩa của đề tài </b>

Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng cũng như phân tích thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng. Bên cạnh đó, đề tài cũng nghiên cứu, đánh giá pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Hoa, Thái Lan, Hàn Quốc, từ đó đưa những giải pháp đề xuất hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng. Do đó, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cơng tác nghiên cứu về quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng nói riêng.

<b>6. Phương pháp nghiên cứu </b>

Ngồi phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đề tài này được nhóm nghiên cứu vận dụng nhiều phương pháp khác nhau theo từng vấn đề được nghiên cứu như phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp quy nạp và diễn dịch,… cụ thể:

Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch được nhóm nghiên cứu sử dụng xuyên suốt trong đề tài nhằm trình bày kết quả nghiên cứu một cách khoa học, giúp người đọc dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp được nhóm nghiên cứu vận dụng xuyên suốt đề tài. Từ việc tổng hợp các quy định và thực trạng áp dụng quy định về quyền riêng tư của trẻ em tại các nước trên thế giới và Việt Nam, nhóm tác giả phân tích về nguyên nhân, cách thức quy định và những điểm tiến bộ trong quy định của các nước. Từ đó, đề xuất các biện pháp để hồn thiện pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại nước ta.

Phương pháp lịch sử được sử dụng ở để tìm hiểu về lịch sử của quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, cũng như xem xét về các quy định của pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tại Việt Nam từ Hiến pháp năm 1946 đến nay, lý giải nguyên nhân quy định về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng trong mỗi thời kỳ lịch sử.

Phương pháp so sánh được sử dụng làm rõ những thay đổi của pháp luật Việt Nam khi quy định về quyền riêng tư trẻ em trên khơng gian mạng. Ngồi ra, nhóm tác giả cịn áp dụng phương pháp so sánh để đối chiếu quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia.

<b>7. Bố cục cơng trình nghiên cứu </b>

Ngồi phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có hai chương như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản và pháp lý về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng

Chương 2. Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng ở Việt Nam và một số kiến nghị

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG </b>

<b>1.1 Khái quát về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </b>

<i><b>1.1.1 Khái quát về lịch sử quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </b></i>

Quyền riêng tư có đã có nguồn gốc từ thời cổ đại. Sự công nhận quyền riêng tư xuất hiện nhiều trong Kinh Qur'an và trong những câu nói của Ngài Mohammed. Kinh Thánh cũng có nhiều tài liệu tham khảo về quyền riêng tư. Luật Do Thái từ lâu đã cơng nhận khái niệm “khơng bị theo dõi”. Ngồi ra, trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại cũng đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền riêng tư<small>1</small>. Bộ luật Hammurabi có quy định chống lại sự xâm nhập vào nhà của ai đó<small>2</small>, hoặc luật La Mã cũng quy định hình phạt người xâm nhập vào nhà của người khác<small>3</small>. Trong xã hội nguyên thủy, con người sống với nhau thành bầy đàn, tính gắn kết cao, con người trong xã hội này khơng có địi hỏi về quyền riêng tư cho bản thân. Trong một xã hội mang tính bất bình đẳng cao giữa các giai cấp như xã hội chiếm hữu nơ lệ thì các quyền con người nói chung và quyền riêng tư nói riêng là quyền mà chỉ tầng lớp chủ nơ mới có; cịn giai cấp nơ lệ chỉ được xem là một thứ “tài sản biết nói” của chủ nơ. Do đó, quyền riêng tư trong giai đoạn này và cả dưới chế độ phong kiến khơng được chính thức ghi nhận bởi pháp luật, nó được coi là một “đặc quyền” mà chỉ có các tầng lớp cao quý trong xã hội (chủ nô, lãnh chúa phong kiến,…) mới được hưởng<small>4</small>. Mặc dù quyền riêng tư bắt đầu manh nha xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, khái niệm cũng như tính pháp lý của quyền này chỉ thực sự được khẳng định cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó, có thể nói, quyền riêng tư có nguồn gốc từ phương Tây và phát triển nhờ

<b>sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. </b>

Luật về quyền riêng tư đã tồn tại ở các quốc gia phương Tây từ hàng trăm năm trước. Năm 1361, Đạo luật Cơng lý về Hịa bình ở Anh quy định về việc bắt giữ những kẻ nhìn trộm và những kẻ nghe lén. Trong bài phát biểu năm 1763, Nghị sĩ William Pitt

<i>đã cho rằng: “Phải làm sao để những người nghèo nhất có thể thách thức để buộc tất </i>

<i>cả các quan chức phải tôn trọng họ; mặc dù căn nhà của họ có thể là xập xệ, mái của nó có thể lắc, gió có thể thổi, các cơn bão có thể vào, mưa có thể xâm nhập nhưng ngay </i>

<small>1 Privacy and Human Rights Report (2006), truy cập ngày 15/4/2023. </small>

<small>2</small><i><small> Điều 21 Bộ Luật Hammurabi quy định: “Nếu dân tự do xâm phạm chỗ ở của người khác thì bị xử tử và chôn </small></i>

<i><small>ngay ở chỗ đã xâm phạm”. </small></i>

<small>3</small><i><small> Trong Luật La Mã: “Các hình phạt khác nhau được áp dụng cho những người đột nhập vào nhà, vì những người </small></i>

<i><small>đột nhập vào ban đêm là tàn bạo hơn, và do đó họ thường bị đánh địn và kết án vào các mỏ. Tuy nhiên, những người đột nhập vào ban ngày, đầu tiên bị đánh đòn, và sau đó bị kết án lao động khổ sai suốt đời hoặc trong một thời gian nhất định.” </small></i>

<small>4</small><i><small> Thái Thị Tuyết Dung (2012), Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.118-119. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>cả vua nước Anh cũng không thể tùy tiện vào nhà họ được”. Các quốc gia khác nhau đã </i>

phát triển các biện pháp bảo vệ cụ thể cho quyền riêng tư trong nhiều thế kỷ sau đó. Năm 1776, Quốc hội Thụy Điển ban hành Đạo luật Quyền truy cập vào hồ sơ công khai, yêu cầu tất cả thông tin do Chính phủ nắm giữ cho các mục đích hợp pháp. Bộ luật Hình

<i>sự năm 1889 của Na Uy cấm xuất bản thông tin liên quan đến “công việc cá nhân hoặc </i>

<i>đối nội”</i><small>5</small>.

Đến thế kỷ thứ XX, vào năm 1890, nghiên cứu của hai luật gia người Mỹ là Louis D. Brandeis và Samuel D. Warren là “Right to Privacy” được xuất bản trên tạp chí Harvard Law Review. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả lập luận rằng khi chính

<i>trị, xã hội và kinh tế thay đổi, luật pháp phải phát triển và tạo ra các quyền mới để “đáp </i>

<i>ứng nhu cầu của xã hội”. Tác giả chỉ ra hai hiện tượng gây ra mối đe dọa đối với quyền </i>

riêng tư: phát triển công nghệ (cụ thể là bức ảnh chụp) và tin đồn, đã trở thành như một giao dịch trên báo chí<small>6</small>. Bài viết được xem là một trong những tác phẩm có tầm quan trọng, là nền tảng phát triển của những quy định pháp luật về quyền riêng tư tại Hoa Kỳ nói riêng và của lý thuyết về quyền riêng tư hiện đại nói chung.

Đến nay, quyền riêng tư được xem là một trong những quyền cơ bản của con người. Mặc dù quyền riêng tư có lịch sử hình thành từ rất lâu đời nhưng chỉ mới chính thức được ghi nhận lần đầu tiên trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948 (UDHR) tại Điều 12<small>7</small>. Quyền riêng tư được tái khẳng định là quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người chẳng hạn như: Công ước về bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản (Điều 8), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Điều 17); Công ước về quyền của người lao động nhập cư (Điều 14); Công ước về quyền trẻ em (Điều 16); Công ước về quyền của người khuyết tật (Điều 22),... Ở văn kiện của quốc gia, hầu như mọi quốc gia đều công nhận quyền riêng tư trong Hiến pháp của mình. Ở nhiều quốc gia nơi quyền riêng tư không được công nhận rõ ràng trong Hiến pháp, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Ireland và Ấn Độ, các tịa án đã xác định quyền đó trong quy định của các đạo luật khác. Ở nhiều quốc gia, các thỏa thuận quốc tế công nhận quyền riêng tư như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị hoặc Cơng ước châu Âu về quyền con người đã được thơng qua thành luật<small>8</small>.

Tóm lại, quyền riêng tư có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử và nó sơ khai xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phát triển cho đến

<small>5 Privacy and Human Rights Report 2006, truy cập ngày 27/7/2023. </small>

<small>6</small><i><small> Chu Hồng Thanh, (2020), Nhận thức pháp lý về quyền riêng tư, Tạp chí Luật sư, nguồn: </small></i>

<small> truy cập ngày 19/2/2023. </small>

<small>7</small><i><small> Lukács, A, (2016), What is privacy? The history and definition of privacy, p.257. </small></i>

<small>8 Global Internet liberty campaign, “Privacy and human rights - An International Survey of Privacy Laws and Practice” (2004), </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

ngày nay. Quyền riêng tư cũng được thừa nhận trong các công ước quốc tế và hầu hết trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới.

Những năm cuối thế kỉ XX đánh dấu sự phổ cập rộng khắp của mạng Internet. Thời đại công nghệ số bắt đầu phát triển, những tiến bộ về công nghệ thông tin, thiết bị kết nối với Internet và phân tích dữ liệu diễn ra với tốc độ chóng mặt. Sự phát triển này đã có ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền về sự riêng tư của con người. Những năm 1960 – 1970, sự quan tâm về quyền riêng tư tăng nhanh chóng, cùng thời điểm đó đã có nhiều luật được ban hành bảo vệ dữ liệu trên thế giới như ở Hesse, Đức (1970), sau đó Thụy Điển (1973), Hoa Kỳ (1974), Đức (1977) và Pháp (1978)<small>9</small> và những tác phẩm nổi tiếng bàn về quyền riêng tư như cuốn sách Riêng tư và tự do (Privacy and freedom) của giáo sư luật học Alan F. Westin, bài tiểu luận Quyền riêng tư (Privacy) của giáo sư Charles Fried công bố năm 1968 trên Yale Law Journal,… Từ đó, các quốc gia, tổ chức liên chính phủ lần lượt cho ra đời luật về bảo vệ quyền riêng tư trên khơng gian mạng. Hiện có hơn 80 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản và cả Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Theo các nước, quyền bảo vệ dữ liệu cá nhân là quyền riêng tư và được pháp luật bảo vệ.<small>10</small>

Trong quá trình nghiên cứu và xây dựng pháp luật để bảo vệ quyền riêng tư của công dân trên không gian mạng, các quốc gia đều chú ý đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương là “trẻ em”. Trẻ em hiện nay là đối tượng lớn lên trong thời đại bùng nổ công nghệ số, trẻ em có nhiều cơ hội được tiếp cận với Internet hơn, trong khi đó, “nhóm yếu thế” này chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình. Các chủ thể khác có thể sử dụng nền tảng cơng nghệ vơ tình hoặc cố tình để xâm phạm đến quyền riêng tư của trẻ. Chính vì thế, quyền riêng tư đối với trẻ em trên không gian mạng lại càng cần đặc biệt chú trọng, cần có những quy định đặc thù. Các quốc gia vẫn cịn đang trong q trình nghiên cứu soạn thảo, sửa đổi bổ sung đạo luật về liên quan quyền riêng tư trong thời đại công nghệ số, có xu hướng quy định chế định riêng về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng.

<i><b>1.1.2 Khái niệm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </b></i>

<i>Khái niệm “trẻ em” ở mỗi quốc gia là khác nhau, phụ thuộc vào những đặc điểm </i>

sinh học, tâm lý, trình độ giáo dục, chương trình chăm sóc sức khỏe của mỗi quốc gia. Cơng ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989 (Công ước) là một văn kiện quốc tế làm nền tảng pháp lý cơ bản và quan trọng nhất để bảo đảm quyền của trẻ em trên

<small>9</small><i><small> Thái Thị Tuyết Dung (2012), Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, Nxb. </small></i>

<small>Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.120. </small>

<small>10 Vũ Bình Minh (2022), “Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) của Liên minh châu Âu và giá trị tham khảo cho Việt Nam”, truy cập ngày 21/02/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>toàn cầu. Theo Điều 1 của Công ước, khái niệm trẻ em được hiểu như sau: “Trẻ em là </i>

<i>người dưới 18 tuổi trừ khi pháp luật quốc gia có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. </i>

Theo quy định này, những người dưới 18 tuổi trên tồn thế giới khơng phân biệt giới tính, tơn giáo, dân tộc, màu da, giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay ốm đau, đều là đối tượng được Công ước bảo vệ, chỉ trừ trường hợp pháp luật quốc gia có quy định tuổi thành niên sớm hơn. Trong các văn kiện của Liên Hợp Quốc sử dụng đồng thời các thuật ngữ “Trẻ em”, “Người chưa thành niên”, tuy hai thuật ngữ này có khái niệm khơng hồn tồn thống nhất nhưng nhìn chung hai thuật ngữ này đều hướng tới những đối tượng là người dưới 18 tuổi hay những người chưa đạt đến độ tuổi trưởng thành nhất định<small>11</small>.

