Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Trách Nhiệm Của Bên Truyền Tải Dữ Liệu Trong Hợp Đồng Thông Minh Kết Hợp - Kinh Nghiệm Estonia, Belarus Và Đề Xuất Cho Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.91 KB, 91 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>

<i>Lớp : CLC46E Khố : 46 Khoa: Các Chương trình đào tạo chất lượng cao </i>

<b>Mã số cơng trình:</b>

<i>(Phần này do phòng QL NCKH & HTQT đánh số vào)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>

<small> Lớp : CLC46E Khoá: 46 Khoa: Các Chương trình đào tạo chất lượng cao </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 1 </b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài ... 1 </b>

<b>2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài trường ... 2 </b>

<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ... 7 </b>

<b>4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu ... 7 </b>

<b>5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu ... 8 </b>

<b>6. Tóm tắt nội dung của đề tài ... 9 </b>

<b>7. Sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng ... 10 </b>

<b>8. Bố cục đề tài ... 11 </b>

<b>CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ CHUỖI KHỐI, HỢP ĐỒNG THÔNG MINH VÀ BÊN TRUYỀN TẢI DỮ LIỆU TRONG HỢP ĐỒNG THÔNG MINH ... 12 </b>

<b>1.1. Tổng quan về công nghệ chuỗi khối ... 12 </b>

<i>1.1.1. Khái niệm công nghệ chuỗi khối ... 12 </i>

<i>1.1.2. Đặc điểm của Blockchain và sơ lược về sự hình thành một chuỗi khối ... 13 </i>

<i>1.1.3. Phân loại Blockchain ... 15 </i>

<b>1.2. Tổng quan về hợp đồng thông minh ... 17 </b>

<i>1.2.1. Khái niệm hợp đồng thông minh... 17 </i>

<i>1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng thông minh ... 18 </i>

<i>1.2.3. Phân loại hợp đồng thông minh ... 21 </i>

<b>1.3. Bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp ... 23 </b>

<i>1.3.1. Oracle - Nguồn cấp dữ liệu ... 24 </i>

<i>1.3.2. Trách nhiệm của bên thực hiện việc truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh ... 26 </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2.2. Khung pháp lý điều chỉnh trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong </b>

<b>hợp đồng thông minh tại Việt Nam ... 46 </b>

<i>2.2.1. Thực tiễn ứng dụng hợp đồng thông minh tại Việt Nam ... 46 </i>

<i>2.2.2. Khung pháp lý Việt Nam điều chỉnh về trách nhiệm của bên nguồn cấp dữ liệu trong hợp đồng thông minh ... 48 </i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 59 </b>

<b>CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA BÊN TRUYỀN TẢI DỮ LIỆU ... 60 </b>

<b>3.1. Đề xuất về hoàn thiện khung pháp lý cho Việt Nam ... 60 </b>

<i>3.1.1. Một số vấn đề bất cập và chưa hoàn thiện về pháp luật cần được xem xét trong bối cảnh hợp đồng thông minh tại Việt Nam ... 60 </i>

<i>3.1.2. Đề xuất hoàn thiện khung pháp lý nhằm giải quyết các vấn đề trong bối cảnh hợp đồng thông minh tại Việt Nam ... 63 </i>

<b>3.2. Lưu ý cho các chủ thể tham gia hợp đồng thông minh về những vấn đề đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu ... 70 </b>

<i>3.2.1. Đề xuất các vấn đề cần lưu ý cho chủ thể tham gia trực tiếp hợp đồng thông minh (giao kết hợp đồng thông minh) ... 70 </i>

<i>3.2.2. Đề xuất các vấn đề và điều khoản cần lưu ý cho bên cung cấp Oracle cho hợp đồng thông minh ... 75 </i>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 80 </b>

<b>PHẦN KẾT LUẬN ... 81 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 83 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên phạm vi toàn cầu đã và đang đặt ra những thách thức lẫn cơ hội lớn cho các doanh nghiệp và tổ chức. Nền kinh tế kỹ thuật số với sự phát triển vượt bậc và ứng dụng rộng rãi của khoa học công nghệ trong mọi lĩnh vực tạo ra những tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.<small>1</small>