Ở Việt Nam, dưới góc độ ngơn ngữ thì thuật ngữ “riêng tư” theo từ điển tiếng

<i>Việt (do Nguyễn Như Ý chủ biên) được hiểu là: “Riêng của từng người, từng cá nhân: </i>

<i>Tình cảm riêng tư - cuộc sống riêng tư”</i><small>12</small>. Trong khi đó, theo từ điển tiếng Anh

<i>Cambridge thì quyền riêng tư (privacy) được hiểu là: “Ai đó có quyền giữ bí mật về các </i>

<i>vấn đề cá nhân và các mối quan hệ của họ”</i><small>13</small>. Từ điển pháp luật Law Dictionary cũng

<i>đưa ra khái niệm về quyền riêng tư (privacy) là: “quyền được ở một mình, đảm bảo </i>

<i>quyền khơng bị cơng khai khơng chính đáng. Nó thường được cơng nhận là quyền vốn có trong quyền tự do”<small>14</small>. Như vậy, từ điển tiếng Việt chỉ có khái niệm về riêng tư mà </i>

<i><b>chưa có bất kỳ khái niệm hay định nghĩa thế nào là quyền riêng tư. </b></i>

Dưới góc độ nghiên cứu trong khoa học pháp lý cũng đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra quan điểm về quyền riêng tư. Điển hình như theo quan điểm của tác giả TS. Phạm Thị Lan Thảo và TS. Phan Thị Lan Hương thì quyền riêng tư được

<i>hiểu là: “quyền riêng tư được xem là một trong những quyền cơ bản, liên quan mật thiết </i>

<i>đến sự tự tôn và phẩm giá con người. Sự riêng tư trao cho mỗi cá nhân một không gian để là chính mình mà khơng bị người khác phán xét một cách vô cớ, cho phép mỗi người một suy nghĩ một cách tự do mà không bị kỳ thị hoặc phân biệt đối xử cũng như khả năng kiểm sốt ai được biết gì về bản thân mình”<small>15</small>. Bên cạnh đó, hai tác giả cũng đưa </i>

<i>ra khái niệm về quyền riêng tư của trẻ em như sau: “Quyền riêng tư của trẻ em chính là </i>

<i>những đảm bảo pháp lý toàn cầu, bảo đảm cho trẻ em được hưởng sự giúp đỡ, chống lại những xâm hại từ sự can thiệp tùy tiện, bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà </i>

<small>11 Phạm Thị Thanh Nga, Nguyễn Xuân Tĩnh (2017), “Trẻ em và người chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam: </small>

<i><small>Nhìn từ nghĩa vụ thực hiện công ước của LHQ về quyền trẻ em và tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, Tạp </small></i>

<i><small>chí Nhà nước và Pháp luật, số 15(343), tr. 22 </small></i>

<small>12</small><i><small> Nguyễn Như Ý (2011) (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. </small></i>

<small>13 Cambridge Dictionary, truy cập ngày 02/02/2023. </small>

<small>14</small><i><small> Wiley PublishingInc(2006), Law Dictionary, Webster’s New World, p.207. </small></i>

<small>15</small><i><small> Phạm Thị Duyên Thảo, Phan Thị Lan Phương (2020), “Hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền </small></i>

<i><small>riêng tư của trẻ em”, truy cập ngày 02/02/2023. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>cửa hoặc thư tín cũng như sự cơng kích bất hợp pháp vào danh dự và nhân phẩm của trẻ em”<small>16</small></i>.

Còn theo quan điểm của tác giả Ths. Trần Thị Diệu Hà về quyền riêng tư được

<i>hiểu như sau: “quyền riêng tư là quyền của cá nhân được tự do trong phạm vi riêng của </i>

<i>mình, bao gồm cả sự bất khả xâm phạm về các thông tin cá nhân, cơ thể, thông tin liên lạc và nơi cư trú. Quyền riêng tư trao cho cá nhân việc lựa chọn công khai hoặc không công khai các nội dung thuộc về đời sống riêng tư của mình mà khơng bị cá nhân, tổ chức nào tùy tiện sử dụng. Quyền này chỉ bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, lợi ích cơng cộng và sức khỏe cộng đồng”<small>17</small>. </i>

Dưới góc độ của pháp luật quốc tế, quyền riêng tư được coi là một trong các quyền cơ bản của con người và ghi nhận lần đầu tiên trong Tuyên ngôn nhân quyền năm

<i>1948, cụ thể tại Điều 12 của Tuyên ngôn quy định như sau: “Không ai phải chịu sự can </i>

<i>thiệp một cách tùy tiện vào sự riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”. Cịn theo Điều 8 Cơng ước về bảo vệ </i>

<i>nhân quyền và những quyền tự do cơ bản năm 1950 ghi nhận: “Cơ quan công quyền </i>

<i>không được phép can thiệp vào việc thực hiện quyền riêng tư trừ trường hợp pháp luật quy định vì cần thiết cho một xã hội dân chủ hoặc vì lợi ích của an ninh quốc gia, an tồn cơng cộng hoặc vì sự thịnh vượng của đất nước với mục đích ngăn ngừa sự hỗn loạn hoặc tội phạm, bảo vệ sức khỏe hoặc các giá trị đạo đức hoặc bảo vệ quyền và sự tự do của các chủ thể khác”. Bên cạnh đó, Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và </i>

<i>chính trị năm 1966 cũng đã ghi nhận quyền riêng tư tại Điều 17, cụ thể như sau: “Không </i>

<i>ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở thư tín hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những hành vi can thiệp hoặc xâm phạm như vậy”. </i>

Nhìn chung, quyền riêng tư của trẻ em là một khía cạnh của quyền riêng tư, được Cơng ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989 quy định chi tiết. Cơng ước có 54 điều khoản bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của trẻ và đặt ra các quyền như quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, trong đó có quyền riêng tư mà tất cả trẻ em ở khắp mọi nơi đều được hưởng, quy định cụ thể tại Điều 16 của Công ước như

<i>sau: “Không trẻ em nào phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng </i>

<i>tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự cơng kích bất hợp pháp vào danh </i>

<small>16 Phạm Thị Duyên Thảo, Phan Thị Lan Phương (2020), “Hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em”, truy cập ngày 02/02/2023 </small>

<small>17</small><i><small> Trần Thị Diệu Hà (2022), “Bàn về khái niệm quyền riêng tư trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật và </small></i>

<i><small>Thực tiễn, số 51/2022, tr.9. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>dự và thanh danh của các trẻ em. Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp hay cơng kích như vậy”. </i>

Có thể nói cho đến nay pháp luật quốc tế vẫn chưa có khái niệm thống nhất thế nào là quyền riêng tư, khái niệm về quyền riêng tư ở mỗi quốc gia sẽ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị của từng quốc gia mà cách hiểu về quyền riêng tư sẽ khác nhau. Ở nhiều nước, khái niệm quyền riêng tư đã được hợp nhất với khái niệm bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó, sự riêng tư chính là việc quản lý thơng tin cá nhân<small>18</small>.

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990 mà không bảo lưu điều khoản nào<small>19</small>. Việt Nam đã tiến hành nội luật hóa pháp luật trong nước sao cho phù hợp với Cơng ước và tình hình văn hóa, xã hội trong nước, cụ thể theo Điều 1 Luật trẻ em

<i>2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. </i>

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, chưa có bất kỳ khái niệm thế nào là quyền riêng tư. Khi nói về quyền riêng tư thì phần lớn mọi người chỉ quan tâm đối với vấn đề về bí mật đời tư, bao gồm: quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Quyền riêng tư được quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản quy phạm

<i>pháp luật khác, cụ thể như Điều 21 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm </i>

<i>phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an tồn. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm sốt, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư của người khác”. </i>

<i>Cịn thuật ngữ “không gian mạng” được hiểu là “mạng lưới kết nối của cơ sở hạ </i>

<i>tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thơng, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”<small>20</small>. </i>

Với sự phát triển của công nghệ thông tin phát như hiện nay, các trang mạng xã hội trên Internet, các công cụ công nghệ thông minh phát triển như vũ bão, con người tiếp cận công nghệ thông tin, Internet như một phần tất yếu trong cuộc sống thì quyền riêng tư của con người như các thông tin cá nhân, hình ảnh, đời tư ngày càng khó bảo mật, có nguy cơ bị xâm phạm ngày càng nhiều. Đó cũng là thách thức đặt ra trong việc

<small>18</small><i><small> Trương Thị Hương Mai (2019), Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Khóa luận </small></i>

<i><small>tốt nghiệp, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 13-14. </small></i>

<small>19</small><i><small> Trương Thị Hương Mai (2019), Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Khóa luận </small></i>

<i><small>tốt nghiệp, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 55 </small></i>

<small>20 Khoản 3 Điều 2 Luật An ninh mạng năm 2018. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

làm thế nào để giữ bí mật về thơng tin cá nhân, hình ảnh, đời tư của trẻ em trên không gian mạng ngày càng trở nên phức tạp. Có thể nói khơng gian mạng rất phức tạp, trẻ em lại là đối tượng “yếu thế” hoặc có thể là nạn nhân trên khơng gian mạng (ví dụ: trẻ em bị phát tán hình ảnh trên khơng gian mạng, bị lộ thông tin cá nhân, đời sống cá nhân một cách bất hợp pháp). Trẻ em chưa có đầy đủ nhận thức, tư duy cũng như chưa có đủ khả năng tự bảo vệ bản thân mình, tham gia vào không gian mạng một cách thụ động. Do đó, trẻ em có thể sẽ đối mặt nguy cơ bị xâm hại quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng là rất cao.

Pháp luật Việt Nam chưa có bất kỳ khái niệm nào về quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng, có thể thấy nội hàm của cụm từ này đó là quyền được giữ bí mật đời sống, thơng tin cá nhân, bí mật cá nhân, gia đình… khơng chủ thể nào trong xã hội có quyền xâm phạm, cơng khai về cuộc sống riêng tư, thơng tin, hình ảnh, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như xúc phạm danh dự, nhân phẩm của trẻ em trên không gian mạng, trừ khi được cá nhân (trẻ em) đó đồng ý. Thơng qua việc phân tích các khái niệm và quan điểm về quyền riêng tư ở phần trên, nhóm tác giả đã đút kết và đưa ra khái niệm

<i>về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng như sau: Quyền riêng tư của trẻ em </i>

<i>trên không gian mạng là quyền của cá nhân được giữ bí mật về đời sống, thơng tin cá nhân, bí mật cá nhân và các thông tin riêng tư khác liên quan đến trẻ em trên không gian mạng mà không chịu sự can thiệp bất hợp pháp của bất kỳ chủ thể nào trong xã hội, trừ trường hợp cần thiết pháp luật quy định vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, lợi ích cơng cộng và sức khỏe cộng đồng. </i>

<i><b>1.1.3 Đặc điểm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </b></i>

Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng là một quyền quan trọng của trẻ em trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, bao gồm một số đặc điểm đặc trưng như sau:

<i>Thứ nhất, về văn bản ghi nhận quyền. </i>

Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng được quy định trong rất nhiều văn bản khác nhau. Đây là một trong những quyền cơ bản của con người nên cả pháp luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia đều rất quan tâm quy định về quyền riêng tư bên cạnh những quyền cơ bản khác như quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe,… Có rất nhiều văn bản quốc tế liên quan đến nhân quyền có đề cập đến quyền riêng tư như: Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền, Công ước châu Âu về Nhân quyền, Công ước châu Mỹ về Nhân quyền. Tuy nhiên, các văn bản trên chỉ đề cập đến quyền riêng tư nói chung chứ đa số khơng đề cập đến quyền riêng tư của trẻ em hay quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng. Theo những văn bản này, trẻ em cũng là một con người cho nên quyền trẻ em sẽ được điều chỉnh chung trong quyền con người. Ngoài ra, quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sự phát triển của Internet, quá trình hiện đại hóa quốc gia, dân trí,…Cho nên, pháp luật quốc tế chỉ có thể điều chỉnh chung nhất về quyền trẻ em trong các Công ước, văn bản luật quốc tế về quyền trẻ em hay nhân quyền và chia ra rất nhiều khía cạnh để điều chỉnh.

Pháp luật các quốc gia cũng rất quan tâm điều chỉnh quyền trẻ em trong Hiến pháp và nhiều đạo luật khác có liên quan nhưng đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa xây dựng được những văn bản quy định và áp dụng quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng một cách cụ thể, rõ ràng mà quy định trong nhiều văn bản liên quan đến bảo mật thông tin, an ninh mạng, luật trẻ em,...

<i>Thứ hai, về chủ thể của quyền </i>

Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng là quyền của trẻ em. Đây trước hết là quyền con người. Mỗi cá nhân sinh ra đều có các quyền tự nhiên cơ bản như quyền được sống, quyền được học tập, quyền được phát triển,… và quyền riêng tư là một quyền quan trọng trong số đó. Nhóm quyền này có liên quan mật thiết và ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc sống con người nói chung. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới ngày nay đều chú trọng đưa quyền con người vào các quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp nước ta đã đưa

<i>quyền riêng tư vào phần quy định về quyền con người: “Mọi người có quyền bất khả </i>

<i>xâm phạm về đời sống riêng tư”. “Mọi người” ở đây là một từ chung dùng để chỉ con </i>

người, không phân biệt tuổi tác, địa vị, tơn giáo, sắc tộc. Vì vậy, trẻ em cũng là đối tượng bảo vệ của quyền riêng tư.

Ngoài ra, quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng cịn liên quan đến quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.

<i>Nhóm người dễ bị tổn thương theo pháp luật quốc tế là những người “có vị thế </i>

<i>về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”</i><small>21</small>. Trẻ em là một trong mười hai nhóm người dễ bị tổn thương được quy định trong các văn bản luật quốc tế. Vì vậy, trẻ em cần được ưu tiên quan tâm và chăm sóc đặc biệt hơn so với các đối tượng khác, cần có những văn bản, những quy định riêng để quy định về quyền riêng tư của trẻ em. Ngoài ra, cách thức quy định về quyền riêng tư của trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng nói riêng cũng cần thể hiện được tính đặc thù để bảo vệ nhóm đối tượng này một cách triệt để.

<small>21</small><i><small> Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. </small></i>

<small>Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 23. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i> Thứ ba, về nội dung của quyền </i>

Có nhiều ý kiến cho rằng quyền riêng tư nói chung có mâu thuẫn với quyền được tiếp cận thơng tin. Tuy nhiên, quyền tiếp cận thông tin, theo nghĩa hẹp, là quyền của mỗi cá nhân đối với việc xem xét hoặc sao chụp các tài liệu được các cơ quan nhà nước nắm giữ; theo nghĩa rộng, quyền tiếp cận thông tin bao quát cả quyền tự do thể hiện ý kiến và thông tin qua việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá thơng tin<small>22</small>. Tinh thần của quyền tiếp cận thông tin là sự cơng khai hóa các hoạt động, các thơng tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ cho công chúng<small>23</small>. Vì vậy, phạm vi của quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng không mâu thuẫn với quyền tiếp cận thơng tin của cơng dân vì quyền riêng tư có thể được hiểu là quyền của mỗi cá nhân được giữ bí mật thơng tin cá nhân, bí mật đời tư của mình; cịn quyền tiếp cận thơng tin là mọi người được tiếp cận với các thông tin liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của các cơ quan công quyền. Nguồn gốc xuất phát của thông tin từ hai quyền này là khác nhau hồn tồn.

Theo đó, ta có thể hiểu, quyền tiếp cận thông tin là quyền cá nhân được tiếp cận với các thông tin của nhà nước, do nhà nước chia sẻ về quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nội hàm của quyền này không cho phép cá nhân tiếp cận hay sử dụng thông tin của các cá nhân khác nên không tạo ra sự mâu thuẫn giữa hai quyền.

<i>Thứ tư, về phạm vi bảo vệ của quyền </i>

Khác với những quyền khác quy định chung về việc bảo vệ con người, quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng quy định rõ phạm vi bảo vệ trẻ em của quyền này là trên không gian mạng. Đây là quyền của trẻ em được bảo vệ trên môi trường ảo, có quan hệ mật thiết với sự phát triển khoa học, công nghệ.

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ hiện đại, hoạt động của con người không chỉ giới hạn ở thế giới thực mà còn mở rộng ra cả thế giới ảo trên không gian mạng. Nhiều người coi không gian mạng là nơi học tập, làm việc, vui chơi chính của bản thân, thời gian con người sử dụng không gian mạng cũng ngày càng dài.

Trẻ em cũng là một trong những đối tượng tiếp xúc với không gian mạng nhưng lại chưa đầy đủ nhận thức nên rất dễ trở thành nạn nhân của các hành vi trái pháp luật trên khơng gian mạng. Vì vậy, việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm nghiên cứu vì nó có những đặc điểm khác biệt với bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trong môi trường truyền thống. Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng cần sự phối hợp và tham gia của rất nhiều cơ quan và các chuyên gia trong lĩnh vực an ninh mạng và công nghệ thông tin để phát hiện và xử lý những đối tượng sử dụng cơng nghệ cao cho mục đích phạm tội.

<small>22</small><i><small> Viện Khoa học Pháp lý (2011), Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp </small></i>

<i><small>luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng luật tiếp cận thông tin”, Hà Nội, 2011. </small></i>

<small>23</small><i><small> Lê Thị Hồng Hạnh (2022), “Quyền tiếp cận thông tin trong hoạt động lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, </small></i>

<small>số 07(455)/kỳ 1, tr.8. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<i><b>1.1.4 Ý nghĩa quy định quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </b></i>

Có thể thấy, trong thời gian qua với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã mang lại những giá trị tích cực cho sự phát triển của cá nhân và toàn xã hội. Mọi người đều có thể dễ dàng truy cập và tìm kiếm thơng tin, đặc biệt là giới trẻ nói chung, trong đó có thiếu niên và trẻ em. Đây là những đối tượng thường xuyên bị xâm phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội. Khơng gian mạng chính là nơi để các đối tượng khác lợi dụng tìm kiếm các thơng tin cá nhân, thơng tin bí mật đời sống riêng tư, xâm phạm hình ảnh, bí mật cá nhân,… Vậy làm thế nào để bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em khi không gian mạng ngày càng trở nên phức tạp là một vấn đề cấp bách và cần được quan tâm bởi các chủ thể trong xã hội.

Trẻ em luôn là đối tượng cần phải được quan tâm và ưu tiên bảo vệ nhất trong xã hội. Bởi lẽ, trẻ em là những cá nhân chưa có đủ sự trưởng thành, chưa có đầy đủ khả năng để bảo vệ mình trước những tác động xấu của xã hội, có nhiều khả năng bị lừa dối, thao túng bởi các cá nhân khác. Có thể nói bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng là trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ quyền của tất cả chủ thể bằng cách tôn trọng các chủ thể ở mọi lứa tuổi. Trong đó trẻ em được xem là chủ thể dễ bị tổn thương, có sự nhạy cảm hơn các lứa tuổi khác trong xã hội. Đối với Nhà nước, pháp luật là công cụ để quản lý các vấn đề phát sinh trong xã hội. Bởi trong đời sống xã hội, pháp luật là phương tiện không thể thiếu, bảo đảm sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng, đồng thời là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới<small>24</small>. Thơng qua đó, các quyền của

<i>trẻ em được thực thi và bảo vệ một cách tốt nhất. </i>

Xây dựng quy định quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng tạo điều kiện cho các chủ thể lựa chọn được cách thức xử lý phù hợp khi có hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em, là cơ sở pháp lý giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình có các cách thức xử lý các biện pháp giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em. Mặt khác quy định quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ, xây dựng những biện pháp phòng ngừa, những cách thức xử lý, chủ động ngăn chặn những tác động tiêu cực của xã hội đối với trẻ em.

Có thể thấy khơng gian mạng ln ln vận động, phát triển và không ngừng biến đổi. Bên cạnh những lợi ích to lớn mà nó đem lại thì khơng gian này cịn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro xâm hại đến quyền riêng tư của trẻ. Trên thực tế, việc các thơng tin, hình

<small>24 Đ.D (2017), “Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội ”, doi-song-xa-hoi-748705312-006322s38410gs?AspxAutoDetectCookieSupport=1, truy cập ngày 20/02/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

của trẻ em trên không gian mạng diễn ra khá phổ biến. Đặc biệt không chỉ những trang web mà trẻ em truy cập tiết lộ thông tin cá nhân của trẻ mà nhiều phụ huynh, người giám hộ của trẻ còn vi phạm do thiếu hiểu biết và nhận thức chưa đầy đủ về tác hại của vấn đề này. Việc quy định quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng có tác động vơ cùng lớn không chỉ đối với bản thân trẻ em mà cịn đối với phụ huynh gia đình và chủ thể thứ ba. Phụ huynh có cái nhìn đa chiều hơn về việc bảo vệ quyền riêng tư của con em mình có sự quan tâm, giám sát, chỉ bảo con em trong việc tiếp xúc với môi trường mạng giúp cho trẻ hình thành những thói quen và biết tự phòng vệ để hạn chế mức thấp nhất những rủi ro khơng đáng có sử dụng các trang mạng xã hội, Internet,… Bởi lẽ gia đình chính là lá chắn vững chắc nhất để bảo vệ con em mình khỏi những tác động tiêu cực từ không gian mạng. Các chủ thể khác có cách tiếp cận thơng tin một cách hợp pháp, phù hợp đảm bảo cho trẻ em được vui chơi và phát triển bình thường. Đem đến một khơng gian mạng an tồn và lành mạnh là cách tốt nhất để bảo vệ trẻ em.

<b>1.2 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới </b>

<i><b>1.2.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ </b></i>

<i>1.2.1.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo quy định của Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ </i>

Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787 không quy định về quyền riêng tư, tuy nhiên các Tu chính án của Hiến pháp đã khắc phục hạn chế này. Các bản Tu chính án theo hướng bảo vệ các khía cạnh cụ thể của quyền riêng tư. Tu chính án thứ

<i>nhất đã bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân về tự do tôn giáo: “Nghị viện không ban hành </i>

<i>một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngơn luận, báo chí, quyền của dân chúng được hội họp hịa bình và kiến nghị chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình”. Tu chính án thứ ba bảo vệ quyền riêng tư và bất khả </i>

<i>xâm phạm về nhà ở của cá nhân chống lại sự tùy tiện của quân đội: “Không một qn </i>

<i>nhân nào trong thời bình được đóng qn trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của gia chủ, và ngay trong thời chiến cũng chỉ được phép theo phương thức do pháp luật quy định”. Tu chính án thứ tư bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân và tài sản </i>

<i>chống lại sự xâm phạm bất hợp pháp của chính phủ: “Quyền của con người được đảm </i>

<i>bảo về thân thể, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và thu giữ sẽ không bị vi phạm. Không một lệnh bắt giam hoặc khám xét nào được cấp nếu khơng có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận trong đó đặc biệt miêu tả rõ địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ”. Tu chính án thứ năm bảo vệ quyền con người liên </i>

<i>quan đến tư pháp hình sự: “Không một ai bị buộc phải trả lời về một tội nghiêm trọng </i>

<i>hay một tội xấu xa khác nếu khơng có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn, </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i>trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dân quân, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng cộng động đang gặp nguy hiểm. Không một ai bị xét xử hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng luật; khơng một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà khơng được bồi thường thích đáng”. Ngồi ra, Tu chính án thứ chín bổ sung “việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không đồng nghĩa với phủ nhận hay hạ thấp các </i>

<i><b>quyền công dân khác” để bảo vệ quyền riêng tư theo những cách không được cung cấp </b></i>

cụ thể trong tám Tu chính án đầu tiên. Khi nói về Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ và vai trị của nó trong việc bảo vệ quyền riêng tư, khơng thể khơng nhắc đến Tu chính án thứ mười bốn<small>25</small><i>. Tu chính án thứ mười bốn quy định: “Tất cả những người sinh ra trên lãnh </i>

<i>thổ Hoa Kỳ hoặc được nhập quốc tịch ở Hoa Kỳ và thuộc thẩm quyền tài phán ở đó, đều là cơng dân của Hoa Kỳ và của bang mà họ sinh sống. Không một bang nào được ban hành hoặc thực thi bất cứ đạo luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất khả xâm phạm của công dân Mỹ. Cũng khơng một bang nào có thể tước đoạt sinh mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà khơng theo một quy trình do luật định. Các bang cũng không thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó”. </i>

Các tu chính án là cơ sở pháp lý vững chắc để các Tòa án ở Hoa Kỳ bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. Tịa án Tối cao Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1923 cho đến nay đã thơng qua các phán quyết của mình để đảm bảo quyền riêng tư của cơng dân. Tịa án Hoa Kỳ vào những năm 1920 đã ra hai phán quyết về quyền riêng tư dựa trên quy định của Tu chính án thứ mười bốn. Meyer kiện Nebraska (1923) và vụ Pierce kiện Society of Sisters (1925). Ngồi ra cịn có vụ án Stanley kiện bang Georgia (1969), vụ án Griswold kiện bang Connecticut (1965), vụ án Roe kiện Wade (1972), vụ án Ravin kiện bang Alaska (1975), vụ kiện Moore kiện East Cleveland (1977), vụ án Cruzan kiện Missouri (1990) vụ án Lawrence kiện bang Texas (2003)<small>26</small>,… Đây là những án lệ nổi bật về quyền riêng tư trong thực tiễn xét xử của Hoa Kỳ cho thấy sự đa dạng và phức tạp của việc xác định nội hàm của quyền riêng tư.

Vậy quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng nói riêng khơng được đề cập trong Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ năm 1787. Quyền riêng

<small>25</small><i><small> Thái Vĩnh Hằng (2017), “Bảo vệ quyền riêng tử ở Mỹ, Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học </small></i>

<small>số 8/2017, tr.91. </small>

<small>26 “The Right of Privacy: The Issue: Does the Constitution protect the right of privacy? If so, what aspects of privacy receive protection?”, truy cập ngày 22/2/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tư theo pháp luật liên bang Hoa Kỳ có nội hàm rất rộng thông qua việc bổ sung các tu chính án và giải thích tịa án trong các án lệ.