Cách mạng công nghiệp 4.0 cộng hưởng cùng với sự bùng nổ của thời đại internet đã góp phần tạo ra bước ngoặt lớn đối với các phát minh vĩ đại của nhân loại, thành quả mang lại vô cùng to lớn trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội tồn cầu. Để có thể chủ động hội nhập, đảm bảo an tồn cho việc ứng dụng cơng nghệ số cho các chủ thể trong xã hội, việc đặt ra khung pháp lý riêng để điều chỉnh là yêu cầu tất yếu và cấp thiết hiện nay. Có thể kể đến một số phát minh mang tính đột phá trong việc sử dụng công nghệ mới như<small>2</small>: IoT (Internet of Thing - Internet vạn vật), AI (Trí tuệ nhân tạo), Cloud (Điện toán đám mây), Big Data (Dữ liệu lớn), In 3D, Robot, Blockchain (Chuỗi khối)

“Tự động hóa”, “nhanh chóng”, “tiện lợi”, “hiệu quả”... là những gì mà nền công nghệ số mang lại trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, phát triển. Và như đã trình bày khái quát bên trên, một trong những công nghệ đột phá được dự đốn sẽ là cơng nghệ mũi nhọn trong cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư đó là cơng nghệ blockchain (công nghệ chuỗi - khối). Tại Việt Nam, để chủ động tham gia cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, Chính phủ đã ban hành danh mục cơng nghệ ưu tiên nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tại Quyết định số 2117/QĐ/TTg ngày 16 tháng 12 năm 2020, trong đó có các công nghệ trong lĩnh vực công nghệ số như Blockchain, IoT, AI… như đã nêu trên. như vậy có thể thấy, việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật về công nghệ số như blockchain, tiền ảo hay hợp đồng thông minh được phát triển mạnh mẽ và rộng rãi tại nước ta là việc sớm muộn gì cũng diễn ra.

Tuy nhiên dù Chính phủ đã có những nỗ lực tích cực để khuyến khích phát triển và áp dụng công nghệ blockchain, nhưng hệ thống quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam vẫn còn sự chậm trễ trong việc đáp ứng xu hướng phát triển nhanh chóng của cơng nghệ mới này. Điều này đã gây ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp và tổ

<small>1 Trần Thị Thanh Bình, Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, xem tại: </small>

<small>2 Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4 là gì? Một số phát minh nổi bật của cách mạng Công nghiệp 4.0, xem tại: </small>

<small> (truy cập ngày 03/11/2022) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chức trong việc cung cấp các giải pháp tiên tiến và đổi mới, đặc biệt trong các lĩnh vực sử dụng các hệ thống hợp đồng thông minh. Việc thiếu sự tương thích giữa quy định hiện hành và tiến bộ công nghệ đã khiến cho việc triển khai các giải pháp blockchain trở nên phức tạp hơn. Điều này cản trở sự đổi mới và thúc đẩy các dự án sáng tạo sử dụng công nghệ này để tạo ra các giải pháp thực tế. Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thiết lập mơ hình hợp đồng thơng minh do việc quy định pháp luật còn thiếu sự rõ ràng và linh hoạt. Đặc biệt, vấn đề về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong các hệ thống blockchain cũng là một khía cạnh quan trọng cần xem xét. Việc làm rõ về trách nhiệm của bên này trong việc duy trì tính tồn vẹn dữ liệu trong môi trường blockchain sẽ đảm bảo tính an tồn và đáng tin cậy của hệ thống. Điều này đặt ra yêu cầu về quy định rõ ràng về trách nhiệm về việc bảo vệ dữ liệu, giảm thiểu rủi ro dữ liệu bị xâm phạm, đối phó với các sự cố mạng, cũng như các trách nhiệm bồi thường có thể phát sinh

Với tình hình như vậy, việc cải thiện và điều chỉnh khung pháp lý để tương thích hơn với xu hướng phát triển của công nghệ blockchain và đồng thời tập trung vào vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu là cần thiết. Điều này sẽ giúp tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho sự đổi mới và phát triển trong việc áp dụng công nghệ mới, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này.

Bài nghiên cứu tập trung nghiên cứu về các vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng thông minh mà cụ thể là với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp, đặc biệt là với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể này trong trường hợp dữ liệu truyền tải vào hợp đồng thông minh bị sai lệch.