<i>1.2.1.2 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo quy định của Luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng năm 1998 </i>

Hiện nay, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ chưa ban hành luật cấp liên bang quy định các nguyên tắc chung bảo vệ quyền riêng tư nhưng vấn đề này đã được nêu trong nhiều văn bản pháp luật ban hành theo cụ thể từng ngành, từng đối tượng. Ở Hoa Kỳ có một số đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân như: Đạo luật về quyền riêng tư năm 1974 (Privacy Act 1974) bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trước việc thu thập, duy trì, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân bởi các cơ quan liên bang. Đạo luật Quyền riêng tư và Quyền giáo dục gia đình năm 1974 (Family Educational Rights and Privacy Act 1974) bảo vệ quyền riêng tư của hồ sơ giáo dục của học sinh; Đạo luật Bảo vệ quyền riêng tư của video năm 1988 (Video Privacy Protection Act 1988) nghiêm cấm các doanh nghiệp cho thuê hoặc bán băng video cố ý tiết lộ “thông tin nhận dạng cá nhân” về người tiêu dùng của họ, bao gồm thông tin về các tài liệu video cụ thể mà khách hàng đã mua hoặc thuê; Đạo luật Riêng tư trong Liên lạc điện tử năm 1986 (Electronic Communication Privacy Act 1986) bảo vệ các cá nhân chống lại việc chặn bất hợp pháp thông tin liên lạc điện tử của Chính phủ Liên bang hoặc các cá nhân, tổ chức khác; Luật về Trách nhiệm giải trình và trách nhiệm bảo hiểm y tế năm 1996 (Health Insurance Portability and Accountability Act 1996) đảm bảo tính bảo mật của bệnh nhân đối với tất cả các dữ liệu liên quan đến chăm sóc sức khỏe,…

Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng khi ban hành luật chuyên ngành cấp liên bang để bảo vệ thông tin của trẻ em trên không gian mạng gọi là Đạo luật Bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến của trẻ em năm 1998 (Children’s Online Privacy Protection Act 1998 - gọi tắt là COPPA ). Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng là đạo luật cấp liên bang được ban hành năm 1998 và có hiệu lực năm 2000. Ủy ban Thương mại Liên bang (Ủy ban) ban hành và thực thi các quy định liên quan đến quyền riêng tư trên mạng của trẻ em. Đạo luật này nghiêm cấm các trang web điện tử thu thập thông tin cá nhân của trẻ em nếu khơng có

<i>sự đồng ý của cha mẹ. </i>

<i>Thứ nhất, về độ tuổi pháp lý của trẻ em </i>

Theo COPPA, định nghĩa “trẻ em” là bất kì cơng dân nào dưới 13 tuổi<small>27</small>. Theo pháp luật Hoa Kỳ, trẻ em thường là cá nhân dưới tuổi thành niên. Tuổi thành niên ở hầu hết các bang là 18 tuổi<small>28</small>. Theo Bộ luật Liên bang Hoa Kỳ (42 U.S. Code 619(2)), trẻ em

<small>27 Điều 1 Luật Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Liên bang Hoa Kỳ năm 1998. </small>

<small>28 Tuổi thành niên của 47 trên 51 bang là 18 tuổi, bang Alabama và bang Nebraska, tuổi thành niên là 19 tuổi; bang Mississippi, tuổi thành niên là 21 tuổi. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

là người dưới 18 tuổi hoặc là người dưới 19 tuổi và đang học toàn thời gian với tư cách là học sinh trung học. Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch (INA) định nghĩa trẻ em là người chưa kết hôn và dưới 21 tuổi. Tùy vào từng đạo luật khác nhau mà độ tuổi để xác định một người là trẻ em cũng khác nhau, nhưng nhìn chung pháp luật Hoa Kỳ hầu hết vẫn xác định trẻ dưới 18 tuổi là trẻ em. Vậy, có sự khác nhau giữa trong việc xác định độ tuổi pháp lý của trẻ em. Mặc dù, pháp luật Hoa Kỳ vẫn xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, nhưng độ tuổi pháp lý trẻ em được bảo vệ theo quy định của COPPA là trẻ dưới 13 tuổi.

Việc xác định độ tuổi pháp lý của trẻ em trong COPPA là 13 tuổi không phải đề xuất của Ủy ban hay ý định của các nhà lập pháp. Theo nghiên cứu của Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ năm 1998, 89% trang web dành cho trẻ em đã thu thập thông tin cá nhân, chỉ có 10% cung cấp quyền kiểm sốt thơng tin cá nhân của trẻ cho cha mẹ. Lo ngại về quyền riêng tư của trẻ em trên mạng nên Ủy ban khuyến nghị Quốc hội xây dựng luật để cha mẹ kiểm sốt việc thu thập dữ liệu thơng tin cá nhân của con cái họ<small>29</small>. Trong

<i>bài báo cáo đến Quốc hội năm 1998, Ủy ban đã nhận định: “Trong bối cảnh thương </i>

<i>mại, Quốc hội và các tổ chức công nghiệp tự quản đã phân biệt giữa trẻ em từ 12 tuổi trở xuống-những người đặc biệt dễ bị các nhà tiếp thị tiếp cận quá mức và trẻ em trên 12 tuổi- những người có thể phù hợp với các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ nhưng linh hoạt hơn. Trong mỗi trường hợp, mục tiêu của các yêu cầu lập pháp phải là công nhận vai trò của cha mẹ đối với việc thu thập thông tin từ trẻ em”</i><small>30</small><i>. </i>

Mục tiêu ban đầu của họ là nâng cao trách nhiệm của cha mẹ đối việc bảo vệ quyền riêng tư của con cái trong môi trường trực tuyến. Nhận thấy độ tuổi trẻ em từ 12 tuổi trở xuống là đối tượng đặc biệt dễ tổn thương, chưa đủ nhận thức về sự an tồn của mình khi tham gia trang mạng trực tuyến nên cần có sự tham gia của cha mẹ giúp bảo vệ quyền riêng tư của con, đối với độ tuổi lớn hơn có thể áp dụng biện pháp linh hoạt khác. Trong khi đó, dự luật ban đầu được đề xuất bởi hai thượng nghị sĩ Bryan and

<i>McCain bao gồm các yêu cầu rằng các nhà khai thác “sử dụng những nỗ lực hợp lý để </i>

<i>cung cấp cho cha mẹ thông báo và cơ hội để ngăn chặn hoặc hạn chế việc thu thập hoặc sử dụng thông tin cá nhân được thu thập từ trẻ em trên 12 tuổi và dưới 17 tuổi”<small>31</small>. </i>

Thượng nghị sĩ Markey, một đồng tác giả của COPPA vào năm 1998, trong dự luật của ông định nghĩa trẻ em là người dưới 16 tuổi<small>32</small>.

<small>29 Martha K. Landesberg Et Al., Federal Trade Commission (1998), Privacy Online: A Report To Congress, p.iii </small>

<small>30Martha K. Landesberg Et Al., Federal Trade Commission (1998), Privacy Online: A Report To Congress, p.42 </small>

<small>31 Dự luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em năm 1998 (Bill: S 2326 Children's Online Privacy Protection Act (1998), § 3(a) (iii)), </small>

<small>32 Johnson, Ariel Fox (2019), "13 Going on 30: An Exploration of Expanding COPPA’s Privacy Protections to </small>

<i><small>Everyone," Seton Hall Legislative Journal: Vol. 44: Iss. 3, Article 1, p.424-425. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Việc xác định độ tuổi của trẻ em là người dưới 16 tuổi đã có nhiều ý kiến phản đối. Có ý kiến cho rằng, việc yêu cầu một đứa trẻ mười lăm tuổi phải có sự đồng ý của cha mẹ trước khi nó có thể truy cập một số trang web nhất định hoặc truy cập một số thông tin trực tuyến nhất định hạn chế quyền truy cập thông tin của trẻ<small>33</small>. Chúng ta không thể phủ nhận trong thời đại mạng trực tuyến phát triển, việc mở rộng quyền truy cập thông tin cũng được đặt ra. Việc giới hạn độ tuổi cần có sự đồng ý của cha mẹ trước khi thu thập thông tin sẽ ảnh hưởng quyền truy cập thông tin của con. Đến cuối cùng, COPPA được Quốc hội Hoa Kỳ thơng qua có định nghĩa trẻ em là người dưới 13 tuổi.

<i>Thứ hai, về nội dung của quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </i>

Đối tượng điều chỉnh thuộc phạm vi của COPPA là các trang web, dịch vụ trực tuyến hướng đến trẻ em. Ủy ban xem xét nhiều yếu tố để xác định một trang web hoặc dịch vụ trực tuyến có hướng đến trẻ em như: chủ đề, nội dung hình ảnh, sử dụng các nhân vật hoạt hình hoặc các hoạt động và khuyến khích hướng đến trẻ em, âm nhạc hoặc nội dung âm thanh khác, tuổi của người mẫu, sự hiện diện của trẻ em hoặc người nổi tiếng thu hút trẻ em, ngôn ngữ hoặc các đặc điểm khác của trang web hoặc dịch vụ trực tuyến, cũng như quảng cáo quảng bá hoặc xuất hiện trên trang web hoặc dịch vụ trực tuyến có hướng đến trẻ em hay khơng. Ủy ban cũng sẽ xem xét các bằng chứng thực nghiệm có thẩm quyền và đáng tin cậy liên quan đến thành phần khán giả và bằng chứng liên quan đến đối tượng dự định. Nếu các trang web hoặc dịch vụ trực tuyến có các yếu tố trên nhưng khơng thu thập thông tin của trẻ em trước khi thu thập thông tin về độ tuổi hoặc ngăn chặn việc thu thập, sử dụng hoặc tiết lộ thông tin cá nhân từ những người truy cập tự nhận mình là dưới 13 tuổi trước khi nhận được sự đồng ý của cha mẹ chúng thì cũng khơng xem là trang web và dịch vụ trực tiếp hướng đến trẻ em. Một trang web hoặc dịch vụ trực tiếp cũng có thể được xem là trang web hướng đến trẻ em nếu học biết rằng họ đang thu thập thông tin cá nhân từ trang web hoặc dịch vụ trực tuyến hướng đến trẻ em. Ví dụ, trang mạng quảng cáo thu thập thông tin người dùng từ trang web dành cho trẻ em thì trang web đó được xem là trang web hướng đến trẻ em. Từ quy định trên ta có thể hiểu yếu tố quan trọng “thu thập thông tin cá nhân của trẻ dưới 13 tuổi” xác định một trang web và dịch vụ trực tuyến có thuộc phạm vi điều chỉnh của COPPA hay không, các trang web và dịch vụ trực tuyến hướng đến trẻ em, các trang web hoặc dịch vụ trực tuyến hướng đến đối tượng chung nhưng có thu thập thơng tin cá nhân của trẻ dưới 13 tuổi<small>34</small><i>, gọi chung là trang web hoặc dịch vụ trực tuyến. </i>

Thông tin cá nhân được định nghĩa bằng biện pháp liệt kê: (1) họ và tên; (2) địa chỉ; (3) địa chỉ email; (4) số điện thoại; (5) số an sinh xã hội; (6) bất kỳ số nhận dạng

<small>33</small><i><small> Julie Jargon (2019), How 13 became the internet’s age of adulthood. The Wall Street Journal. </small></i>

<small>34 Điều 321.2 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nào khác mà Ủy ban xác định cho phép liên hệ trực tiếp hoặc trực tuyến của một cá nhân cụ thể. “Thông tin cá nhân” bao gồm tên, địa chỉ thực hoặc điện tử và thông tin định vị địa lý. Ủy ban thương mại liên bang được quyền mở rộng định nghĩa về thông tin cá nhân mà ở đó Ủy ban xác định rằng liên hệ trực tiếp hoặc trực tuyến của một cá nhân.

<i>Năm 2013, Ủy ban đã bổ sung thêm bao gồm “nhận dạng liên tục” chỉ ra rằng nó có thể </i>

được sử dụng để xác định người dùng theo thời gian và trên các trang web hoặc dịch vụ trực tuyến khác nhau. Một số nhận dạng liên tục có thể được sử dụng để theo dõi thói quen của người dùng đó xem như việc xâm phạm quyền riêng tư. Từ năm 2013, các trang web sử dụng định dạng liên tục đối với trẻ em dưới 13 tuổi được xem là vi phạm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng.

<i>Thứ ba, cơ chế bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </i>

Ủy ban thương mại liên bang Hoa Kỳ là cơ quan có trách nhiệm hướng dẫn thi hành và đảm bảo thực thi quy định COPPA. Theo đó, Ủy ban có quyền ban hành các quy tắc để thực hiện quy định của pháp luật, đồng thời là xem xét, xử phạt đối với các hành vi vi phạm việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo quy định của COPPA<small>35</small>.

Theo quy định của pháp luật, các nhà điều hành trang web hoặc dịch vụ trực tuyến bị cấm thu thập thông tin trừ trẻ em dưới 13 tuổi, trừ khi có được sự đồng ý của cha mẹ. Nghĩa vụ quan trọng nhất mà các nhà điều hành các trang web dịch vụ trực tuyến phải làm trước khi thu thập thông tin của trẻ em là phải có sự đồng ý của cha mẹ trước khi thu thập thông tin cá nhân của con họ. COPPA quy định thông báo được gửi đến cha mẹ cũng phải rõ ràng, đầy đủ, dễ đọc và dễ hiểu không được chứa thông tin liên quan gây nhầm lẫn. Nội dung bắt buộc phải có của một thơng báo gửi đến cha mẹ: Thông báo về việc đã thu thập thông tin liên hệ của cha mẹ chỉ nhằm mục đích có được sự đồng ý của họ; Sự đồng ý của cha mẹ là cần thiết, nhà điều hành sẽ không thu thập bất kỳ thông tin cá nhân nào từ đứa trẻ nếu cha mẹ không đồng ý; Một liên kết dẫn đến chính sách về quyền riêng tư của trẻ em; Thông tin cá nhân cụ thể sẽ thu thập và cách thức tiết lộ thông tin cho bên thứ ba. Trong nội dung thông báo bắt buộc phải hiện rõ các cách thức cha mẹ có thể hiện sự đồng ý; nếu phụ huynh không đồng ý trong một khoảng thời gian hợp lý, nhà điều hành sẽ xóa thơng tin liên hệ trực tuyến của phụ huynh khỏi hồ sơ của mình.

Quy tắc COPPA không bắt buộc phương pháp mà một công ty phải sử dụng để có được sự đồng ý của phụ huynh. Thay vào đó, các nhà điều hành chọn một phương pháp được thiết kế hợp lý dựa trên công nghệ hiện có để đảm bảo rằng người đưa ra sự đồng ý là cha mẹ của đứa trẻ. Tuy nhiên, Ủy ban đã xác định rằng một số phương pháp

<small>35 Điểm (a) Điều 6505 Luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Hoa Kỳ năm 1989. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

chấp thuận đáp ứng tiêu chuẩn như: Thơng qua mẫu có sẵn, cha mẹ trả lại nhà điều hành thông qua bưu điện, fax,.. yêu cầu cha mẹ sử dụng thẻ tín dụng trong giao dịch, cha mẹ gọi đến số điện thoại miễn phí có nhân viên được đào tạo sẽ trả lời; kết nối với cha mẹ qua hội nghị trực tuyến; xác minh danh tính của phụ huynh bằng cách kiểm tra một mẫu giấy tờ tùy thân do chính phủ cấp.

Tuy nhiên, sự đồng ý của cha mẹ khơng có giá trị ràng buộc vĩnh viễn, khi nhà điều hành thay đổi chính sách liên quan đến việc thu thập và xử lý thông tin của trẻ em cần phải thông báo và nhận sự đồng ý của cha mẹ<small>36</small>, hoặc cha mẹ có thể rút lại sự đồng ý trước đó bất cứ lúc nào<small>37</small>. Cha mẹ cũng có thể u cầu nhà điều hành khơng được thu thập thêm hoặc xóa bỏ thơng tin cá nhân nào của trẻ<small>38</small>, hoặc tùy chọn đồng ý với việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân của trẻ mà không đồng ý tiết lộ thông tin cá nhân của mình cho bên thứ ba<small>39</small>. COPPA trao rất nhiều quyền cho cha mẹ đối với thông tin cá nhân của trẻ em đồng thời cũng là nâng cao trách nhiệm của cha mẹ bảo vệ quyền riêng tư của con trên mạng xã hội.

Vậy, các nhà điều hành trước tiếp cận được thông tin cá nhân của trẻ em, họ phải có sự đồng ý của cha mẹ, người giám hộ của trẻ. Nội dung thông báo đến cha mẹ được COPPA quy định rất cụ thể, rõ ràng và chi tiết, nhằm mục đích có được sự đồng ý có thể xác minh được từ phía cha mẹ.

COPPA cũng có quy định một số trường hợp ngoại lệ khơng cần phải có sự đồng ý để thu thập hoặc sử dụng thông tin của trẻ như: thu thập thông tin liên hệ của cha mẹ do trẻ cung cấp để có được sự đồng ý của họ hoặc thông báo cha mẹ về sự tham gia của con họ vào trang web hoặc dịch vụ không thu thập thông tin cá nhân; thu thập thông tin liên hệ trực tiếp của trẻ để trả lời yêu cầu một lần cụ thể của trẻ (nếu trẻ muốn tham gia một cuộc thi); thông tin liên hệ trực tiếp của trẻ để trả lời yêu cầu nhiều lần cụ thể của trẻ (ví dụ trẻ muốn nhận bản tin); thu thập các thông tin để bảo vệ sự an tồn của trẻ; thu thập vì mục đích đề phịng trách nhiệm pháp lý, cung cấp cho các hoạt động nội bộ<small>40</small>. Nhìn chung, loại thơng tin cá nhân được thu thập chỉ giới hạn ở họ và tên, thông tin liên hệ trực tuyến của cha mẹ và trẻ em, nhận dạng liên tục của trẻ, tùy vào từng trường hoặc mà các nhà điều hành được thu thập loại thơng tin nào, ngồi thơng tin được phép thu thập các nhà điều hành không được thu thập bất kỳ thông tin nào khác. Mặc dù, không

<small>36 Điểm (a)1 Điều 321.5 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

<small>37 Điểm (a)2 Điều 321.6 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

<small>38 Điểm (a)2 Điều 321.6 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

<small>39Điểm (a)2 Điều 321.5 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

<small>40Điểm (c) Điều 321.5 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

cần có sự đồng ý của cha mẹ đứa trẻ để thu thập thông tin nhưng trong vài trường hợp nhà điều hành trang web hoặc dịch vụ trực tuyến phải gửi thông báo đến cho cha mẹ<small>41</small>. Những hợp ngoại lệ chủ yếu xoay quanh đến thu thập thông tin cá nhân của trẻ về cha mẹ để có cách thức liên lạc nhân sự đồng ý của cha mẹ, thông tin để các cung cấp thơng báo cho trẻ, và vì lý do bảo vệ an toàn, trách nhiệm pháp lý và mục đích sử dụng nội bộ. Về nguyên tắc, các nhà điều hành muốn thu thập thông tin cá nhân của trẻ em phải có sự đồng ý của cha mẹ, ngoại lệ rất hạn chế và có những điều kiện khắt khe phải tuân thủ.

Không những các nhà điều hành trang web, dịch vụ trực tuyến phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, mà các nhà điều hành cũng phải thực hiện “ các biện pháp hợp lý” để đảm bảo rằng khi thông tin cá nhân của trẻ em được chia sẻ với bên thứ ba, thì các bên thứ ba đó cũng tuân thủ COPPA<small>42</small>. Điều này có thể hiểu, bên thứ ba không trực tiếp thu thập thông tin của trẻ, mà nhận thông tin gián tiếp thông qua một trang web, dịch vụ trực tuyến khác thì họ vẫn phải tuân thủ quy định của COPPA. Trang web chia sẻ thơng tin với bên thứ ba phải có những biện pháp hợp lý để đảm bảo rằng đối tác của mình phải tuân thủ quy định của pháp luật về vấn đề quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng khi hợp tác.

Khi phát hiện các hành vi vi phạm COPPA, người dân có thể bày tỏ mối quan tâm về quyền riêng tư đến Tổng chưởng lý tiểu bang, Tổng chưởng lý của các tiểu bang thay mặt cho cư dân tiểu bang báo cáo vi phạm lên cơ quan có thẩm quyền xử lý. Với quy định này nâng cao trách nhiệm cơ quan có thẩm quyền của mỗi bang trong việc bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ em. Hơn nữa, họ là những người được đào tạo chuyên môn cũng như có các cơng cụ, phương tiện để phát hiện ra những vi phạm, kịp thời báo với cơ quan có chức năng xử lý, giúp những các vi phạm có thể được điều tra và giải quyết nhanh chóng, hiệu quả.

<i>Thứ tư, chế tài xử lý khi quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng bị xâm phạm </i>

Theo Đạo luật Cải tiến Đạo luật Điều chỉnh Lạm phát Hình phạt Dân sự Liên bang Hoa Kỳ đối với mỗi hành vi phạm quy định của COPPA, các nhà điều hành phải phạt tiền 50.120 đô la trên mỗi lần vi phạm<small>43</small>. Tuy nhiên, mức tiền phạt cụ thể sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố và mức độ nghiêm trọng của vi phạm như: số lượng trẻ em bị

<small>41 Những trường hợp thu thập thơng tin của trẻ khơng cần có sự đồng ý của cha mẹ trước và cũng không cần thông báo đến cha mẹ: thu thập thông tin liên hệ trực tiếp của trẻ để trả lời yêu cầu một lần cụ thể của trẻ (nếu trẻ muốn tham gia một cuộc thi), thu thập thông tin cá nhân của trẻ vì mục đích đề phịng trách nhiệm pháp lý, cung cấp cho các hoạt động nội bộ. </small>

<small>42 Điều 321.8 Quy tắc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (16 CFR Part 312). </small>

<small>43 FTC Publishes Inflation-Adjusted Civil Penalty Amounts for 2023. events/news/press-releases/2023/01/ftc-publishes-inflation-adjusted-civil-penalty-amounts-2023, truy cập ngày 01/3/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thập thông tin cá nhân, số lượng và loại thông tin cá nhân mà các nhà điều hành thập được, thông tin được thu thập được sử dụng như thế nào, các nhà điều hành đã từng vi phạm luật COPPA trước đó chưa,… Việc xác định số tiền phạt cụ thể sẽ khác nhau trong từng trường hợp<small>44</small>. Năm 2019, Google và Youtube phải đóng phạt vì vi phạm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng với số tiền 170 triệu USD - đây là án phạt lớn nhất mà Ủy ban Thương mại Liên bang từng đưa ra trong một vụ việc liên quan tới COPPA kể từ khi luật có hiệu lực năm 1998<small>45</small>. Ủy ban thương mại liên bang Hoa Kỳ và Tổng lý trưởng bang New York đã cáo buộc Youtube đã thu thập thông tin cá nhân của trẻ em mà khơng có sự đồng ý của cha mẹ. Cụ thể, Youtube đã thu thập thông tin cá nhân của trẻ dưới dạng nhận dạng liên tục từ các kênh hướng đến trẻ em để phân phối quảng cáo được nhắm mục tiêu (targeted advertising) đến người xem các kênh này. Mặc dù, Youtube cho rằng trang web của mình dành cho đối tượng chung nhưng có các kênh dành cho trẻ em (các kênh của các công ty đồ chơi điều hành) và Youtube “tự quảng cáo” là trang web hàng đầu thu hút trẻ em<small>46</small>. Mặc dù, đã biết trang web của mình có các kênh hướng đến trẻ em nhưng họ vẫn thu thập thông tin cá nhân của trẻ dưới 13 tuổi. Với hành vi vi phạm này, Google và Youtube nộp khoản tiền 170 triệu đơ. Ngồi hình phạt bằng tiền, Google và Youtube phải có các biện pháp đảm bảo khắc phục hậu quả bằng cách phải phát triển, triển khai và duy trì hệ thống cho phép chủ sở hữu kênh xác định nội dung hướng đến trẻ em của họ trên nền tảng YouTube để YouTube có thể đảm bảo rằng kênh tuân thủ COPPA, đồng thời Youtube cung cấp thông báo về các phương pháp thu thập dữ liệu của họ và nhận được sự đồng ý có thể kiểm chứng của cha mẹ trước khi thu thập thông tin cá nhân từ trẻ em. Cũng trong năm 2019, theo Ủy ban, các nhà điều hành ứng dụng Musical.ly xin phép cha mẹ trước khi thu thập tên, địa chỉ email và thông tin cá nhân khác từ người dùng dưới 13 tuổi. Các thông tin về tài khoản được hiển thị công khai, ngay cả khi người dùng chọn chế độ riêng tư nhưng hình ảnh vẫn được hiển thị. Nhưng theo Ủy ban, Musiscal.ly đã không thực hiện bất kỳ bước nào để đảm bảo rằng người trả lời yêu cầu là cha mẹ chứ không phải người sử dụng trẻ em. Về

<small>44 Các trường hợp vi phạm quy định về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng mà số tiền nộp phạt lên đến triệu USD: Xanga (2006) - 1.000.000 USD; Sony BMG Music (2008) 1.000.000 USD ; Playdom (2011) 3.000.000 USD; Artist Arena (2012) 1.000.000 USD; Oath (2018) 4.950.000 USD; Musical.ly (2019) 5.700.000 USD; Youtube (2019) 170.000.000 USD; Recolor (2021) 3.000.000 USD; OpenX (2021) 2.000.000 USD; WW International and Kurbo (2022) 1.500.000 USD,… Xem thêm: History of COPPA Violations, truy cập 1/3/2023. </small>

<small>45 “YouTube phải nộp phạt 170 triệu USD, nhưng thế vẫn còn quá ít?”, phat-170-trieu-usd-nhung-the-van-con-qua-it-i36238.html, truy cập ngày 27/02/2023. </small>

<small> Đơn khiếu nại của Ủy ban thương mại liên bang, Google và YouTube nói với Mattel, nhà sản xuất đồ chơi của Barbie và Monster High, rằng YouTube YouTube là người dẫn đầu ngày nay trong việc tiếp cận trẻ em 6-11 tuổi so với các kênh truyền hình hàng đầu và nói với Hasbro - nhà sản xuất đồ chơi, rằng đó YouTube đã được nhất trí bình chọn là trang web yêu thích của trẻ em 2-12, và và 93% của thanh thiếu niên truy cập YouTube để xem video.; là trang web số 1 của trẻ em thường xuyên được trẻ em truy cập. Xem thêm tại: p8. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

vi phạm này, Musical.ly (Tiktok) phải nộp 5,7 triệu USD. Các nhà điều hành ứng dụng phải tuân thủ COPPA trong tương lai và gỡ bỏ ngoại tuyến tất cả các video do trẻ em dưới 13 tuổi thực hiện<small>47</small>.

Chế tài đặt ra cho hành vi phạm quy định COPPA về bảo vệ riêng tư trẻ em trên mạng xã hội “khắt khe”, đảm bảo tính răn đe cho các chủ thể vi phạm. Qua vụ của Musical.ly, Ông Joe Simmons - Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang lúc bấy giờ cho

<i>biết: “Hình phạt kỷ lục này sẽ là một lời nhắc nhở cho tất cả các dịch vụ trực tuyến và </i>

<i>trang web nhắm vào trẻ em: Chúng tôi rất coi trọng việc thực thi COPPA và chúng tôi sẽ không dung thứ cho các công ty phớt lờ luật pháp một cách trắng trợn”</i><small>48</small>. Việc thu thập thông tin cá nhân của người dùng trên mạng xã hội đem lại nguồn lợi lớn cho các nhà điều hành trang web và ứng dụng trực tuyến<small>49</small>, một mức phạt tương ứng cần thiết để các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng và tuân thủ quy định bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng. Bên cạnh hình phạt, Ủy ban và bên vi phạm phải thỏa thuận và các biện pháp khắc phục hậu quả, không tái phạm trong tương lai.