<b>2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi trường 2.1. Trong trường </b>

Hiện tại đối với những nghiên cứu về các vấn đề chung của hợp đồng thông minh, hiện tại có một số tài liệu trong trường đã phân tích một cách tương đối, nhưng đối với với vấn đề cụ thể là trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng minh, chỉ có một tài liệu trong trường có nhắc đến về vấn đề này, tuy nhiên các tác giả dừng lại ở mức đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu một cách gián tiếp, chứ chưa thực sự giải quyết, phân tích sâu những vấn đề này. Các cơng trình được liệt kê dưới đây:

<i><b>Thứ nhất, về vấn đề chung của hợp đồng thơng minh, có thể liệt kê các cơng trình </b></i>

sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Lê Thanh Huyền, Pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thơng minh có yếu tố nước ngồi theo tư pháp quốc tế một số quốc gia và khuyến nghị cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật Quốc tế ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2022. Thơng qua kết quả đạt được của quá trình nghiên cứu và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã trình bày những cơ sở lý luận và thực tiễn mang tính chuyên sâu và tổng quát về những vấn đề xoay quanh hợp đồng thơng minh. Khóa luận tốt nghiệp chủ yếu phân tích về các yếu tố pháp lý trong việc thực hiện hợp đồng thơng minh có yếu tố nước ngoài theo tư pháp quốc tế một số quốc gia. Đối với khái niệm về hợp đồng thông minh cũng như cách thức vận hành của loại hợp đồng này, tác giả chủ yếu đưa ra các quan điểm các học giả, tổ chức trên thế giới chứ khơng phân tích sâu các yếu tố này. Cịn đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, tác giả không đề cập đến.

Nguyễn Thị Hồng Anh, Giao kết Hợp đồng thông minh theo quy định của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và so sánh với pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật Quốc tế ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2022. Trong phạm vi cơng trình này, tác giả tập trung vào vấn đề giao kết hợp đồng thông minh, đối chiếu với các quy định về giao kết hợp đồng theo quy định của CISG, từ đó rút ra những đề xuất cho pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng thơng minh, cịn về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, tác giả không đề cập đến.

Nguyễn Ngọc Hồng Anh, Giải thích điều khoản Hợp đồng thông minh. Kinh nghiệm cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật Quốc tế ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2022. Thơng qua kết quả nghiên cứu của Khóa luận, tác giả phân tích các tính chất, đặc điểm của hợp đồng thơng minh có ảnh hưởng lớn đến vấn đề giải thích hợp đồng và các quan điểm của học giả xoay quanh việc áp dụng các quy định giải thích hợp đồng hiện hành đối với hợp đồng thông minh. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra quan điểm về đề xuất thủ tục, cách thức giải thích hợp đồng thông minh và khả năng áp dụng các quy định pháp lý hiện hành cho hợp đồng thông minh. Về vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, tác giả đề cập một cách gián tiếp thơng qua việc đưa ra vai trị của chuyên gia về kỹ thuật trong việc giải thích các ngơn từ và ngơn ngữ đã được mã hóa.

<i><b>Thứ hai, về vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng </b></i>

minh, có thể liệt kê các cơng trình sau:

Cổ Tấn Thảo Ngun, Hợp đồng thông minh và và trách nhiệm của các bên cung cấp giải pháp Hợp đồng thông minh theo pháp luật Hoa Kỳ - Kinh nghiệm cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật Quốc tế ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, 2022. Trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

bài Khóa luận tốt nghiệp này, tác giả phân tích những vấn đề pháp lý và những rủi ro liên quan đến hợp đồng thông minh và các nền tảng công nghệ hỗ trợ cho hợp đồng thông minh, từ đó chỉ ra trách nhiệm của các bên cung cấp giải pháp hợp đồng thông minh. Về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, tác giả có đề cập đến nguồn cấp dữ liệu (Oracle) thông qua việc đưa ra vấn nạn tin tặc tấn công vào hợp đồng thông minh thông qua việc lợi dụng các Oracle này, tuy nhiên bởi phạm vi của bài nghiên cứu, tác giả không đề cập cụ thể về vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong trường hợp này.

Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Hoàng Thái Hy, “Smart contract” theo pháp luật hợp đồng Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo hợp đồng thông minh - Những vấn đề pháp lý liên quan, Khoa Luật Quốc tế - Trường ĐH Luật TP.HCM ngày 01/3/2023. Trong bài tham luận này, các tác giả phân tích đánh giá tồn diện hợp đồng thơng minh dưới góc độ phù hợp về mặt pháp lý với khung pháp luật hợp đồng hiện hành của Việt Nam. Đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, các tác giả đề cập đến thông qua việc đặt ra vấn đề trách nhiệm của bên thứ ba trong trường hợp bên này có nghĩa vụ truyền tải thông tin cho hợp đồng thông minh như điều kiện để thực hiện hợp đồng. Đồng thời, chỉ ra một số vấn đề pháp lý mà pháp luật Việt Nam chưa điều chỉnh đối với trách nhiệm của bên thứ ba này.