COPPA ra đời hơn 20 năm trước khi thời đại Internet bùng nổ, nền tảng mạng xã hội trực tuyến chưa được phát triển rộng rãi và sự phổ biến của các ứng dụng trên thiết bị thông minh cho thấy được tư duy lập pháp đi trước thời đại của các nhà lập pháp Mỹ. Tuy nhiên, nhiều học giả khi nhận xét về COPPA cho rằng mặc dù COPPA quy định về bảo vệ quyền trẻ em trên mạng như chỉ tập trung vào việc quy định bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng thông qua việc ngăn chặn thu thập thông tin từ các trang mạng hoặc ứng dụng trực tuyến nhưng không áp dụng việc thu thập thông tin của trẻ do chính cha mẹ hoặc người lớn khác<small>50</small>, thơng tin cá nhân của trẻ em có thể bị tiết lộ từ chính người có trách nhiệm bảo vệ quyền riêng tư của trẻ. Theo chuyên gia việc thực thi COPPA vẫn cịn nhiều khó khăn khi người dùng là trẻ em có thể nói dối về tuổi của mình<small>51</small>, việc tìm kiếm cách thức hiệu quả có được sự đồng ý có thể xác thực được của

<small> truy cập ngày 02/3/2023. </small>

<small>48 Video Social Networking App Musical.ly Agrees to Settle FTC Allegations That it Violated Children’s Privacy Law, truy cập ngày 28/2/2023. </small>

<small>49 Ngày nay, một trong những cách sử dụng thông tin cá nhân trực tuyến phổ biến nhất là khả năng của nhà điều hành web trong việc tạo quảng cáo hiệu quả và nhắm mục tiêu. Quảng cáo trực tuyến đã phát triển thành một ngành công nghiệp gần mười tỷ đô la trong những năm gần đây. Xem thêm: 100 Leading National Advertisers, Advertising Age, p.7, truy cập ngày 2/3/2023; Violated Children’s Privacy Law, truy cập ngày 28/2/2023. </small>

<small>50 Trong bài viết của mình, Steinberg đã phân tích những rủi ro về việc cha mẹ, chia sẻ thông tin cá nhân của con lên mạng xã hội, COPPA thì chỉ bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em đối với việc thu thập thông tin từ bên thứ ba, nhưng không bảo vệ được quyền riêng tư của trẻ em từ những người có nghĩa vụ phải bảo vệ quyền riêng tư của </small>

<i><small>trẻ. Xem thêm: Steinberg, S. B. (2017) “Sharenting: children's privacy in the age of social media.” Emory Law </small></i>

<i><small>Journal, 66(4), p.839-884. </small></i>

<small>51 Jonathan Zuck, chủ tịch Hiệp hội Công nghệ cạnh tranh, một nhóm lợi ích doanh nghiệp nhỏ, đã điều trần trước Quốc hội vào đầu năm 2001 về những điểm yếu của COPPA, nêu rõ: Tất cả đều đồng ý với mục tiêu bảo vệ trẻ </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

cha mẹ<small>52</small>, … Một số còn lo lắng về việc cần có sự đồng ý của cha mẹ sẽ hạn chế quyền sử dụng mạng trực tuyến vào mục đích học tập và giải trí<small>53</small>. COPPA chưa có cơ sở pháp lý bảo vệ trẻ em từ trên 13 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhiều ý kiến đề xuất Quốc hội Hoa Kỳ mở rộng độ tuổi cho “trẻ em”<small>54</small>.

Mặc dù có những thiếu sót, COPPA vẫn cịn áp dụng hiệu quả đến ngày hôm nay. Đây là đạo luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trước được quy định cụ thể, chi tiết, có cơ quan chuyên trách đảm nhiệm thực thi pháp luật và chế tài phạt tiền dựa trên mức độ vi phạm áp dụng cùng với các biện pháp khắc phục. Hơn nữa, không chỉ với bên thứ ba là các nhà điều hành trang web hoặc dịch vụ trực tuyến, COPPA với các điều khoản mới yêu cầu thông báo đầy đủ hơn và sự đồng ý được cung cấp đầy đủ thông tin hơn đối với việc phổ biến thông tin cá nhân có thể khiến các bậc cha mẹ, thanh thiếu niên nhận thức rõ hơn về những rủi ro trực tuyến. COPPA được ca ngợi vì đã tạo ra các tiêu chuẩn pháp lý thống nhất để các trang web tuân thủ và vì đã thu hút sự chú ý của cả nước về các mối quan tâm của trẻ em trên mạng<small>55</small>.

<small>em, nhưng đó khơng phải là kết quả cuối cùng. Trẻ em chỉ nói dối về tuổi của chúng trên các trang web dành cho người lớn. Tơi khơng chắc đó là một tích cực. Xem thêm: Matecki, L. A. (2010), “Update: Coppa is ineffective </small>

<i><small>legislation-next steps for protecting youth privacy rights in the social networking era” Nw. JL & Soc. Pol'y, 5, 369, </small></i>

<small>p382-383. </small>

<small>52 Các biện pháp đồng ý của phụ huynh của COPPA rất khó thực hiện và tốn kém để thực hiện. Một số phản đối việc sử dụng email với lý do trẻ em có thể dễ dàng ngụy trang danh tính của cha mẹ. Phương thức in và gửi thì tốn kém trái ngược với yêu cầu với tốc độ và hiệu quả của thương mại điện tử. Liên quan đến việc sử dụng thẻ tín dụng, nhiều bậc cha mẹ khơng muốn sử dụng thẻ tín dụng trực tuyến vì sợ quyền riêng tư của chính họ. Sử dụng xác minh qua điện thoại có thể có vấn đề vì nó địi hỏi các cơng ty phải th nhân viên chỉ để trả lời điện thoại, và do đó sẽ rất tốn kém. Cuối cùng, một số nhà bình luận cho rằng mặc dù chữ ký số và các phương pháp điện tử khác có thể là những lựa chọn thay thế đầy hứa hẹn, nhưng chúng vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, khiến chúng không thể thực hiện được như các phương pháp tuân thủ hiện tại. Xem thêm: Warmund, J. (2000), “Can coppa </small>

<i><small>work an analysis of the parental consent measures in the children's online privacy protection act.” Fordham </small></i>

<i><small>Intellectual Property, Media & Entertainment Law Journal, 11(1), 189-216. </small></i>

<small>53 Nếu cha mẹ không giám sát hoạt động truy cập các trang mạng của trẻ thì có nhiều khả năng truy cập các trang web hướng đến trẻ em không tuân thủ Coppa có thể thu thập thơng tin của con, cùng với các trang web có nội dung người lớn khơng phù hợp trẻ em. Nếu cha mẹ luôn giám sát con và chỉ cho truy cập khi có mình giám sát thì cha mẹ phải có thời gian có thể làm giảm sự tò mò và mong muốn độc lập của trẻ. Trường hợp cha mẹ chỉ giới hạn cho con truy cập vào một số trang mạng nhất định thì trẻ nhỏ bị giới hạn trang web khơng tham gia vào tiềm năng giáo dục và giải trí rộng lớn của Internet. Xem thêm: Allen, A. L. (2001). Minor distractions: Children, </small>

<i><small>privacy and e-commerce. Hours. L. Rev., 38, p.769. </small></i>

<small>54 Tháng 5 năm 2021, Thượng nghị sĩ Edward J. Markey (D-Mass.) và Bill Cassidy (R-La.) đã giới thiệu Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến của trẻ em và thanh thiếu niên, luật để cập nhật các quy tắc bảo mật dữ liệu trực tuyến cho thế kỷ 21 và đảm bảo cả trẻ em và thanh thiếu niên đều được bảo vệ trực tuyến. Luật pháp cập nhật Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư trực tuyến của trẻ em (COPPA) trẻ em theo dự luật bất kỳ ai từ 13 đến 15 tuổi. Xem thêm: Senators Markey and Cassidy propose Bipartisan Bill to update Children’s Online Privacy Rules, truy cập ngày 01/3/2023. </small></b>

<small>55 Matecki, L. A. (2010), “Update: Coppa is ineffective legislation-next steps for protecting youth privacy rights </small>

<i><small>in the social networking era” Nw. JL & Soc. Pol'y, 5, 369, p.382. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i><b>1.2.2. Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa </b></i>

<i>1.2.2.1 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo quy định của Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa </i>

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) là một nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyên chính dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc<small>56</small>. Là một nhà nước dân chủ, văn minh, hiện đại, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đề cao và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, trong đó bao gồm có quyền riêng tư trên khơng gian mạng của trẻ em. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là quốc gia có nền kinh tế phát triển vượt bậc, có nền khoa học – cơng nghệ tiên tiến và có hệ thống pháp luật quy định khá chặt chẽ về các vấn đề trên không gian mạng. Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 04 tháng 12 năm 1982 (sửa đổi qua các năm 1988, 1993, 1999, 2004, 2018) là văn bản có giá trị pháp lý tối cao, Hiến pháp tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Chương II từ Điều 33 đến Điều 50. Trong đó, quyền riêng tư của cá nhân nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng là một trong các quyền cơ bản của công dân, quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ ở các khía cạnh như: quyền riêng tư về nơi ở, quyền bảo mật về thư tín, thơng tin liên lạc được quy

<i>định cụ thể tại Điều 39 của Hiến pháp như sau: “Nơi ở của công dân nước Cộng hòa </i>

<i>Nhân dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm” và Điều 40: “Quyền tự do và quyền riêng tư về thư tín của cơng dân nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa được luật bảo vệ, ngoại trừ các yêu cầu về an ninh quốc gia hoặc điều tra tội hình sự, trong đó cơ quan cơng an hoặc cơ quan kiểm tra Kiểm tra thông tin liên lạc theo thủ tục pháp luật quy định, không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể xâm phạm quyền tự do và quyền riêng tư của thông tin liên lạc của công dân”. </i>

Quyền riêng tư của cơng dân nói chung trong đó bao gồm có trẻ em theo Hiến pháp 1982 (sửa đổi năm 2018) của Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa có nội hàm khá hẹp, cơ bản chỉ đề cập đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở hay còn gọi là quyền riêng tư về nơi ở và quyền riêng tư về thư tín, cụ thể là thơng tin liên lạc của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ, khơng một tổ chức hoặc cá nhân nào có quyền xâm phạm đến quyền riêng tư về thông tin liên lạc của công dân. Trong các trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia hoặc điều tra tội phạm thì cơ quan nhà nước cụ thể là cơ quan cơng an hoặc cơ quan kiểm tra có u cầu kiểm tra thông tin liên lạc đúng theo quy định pháp luật thì cá nhân mới phải tiết lộ, cung cấp các thơng tin liên lạc của mình.

Nhìn chung, Hiến pháp 1982 (sửa đổi năm 2018) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định về quyền riêng tư của cơng dân nói chung, trong đó bao gồm có trẻ em

<small>56 Điều 1 Hiến pháp Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1982, sửa đổi năm 2018. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhỏ của quyền riêng tư mà khơng quy định bao quát hết các khía cạnh của quyền riêng tư trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1982 (sửa đổi năm 2018) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chưa có khái niệm về quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng cũng như khơng có bất kỳ quy định nào điều chỉnh trực tiếp về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng. Cũng tương tự như Hiến pháp của các quốc gia khác trên thế giới, Hiến pháp năm 1982 (sửa đổi năm 2018) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ quy định một cách chung nhất về các quyền công dân, làm cơ sở định hướng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.

<i>1.2.2.2 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 </i>

Những năm gần đây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phát triển vượt trội về khoa học, cơng nghệ, do đó cần có những đạo luật ra đời điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nền tảng công nghệ, không gian mạng. Vừa qua, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thông qua và ban hành một số đạo luật liên quan đến bảo vệ quyền riêng tư về thông tin cá nhân, dữ liệu cá nhân. Đặc biệt là đạo luật “Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ”, đã được sửa đổi bởi Đại hội đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 13 vào ngày 17 tháng 10 năm 2020 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2021. Đạo luật được ban hành và sửa đổi với mục đích nhằm bảo vệ tốt sức khỏe thể chất và tinh thần của người chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của người chưa thành niên về đạo đức, trí tuệ, thể chất, nghệ thuật và lao động, bồi dưỡng những người xây dựng và những người kế tục xã hội chủ nghĩa có lý tưởng, đạo đức, văn hóa và kỷ luật, nhằm đào tạo những con người mới của thời đại đảm đương nhiệm vụ trọng đại chấn hưng đất nước<small>57</small>.

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 bao gồm 09 chương, 132 Điều luật. Đặc biệt, Luật dành riêng Chương V để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến bảo vệ trẻ em trên không gian mạng với tên gọi “Bảo vệ mạng” quy định từ Điều 64 đến Điều 80. Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 quy định một số vấn đề liên quan đến quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng như sau:

<i>Thứ nhất, về độ tuổi pháp lý của trẻ em </i>

Thuật ngữ “trẻ vị thành niên”, “người chưa thành niên” hay “trẻ em” được đề cập trong Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 là để

<i>chỉ nhóm đối tượng là “những cơng dân dưới 18 tuổi”<small>58</small>. Cộng hịa Nhân dân Trung </i>

Hoa cũng là quốc gia thành viên của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989 (Cơng ước), vậy nên việc pháp luật Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa quy định độ tuổi của

<small>57 Điều 1 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>58 Điều 2 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

trẻ em là người dưới 18 tuổi là hoàn toàn phù hợp và thống nhất với quy định của Công ước. Có thể thấy, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 đã sử dụng cả ba thuật ngữ “trẻ vị thành niên”, “người chưa thành niên”, “trẻ em”, tuy nhiên cả ba thuật ngữ này đều được sử dụng với nghĩa thống nhất là để chỉ những người công dân dưới 18 tuổi.

<i>Thứ hai, về nội dung quy định về quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </i>

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 khơng có khái niệm quyền riêng tư của trẻ em (trẻ vị thành niên) trên không gian mạng. Từ các quy định trong Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020, có thể thấy quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng được đề cập đến các khía cạnh như: quyền riêng tư, thông tin cá nhân (họ tên, hình ảnh, địa chỉ, trường học), thư, nhật ký, thư điện tử hoặc nội dung thông tin mạng của trẻ vị thành niên. Nhìn chung, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 chỉ đề cập đến một số khía cạnh cơ bản của quyền riêng tư mà không quy định bao quát hết các khía cạnh của quyền riêng tư trong đời sống xã hội.

<i>Thứ ba, cơ chế bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng </i>

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 đã liệt kê cụ thể các chủ thể chịu trách nhiệm bảo vệ trẻ vị thành niên tại Điều 6 như sau:

<i>“Bảo vệ trẻ vị thành niên là trách nhiệm chung của các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, đảng phái chính trị, tổ chức nhân dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng tự trị cơ sở ở thành thị và nông thôn, người giám hộ của trẻ vị thành niên và những người lớn khác. Nhà nước, xã hội, nhà trường và gia đình giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, nâng cao nhận thức và khả năng tự bảo vệ của họ”. Cơ quan nhà nước được đề cập trong Luật này bao gồm: Chính </i>

quyền nhân dân cấp quận, huyện, Đồn Thanh niên Cộng sản, Liên đồn Phụ nữ, Cơng đồn, Liên đồn Người tàn tật, Ban Cơng tác Chăm sóc Thế hệ Tương lai, Liên đoàn Thanh niên, Liên đoàn Học sinh, Đội Thiếu niên Tiền phong, các đoàn thể nhân dân khác và các tổ chức xã hội có liên quan…Nhìn chung, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 đã liệt kê rất nhiều chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng, đồng thời Luật cũng đã tiến hành phân công nhiệm vụ cho từng chủ thể trong cơng tác chăm sóc và bảo vệ trẻ vị thành niên.

Đặc biệt, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 đã đưa ra các quy định cấm đối với cha, mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên. Cha, mẹ hoặc người giám hộ khác của người chưa thành niên không được để trẻ vị thành niên nghiện Internet, tiếp xúc với sách, báo, ấn phẩm định kỳ, phim ảnh, chương trình phát thanh và truyền hình, sản phẩm nghe nhìn, ấn phẩm điện tử và thơng tin mạng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

có hại hoặc có thể ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần. Đồng thời, cha, mẹ, người giám hộ cũng không được cho phép trẻ vị thành niên vào các tụ điểm giải trí thương mại, quán bar, cơ sở kinh doanh dịch vụ truy cập Internet và những nơi khác không phù hợp với hoạt động của trẻ vị thành niên<small>59</small>. Cha mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên có trách nhiệm quản lý, giám sát việc người chưa thành niên tiếp xúc, sử dụng Internet, hạn chế đến mức tối thiểu việc người chưa thành niên sử dụng Internet để tránh tình trạng người chưa thành niên nghiện Internet hoặc tiếp xúc các trang mạng xã hội nhằm tránh trường hợp các tội phạm mạng lợi dụng các hình ảnh, thơng tin cá nhân của người chưa thành niên trên mạng xã hội để trục lợi, dụ dỗ, lừa gạt thậm chí là uy hiếp để biến trẻ em thành cơng cụ tình dục, kinh doanh trên cơ thể trẻ em.

Nhà trường cũng là một trong các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền riêng tư

<i>của trẻ em trên không gian mạng, cụ thể như sau: “Các trường học phải thiết lập một </i>

<i>hệ thống ngăn ngừa và kiểm soát hành vi bắt nạt của học sinh, đồng thời tiến hành giáo dục và đào tạo về phịng ngừa và kiểm sốt hành vi bắt nạt của học sinh cho giảng viên, nhân viên và học sinh”<small>60</small>. Hành vi bắt nạt học sinh trong Luật này đề cập đến các hành </i>

vi xảy ra giữa các học sinh, trong đó một bên cố ý hoặc ác ý bắt nạt hoặc xúc phạm bên kia thơng qua các phương tiện thể chất, lời nói và Internet, gây thương tích cá nhân, tổn thất tài sản hoặc tổn hại tinh thần cho bên kia<small>61</small>. Tình trạng học sinh sử dụng các hình ảnh, video, thơng tin cá nhân, hồn cảnh gia đình của học sinh khác đăng lên các trang mạng xã hội nhằm mục đích xúc phạm, lăng mạ nhau khá phổ biến, đây được xem như là một hành vi “bắt nạt trực tuyến”. Vì thế, nhà trường cũng có trách nhiệm ngăn ngừa và kiểm soát hành vi bắt nạt của học sinh trên không gian mạng.

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 quy định việc bảo vệ người chưa thành niên phải tuân theo nguyên tắc có lợi nhất cho người chưa thành niên, nguyên tắc giải quyết các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên

<i>phải đáp ứng yêu cầu là phải “bảo vệ quyền riêng tư và thông tin cá nhân của trẻ vị </i>

<i>thành niên”<small>62</small>. Nguyên tắc này đã khẳng định quyền riêng tư và thông tin cá nhân trẻ vị </i>

thành niên là một trong các quyền cơ bản và quan trọng nhất của trẻ, được nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quan tâm và bảo vệ tuyệt đối. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 cũng đã đưa ra các nguyên tắc về việc cung cấp, phát tán, sử dụng hình ảnh, thông tin của trẻ em trên không

<i>gian mạng như sau: “Các cơ quan thơng tấn, báo chí tăng cường tuyên truyền về bảo </i>

<i>vệ người chưa thành niên, tổ chức dư luận xã hội giám sát các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Việc đưa tin trên các phương tiện thông </i>

<small>59 Khoản 6, 7 Điều 17 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>60 Điều 39 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>61 Điều 130 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>62 Điều 4 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>tin đại chúng về các vụ việc liên quan đến trẻ vị thành niên phải khách quan, thận trọng, vừa phải và không được xâm phạm đến uy tín, quyền riêng tư cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ vị thành niên”<small>63</small>. Trong công tác tuyên truyền, vận động </i>

nhân dân về bảo vệ người chưa thành niên thì các cơ quan thơng tấn, báo chí cũng phải hết sức chú trọng đến các quyền riêng tư của người chưa thành niên, không được xâm phạm đến quyền riêng tư cũng như thông tin cá nhân của trẻ vị thành niên.

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng đưa ra các quy định cấm về các hoạt động sản xuất, đăng tải, phát tán, sao chép trên nền tảng mạng xã hội các nội dung, thơng tin, hình ảnh về trẻ vị thành niên, cụ thể tại Điều 51 Luật này

<i>như sau: “Cấm sản xuất, sao chép, xuất bản, phổ biến hoặc sở hữu tài liệu tục tĩu và </i>

<i>khiêu dâm và thông tin mạng về trẻ vị thành niên”<small>64</small></i>. Pháp luật không cho phép bất kỳ tổ chức, cá nhân nào được che giấu, hủy, xóa trái phép thư, nhật ký, thư điện tử hoặc nội dung thông tin mạng khác của trẻ vị thành niên. Nếu tổ chức, cá nhân nào thực hiện các hành vi nêu trên sẽ được xem là xâm phạm đến quyền riêng tư của trẻ vị thành niên, ngoại trừ các trường hợp sau:

(1) Cha mẹ hoặc người giám hộ khác của trẻ vị thành niên khơng có năng lực dân sự thay mặt trẻ vị thành niên mở và kiểm tra;

(2) Tiến hành thanh tra theo pháp luật vì lý do an ninh quốc gia hoặc điều tra tội phạm hình sự;

(3) Để bảo vệ sự an toàn cá nhân của trẻ vị thành niên trong các tình huống khẩn cấp.

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 quy

<i>định về “quyền được u cầu sửa hoặc xóa thơng tin cá nhân bị tiết lộ trên không gian </i>

<i>mạng”, điều này có nghĩa là: Trong trường hợp các thơng tin cá nhân của trẻ vị thành </i>

niên bị tiết lộ trên khơng gian mạng thì trẻ vị thành niên, cha mẹ hoặc người giám hộ khác có thể yêu cầu cơ quan xử lý thơng tin sửa hoặc xóa thơng tin cá nhân của trẻ vị thành niên một cách nhanh chóng<small>65</small>. Khơng tổ chức, cá nhân nào được xúc phạm, vu khống, đe dọa, ác ý làm xấu hình ảnh của trẻ vị thành niên qua mạng Internet dưới các hình thức lời nói, hình ảnh, âm thanh, video và các hình thức đe dọa trực tuyến khác. Trẻ vị thành niên bị bắt nạt trực tuyến và cha mẹ hoặc người giám hộ khác của họ có quyền thơng báo cho nhà cung cấp dịch vụ mạng để thực hiện các biện pháp như xóa, chặn và ngắt liên kết. Sau khi nhận được thông báo, nhà cung cấp dịch vụ mạng phải kịp thời thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn hành vi bắt nạt trên mạng và ngăn chặn việc phát tán thông tin cá nhân của trẻ vị thành niên<small>66</small>. Bên cạnh đó, các nhà

<small>63 Điều 49 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>64 Điều 52 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>65 Đoạn 2 Điều 72 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>66 Điều 77 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

cung cấp sản phẩm và dịch vụ mạng khi phát hiện trẻ vị thành niên cơng khai thơng tin riêng tư qua mạng có trách nhiệm kịp thời nhắc nhở và thực hiện các biện pháp bảo vệ thông tin riêng tư của trẻ một cách cần thiết<small>67</small>.

Đặc biệt, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 đã dành riêng Chương VII để quy định về việc bảo vệ trẻ vị thành niên trong hoạt động tư pháp với tên gọi “Bảo vệ tư pháp”. Nội dung của Chương VII chủ yếu đưa ra các nguyên tắc đối với cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra và xét xử người chưa

<i>thành niên, cụ thể tại Điều 103 Luật này quy định: “Cơ quan cơng an, Viện kiểm sát </i>

<i>nhân dân, Tịa án nhân dân, cơ quan hành chính tư pháp và tổ chức, cá nhân khác không được tiết lộ họ tên, hình ảnh, địa chỉ, trường học và những thơng tin khác có thể nhận dạng người chưa thành niên tham gia vụ án có liên quan…”. Tuy nhiên, trong trường </i>

hợp người chưa thành niên bị mất tích hoặc bị bắt cóc thì cơ quan tư pháp vẫn có quyền tiết lộ những thông tin trên để phục vụ quá trình điều tra. Cơ quan cơng an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân khi hỏi cung nghi can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hại và người làm chứng là người chưa thành niên thì quyền về danh tiếng, quyền riêng tư và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên phải được bảo vệ. Nếu người chưa thành niên phải ra hầu tịa thì áp dụng các biện pháp bảo vệ như phương tiện kỹ thuật, can thiệp tâm lý để bảo vệ quyền riêng tư của họ<small>68</small>.

<i>Thứ tư, chế tài xử lý khi quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng bị xâm phạm </i>

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020 dành riêng Chương VIII quy định về trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi xâm phạm đến các quyền cơ bản của trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em trên khơng gian mạng nói riêng, bao gồm các loại trách nhiệm như: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự như sau:

Pháp luật quy định cha, mẹ hoặc người giám hộ khác của người chưa thành niên không được để trẻ vị thành niên nghiện Internet, tiếp xúc với sách, báo, ấn phẩm định kỳ, phim ảnh, chương trình phát thanh và truyền hình, sản phẩm nghe nhìn, ấn phẩm điện tử và thơng tin mạng có hại hoặc có thể ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần. Đồng thời, cha, mẹ, người giám hộ cũng không được cho phép trẻ vị thành niên vào các tụ điểm giải trí thương mại, quán bar, cơ sở kinh doanh dịch vụ truy cập Internet và những nơi khác không phù hợp với hoạt động của trẻ vị thành niên. Nếu cha, mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên không thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật thì Ủy ban nhân dân khu dân cư hoặc Ủy ban nhân dân thơn nơi họ sinh sống có trách nhiệm khuyên ngăn, ngăn chặn, trường hợp nghiêm trọng, Ban dân phố có trách nhiệm báo cáo

<small>67 Điều 73 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>68 Điều 110 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

cơ quan công an kịp thời. Khi cơ quan Công an nhận được tin báo hoặc khi cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân phát hiện cha, mẹ hoặc người giám hộ khác của người chưa thành niên có các hành vi nêu trên trong q trình giải quyết vụ việc thì có trách nhiệm thơng báo khiển trách và có thể đưa họ đến gia đình giáo dục<small>69</small>.