Ellis Slaiman, Todd Wike, Ioannis Sfyrakis, “Implementation and evaluation of smart contracts using a hybrid on-and off-blockchain architecture”, ResearchGate,

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2020. Trong bài viết này, các tác giả đưa ra vấn đề về hợp đồng thông minh kết hợp (hybrid smart contract) và tiềm năng của việc sử dụng các Oracle, các công cụ khác trong và ngoài chuỗi khối để hỗ trợ cho việc vận hành của hợp đồng thông minh.

Vũ Thị Thu Trang, Vũ Anh Thư và Nguyễn Thị Quỳnh Yến, “Sự phát triển của

<i>hợp đồng thông minh ở Việt Nam và một số vấn đề pháp lý đặt ra”, FTU Working Paper Series, 2022. Trong bài viết này, nhóm tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản về </i>

Hợp đồng thông minh và sự tác động của hợp đồng thông minh đến các lĩnh vực đời sống tại Việt Nam. Đồng thời, bài viết đưa ra được sự đánh giá hợp đồng thông minh dựa trên các đặc điểm, một số ưu việt và hạn chế đang tồn tại. Cuối cùng, nhóm tác giả đưa ra những vấn đề pháp lý cần giải quyết và đề xuất giải pháp hồn thiện khung pháp lý về hợp đồng thơng minh ở Việt Nam hiện nay.

Lưu Ánh Nguyệt và các cộng sự, “Xu hướng ứng dụng công nghệ chuỗi khối trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam số 3/2022. Trong bài viết này, nhóm tác giả đã trình bày về cơng nghệ blockchain cùng những đặc tính cơ bản và xu hướng ứng dụng blockchain trong lĩnh vực tài chính. Đồng thời nêu lên những vấn đề đặt ra đối với việc ứng dụng blockchain trong lĩnh vực tài chính cũng như những khuyến nghị về vấn đề này. Bài viết nghiên cứu trực tiếp về cách ứng dụng công nghệ chuỗi khối vào lĩnh vực tài chính, khơng phát triển theo hướng tổng qt về việc ứng dụng hợp đồng thông minh trong nhiều lĩnh vực tuy nhiên vẫn có giá trị tham khảo nhất định khi đặt ra vấn đề hoàn thiện khung pháp lý đối với blockchain mà blockchain lại là công nghệ nền tảng phổ biến nhất để tạo nên một hợp đồng thông minh hiện nay.

Shuai Wang, et al., “Blockchain-enabled smart contracts: architecture, applications, and future trends”, IEEE Transactions on Systems, Man, and Cybernetics: Systems, 2019, 49.11, p. 2266-2277. Bài viết được các tác giả trình bày một cách tổng quan, tồn diện về hợp đồng thông minh, bao gồm cơ chế hoạt động, các nền tảng chính và các lĩnh vực ứng dụng. Ngồi ra, nhóm các tác giả cịn đề xuất một khuôn khổ nghiên cứu cơ bản về hợp đồng thông minh dựa trên kiến trúc sáu lớp mới lạ. Sau đó, đưa ra thảo luận về những thách thức mở trước việc ứng dụng hợp đồng thông minh và những tiến bộ nghiên cứu gần đây, cuối cùng là các xu hướng phát triển trong tương lai. Trọng tâm của bài báo này là đánh giá một cách có hệ thống các hợp đồng thông minh và xác định một số lỗ hổng nghiên cứu cần được giải quyết trong các nghiên cứu tương lai.

- Jerry I-Hsiao, “Smart contract on the blockchain-paradigm shift for contract

<i>law”, US-China Law Review, 2017. Trong phần nội dung được trình bày, tác giả đã giải </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thích khái niệm hợp đồng thơng minh và ứng dụng hiện tại của nó. Ngồi ra, bài viết cịn chỉ ra ba vấn đề cần được nghiên cứu thêm: (1) Mặc dù hợp đồng thơng minh có tiềm năng hoạt động hiệu quả hơn, nhưng liệu tất cả các điều khoản trong hợp đồng có thể được dịch thành mã và thực thi thơng qua tốn học và thuật tốn hay khơng vẫn là một vấn đề cần được nghiên cứu, xem xét. (2) Hợp đồng thông minh hoạt động dựa trên hệ nhị phân tổng bằng khơng, và nó gần như khơng xuất hiện trong tất cả hợp đồng ngoài đời thực. (3) Khái niệm phi tập trung cũng tồn tại vấn đề, bởi vì nó nhằm mục đích giải quyết tất cả các sự phát sinh trong hợp đồng xảy ra trước đó. Chính vì vậy tác giả cho rằng chúng ta sẽ thấy nhiều hơn việc hợp đồng truyền thống và hợp đồng thông minh cùng tồn tại để bổ trợ cho nhau trong tương lai chứ không phải thay thế nhau.