Nhà trường có trách nhiệm bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng thông qua việc thiết lập một hệ thống ngăn ngừa và kiểm soát hành vi bắt nạt của học sinh, đồng thời tiến hành giáo dục và đào tạo về phịng ngừa và kiểm sốt hành vi bắt nạt của học sinh cho giảng viên, nhân viên và học sinh (bắt nạt trực tuyến) theo quy định tại Điều 39 Luật này. Nếu nhà trường vi phạm quy định tại Điều 39 của Luật này sẽ bị cơ quan Công an, Giáo dục, Y tế,… quản lý ra lệnh sửa chữa theo sự phân công trách nhiệm. Nếu từ chối sửa chữa hoặc tình hình nghiêm trọng, người quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị trừng phạt theo pháp luật<small>70</small>.

Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng đưa ra các quy định cấm về các hoạt động sản xuất, đăng tải, phát tán, sao chép trên nền tảng mạng xã hội các nội dung, thơng tin, hình ảnh về trẻ vị thành niên, cụ thể tại Điều 51 Luật này

<i>như sau: “Cấm sản xuất, sao chép, xuất bản, phổ biến hoặc sở hữu tài liệu tục tĩu và </i>

<i>khiêu dâm và thông tin mạng về trẻ vị thành niên”. Nếu người nào vi phạm quy định </i>

này thì các sở báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và thơng tin Internet phải cải chính trong thời hạn theo quy định, tiến hành cảnh cáo, tịch thu số lợi bất hợp pháp. Ngoài ra, các chủ thể vi phạm có thể bị phạt tiền khơng q 100.000 nhân dân tệ, nếu không chịu sửa chữa hoặc tình hình nghiêm trọng thì bị ra lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh có liên quan, đình chỉ sản xuất kinh doanh hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh và các giấy phép có liên quan. Phạt tiền dưới mười lần số tiền, và nếu khơng có thu nhập bất hợp pháp hoặc thu nhập bất hợp pháp dưới một triệu nhân dân tệ, thì phạt tiền khơng dưới 100.000 nhân dân tệ nhưng không quá một triệu nhân dân tệ sẽ được áp dụng<small>71</small>.

Pháp luật không cho phép bất kỳ tổ chức, cá nhân nào được che giấu, hủy, xóa trái phép thư, nhật ký, thư điện tử hoặc nội dung thông tin mạng khác của trẻ vị thành niên (Điều 63 Luật này). Nếu tổ chức, cá nhân nào thực hiện các hành vi nêu trên sẽ được xem là xâm phạm đến quyền riêng tư của trẻ vị thành niên và nếu gây ra thiệt hại về nhân thân, tài sản hoặc các thiệt hại khác cho trẻ vị thành niên thì phải chịu trách nhiệm dân sự. Nếu hành vi này đủ cấu thành tội phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật<small>72</small>.

<small>69 Điều 118 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>70 Điều 119 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>71 Điều 121 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>72 Điều 129 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Trong trường hợp các thông tin cá nhân của trẻ vị thành niên bị tiết lộ trên không gian mạng thì trẻ vị thành niên, cha mẹ hoặc người giám hộ khác có thể yêu cầu cơ quan xử lý thơng tin sửa hoặc xóa thơng tin cá nhân của trẻ vị thành niên một cách nhanh chóng (Điều 72 Luật này). Các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ mạng khi phát hiện trẻ vị thành niên cơng khai thơng tin riêng tư qua mạng có trách nhiệm kịp thời nhắc nhở và thực hiện các biện pháp bảo vệ thông tin riêng tư của trẻ một cách cần thiết (Điều 73 Luật này). Nếu đơn vị xử lý thông tin, doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ mạng vi phạm quy định này thì buộc cải chính, cảnh cáo, và tịch thu các khoản thu nhập bất hợp pháp của các bộ phận liên quan của công an, thông tin mạng, viễn thông, báo chí và xuất bản, đài phát thanh và truyền hình, văn hóa và du lịch theo phân cơng trách nhiệm. Nếu thu nhập bất hợp pháp hơn một triệu nhân dân tệ, phạt tiền khơng ít hơn một lần nhưng không quá mười lần thu nhập bất hợp pháp sẽ bị áp dụng. Nếu khơng có thu nhập bất hợp pháp hoặc thu nhập bất hợp pháp dưới một triệu nhân dân tệ, thì bị phạt tiền từ 100.000 nhân dân tệ đến một triệu nhân dân tệ sẽ bị áp dụng. Người phụ trách và những người có trách nhiệm khác sẽ bị phạt không dưới 10.000 nhân dân tệ nhưng không quá 100.000 nhân dân tệ, nếu họ từ chối sửa chữa hoặc các tình huống nghiêm trọng, họ cũng có thể bị ra lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh có liên quan, đình chỉ doanh nghiệp để cải chính, đóng trang thơng tin điện tử, thu hồi giấy phép kinh doanh hoặc thu hồi các giấy phép liên quan<small>73</small>.

Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân, cơ quan hành chính tư pháp và tổ chức, cá nhân khác không được tiết lộ họ tên, hình ảnh, địa chỉ, trường học và những thơng tin khác có thể nhận dạng người chưa thành niên tham gia vụ án có liên quan…(Điều 103 Luật này). Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân khi hỏi cung nghi can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hại và người làm chứng là người chưa thành niên thì quyền về danh tiếng, quyền riêng tư và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên phải được bảo vệ. Nếu người chưa thành niên phải ra hầu tịa thì áp dụng các biện pháp bảo vệ như phương tiện kỹ thuật, can thiệp tâm lý để bảo vệ quyền riêng tư của họ (Điều 110 Luật này). Nếu người làm công tác nhà nước thiếu trách nhiệm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, làm trái cơng vụ, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên thì bị xử lý theo pháp luật<small>74</small>.

Nhìn chung, Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa năm 2020 chỉ đưa ra các quy định xử phạt khi mà những hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng gây ra hậu quả trên thực tế (làm ảnh hưởng sức khỏe, thể chất, tinh thần hoặc có ác ý làm xấu đi hình ảnh của trẻ vị thành niên). Còn trong trường hợp những hành vi tiết lộ thông tin cá nhân, đăng tải, phát tán các video,

<small>73 Điều 127 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

<small>74 Điều 128 Luật Bảo vệ trẻ vị thành niên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2020. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

hình ảnh của trẻ vị thành niên trên nền tảng mạng xã hội nhưng khơng gây ra hậu quả nêu trên thì có bị xem là hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ vị thành niên trên không gian mạng hay không thì vấn đề này luật cịn bỏ ngỏ chưa giải quyết triệt để. Ngồi ra, các chế tài và hình thức xử phạt còn quá nhẹ, những hành vi vi phạm quyền riêng tư, thơng tin cá nhân, hình ảnh trẻ em trên không gian mạng chỉ bị xử phạt hành chính như buộc cải chính, cảnh cáo, thu hồi giấy phép và phạt tiền là chủ yếu. Những chế tài này chưa đủ sức để răn đe, ngăn chặn những hành vi xâm phạm quyền riêng tư, thông tin cá nhân của trẻ em trên không gian mạng.

<i><b>1.2.3 Quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng theo pháp luật của Đại Hàn Dân quốc </b></i>

<i>1.2.3.1 Quyền riêng tư của trẻ trên không gian mạng theo Hiến pháp Đại Hàn Dân quốc </i>

Hiến pháp đầu tiên của Hàn Quốc được ban hành vào ngày 17/7/1948. Tới nay, nó đã trải qua 9 lần sửa đổi, trong đó có những lần gần như được viết lại hồn tồn, đó là các bản Hiến pháp năm 1960, 1962, 1980 và 1987<small>75</small>. Từ năm 1987 đến nay, Hàn Quốc sử dụng ổn định một bản Hiến pháp duy nhất chưa có sửa đổi. Hiến pháp này gồm Lời nói đầu, 130 Điều và một số điều khoản phụ bổ sung. Về mặt hình thức thể hiện, Hiến pháp chia thành 11 Chương. Hiến pháp Hàn Quốc được viết gọn, chủ yếu đi theo hướng quy định chung những vấn đề rất cơ bản, mang tính nguyên tắc mà tránh đi vào cụ thể. Đáng chú ý là Chương II “Quyền và Nghĩa vụ của công dân” (từ Điều 10 đến Điều 39) được coi như đạo luật về quyền con người của Hàn Quốc, quy định các quyền cơ bản của con người và quyền công dân. Hiến pháp Hàn Quốc mặc dù đã sửa nhiều lần, nhưng chương về quyền này gần như được giữ ngun, ít có sự thay đổi<small>76</small>.

<i>Điều 17 Hiến pháp Đại Hàn Dân quốc 1987 quy định: “Quyền riêng tư và quyền </i>

<i>tự do của mọi công dân sẽ không bị vi phạm”. Đây là sự khẳng định Hàn Quốc đã công </i>

nhận quyền riêng tư của công dân một cách tường minh. Giống với đa số các bản Hiến pháp khác trên thế giới, quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung phải có trong Hiến pháp của một nhà nước dân chủ. Ngoài ra, Hiến pháp 1987 cũng có nhiều điều khoản khác quy định về các khía cạnh của quyền riêng tư. Khoản 1 Điều 12

<i>quy định: “Mọi cơng dân đều có quyền tự do cá nhân. Khơng ai có thể bị bắt, giam giữ, </i>

<i>thu giữ, khám xét hoặc thẩm vấn trừ khi theo quy định của pháp luật”. Điều 16 và Điều </i>

<small>75 “Hàn Quốc sửa đổi Hiến pháp: Bất ngờ biết trước”, sua-doi-hien-phapbat-ngo-biet-truoc.html, truy cập ngày 20/7/2023. </small>

<small> Nguyễn Minh (2011), “Cách thức thể hiện của bản Hiến pháp 1987”, gioi-viet-nam-va-the-gioi/Cach-thuc-the-hien-cua-ban-Hien-phap-1987-i206987/, truy cập ngày 15/4/2023. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Hiến pháp 1987 cũng bảo vệ quyền riêng tư của công dân thông qua quy định không được xâm phạm nơi ở<small>77</small> và bí mật thơng tin liên lạc<sup>78</sup> của cơng dân.

Trong Hiến pháp Hàn Quốc chưa có quy định riêng bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ em. Họ coi trẻ em cũng là một công dân và áp dụng các quy định chung của công dân cho cả trẻ em. Về vấn đề này, Đại Hàn Dân quốc từng áp dụng Điều 17 của Hiến pháp về quyền riêng tư để xét xử những vụ việc liên quan đến trẻ em. Cụ thể, trong một bản án đã được xét xử, nếu trong một video có nội dung khiêu dâm có hình ảnh của trẻ em trong đó, video đó cần phải bị gỡ bỏ dù có sự đồng ý của trẻ em cho mục đích khiêu dâm<small>79</small>. Bản án này cũng nhận định: trẻ em là đối tượng còn non nớt về mặt tinh thần và chưa có đủ nhận thức đúng đắn. Vì vậy, dù có sự đồng ý của trẻ em, những nội dung liên quan đến trẻ em cũng cần phải có sự suy xét cẩn thận vì mục đích tốt nhất cho trẻ và cần có sự liên hệ đến cha mẹ, người thân,… Có thể thấy, Hàn Quốc cũng rất coi trọng quyền riêng tư của trẻ em trên không gian mạng và đặt mục tiêu bảo vệ trẻ em lên hàng đầu, liên hệ quyền trẻ em với vai trò của cha mẹ, người thân và các tổ chức khác.

<i>1.2.3.2 Quyền riêng tư của trẻ trên không gian mạng theo quy định của Đạo luật bảo vệ thông tin cá nhân 2020 của Đại Hàn Dân quốc </i>

Vào năm 1967, Ủy ban điều phối phát triển (thuộc Bộ Khoa học và công MOST) được thành lập. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, ban đầu Ủy ban đã cung cấp máy tính cho hầu hết các bộ ngành trong chính phủ. Và với việc đưa máy tính như một phần của nỗ lực tự động hóa cơng việc đã làm cho dự án Chính phủ điện tử của Hàn Quốc được bắt đầu. Tuy nhiên, tại thời điểm này, máy tính và Internet vẫn chưa thực sự trở thành một phần trong đời sống của người dân Hàn Quốc. Đến những năm 1990, giá 1 máy PC trên thị trường khoảng 2.000 đơ la Mỹ. Chính phủ đã ký hợp đồng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước để thiết kế những chiếc PC rẻ hơn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hàn Quốc khi đó đã chọn một hướng đi khôn ngoan bằng cách không cạnh tranh với những hãng lớn như Samsung, LG trong sản xuất mà đi theo một “thị trường ngách” sản xuất PC cho đại đa số người dân Hàn Quốc. Giá PC từ đó liên tục giảm đến 800 đơ la Mỹ và vẫn đang tiếp tục giảm. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp người dân Hàn Quốc được tiếp cận với mạng máy tính và Internet, giúp nền công nghiệp Hàn Quốc phát triển theo hướng hiện đại, tự động hóa. Hàn Quốc cũng xây dựng thành cơng mơ hình chính phủ điện tử được đánh giá là một trong những mơ hình chính phủ điện tử hồn thiện nhất trên thế giới.

<small>nghệ-77 Điều 16 Hiến pháp Đại Hàn Dân quốc quy định: “Không được vi phạm quyền tự do cư trú của mọi công dân. Khi tiến hành thu giữ hoặc khám xét chỗ ở phải xuất trình lệnh của Thẩm phán theo yêu cầu của Kiểm sát viên”. </small>

<small>78 Điều 18 Hiến pháp Đại Hàn Dân quốc quy định: “Khơng được vi phạm bí mật thông tin liên lạc của mọi công dân”. </small>

<small>79 Xem thêm bản án đầy đủ tại: </small>

</div>

×