Larry A. DiMatteo, Michel Cannarsa, and Cristina Poncibò, “Smart contracts and contract law”, The Cambridge handbook of smart contracts, blockchain technology and digital platforms. Cambridge University Press, Cambridge, 2019. Trong phần này của cuốn sách, Larry A. DiMatteo đã đưa ra các định nghĩa của nhóm tác giả về hợp đồng thơng minh. Đồng thời phân tích cách vận hành của loại hợp đồng này và giải nghĩa chi tiết ý nghĩa tên gọi của loại hợp đồng này thực sự là gì<small>3</small>.

Daniel T. Stabile, Kimberly A. Prior, and Andrew M. Hinkes, Digital Assets and Blockchain Technology: US law and Regulation, Edward Elgar Publishing, 2020. Trong cuốn sách này, nhóm tác giả tập trung xem xét các phương pháp tiếp cận về mặt pháp lý đối với công nghệ blockchain, những thách thức và điểm vướng mắc còn tồn đọng trong việc điều chỉnh các sản phẩm của hệ thống blockchain này. Đồng thời họ cũng nỗ lực trong việc khám phá các quy định của luật chứng khoán và tiền tệ, sự phát triển của hợp đồng thông minh, thuế tài sản kỹ thuật số và luật hình sự, đồng thời đưa ra các cách phân loại hợp đồng thơng minh rất hữu ích cho việc nghiên cứu sâu về loại hợp đồng này.

Vitalik Buterin, “DAOs, DACs, DAs and More: An Incomplete Terminology Guide,” 2022. Trong bài viết này, tác giả Vitalik Buterin - người đồng sáng tạo Ethereum, đã đưa ra định nghĩa về hợp đồng thơng minh ít tập trung vào mặt công nghệ và gần gũi với đời thường hơn để đem lại cái nhìn tiệm cận về bản chất của hợp đồng thông minh, đồng thời đưa ra các ví dụ để diễn giải định nghĩa này cũng như phân tích

<small>3 Larry A. DiMatteo, Michel Cannarsa, and Cristina Poncibò, “Smart contracts and contract law”, The Cambridge handbook of smart contracts, blockchain technology and digital platforms. Cambridge University Press, Cambridge, 2019. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

cơ chế hoạt động của hợp đồng thông minh<small>4</small>. Những định nghĩa mà tác giả đưa ra dễ hiểu, tuy nhiên chưa mang lại cho người đọc cách hiểu đúng đắn về hợp đồng thơng minh thực sự là gì cũng như cụ thể hóa cách thức vận hành của hợp đồng thơng minh.

Ngồi ra, cịn có một số tài liệu khác như:

Ths. Lê Thu Hằng, Ths. Lê Thị Thanh Tâm, “Blockchain - Bước đột phá cho

<i>ngành Logistics của Việt Nam”, Hội thảo khoa học quốc tế, NXB Hà Nội, 2018. </i>

Smart Contracts: Fraud & Manipulation In Smart Contracts, Westlaw.

Nick Szabo, “Formalizing and Securing Relationship on Public Networks”, First Monday, 1997.

Sebastián Peyrott, An Introduction To Ethereum And Smart Contracts, 2022. LabCFTC, “A Primer on Smart Contracts”, Commodity Futures Trading Commission, 2018.

<i>Deep Shift Technology Tipping Points and Societal Impact, Global Agenda Council on the Future of Software & Society, World Economic Forum (Survey Report), </i>

2015.

<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

Đề tài hướng đến nghiên cứu về các vấn đề pháp lý xoay quanh hợp đồng thông minh mà cụ thể là với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh từ hệ thống pháp luật Estonia, Belarus và Việt Nam. Từ đó thơng qua đối chiếu pháp luật điều chỉnh về hợp đồng thông minh giữa Việt Nam với pháp luật Estonia, Belarus và những vấn đề rút ra trong q trình nghiên cứu, nhóm đưa ra những đề xuất cho khung pháp luật Việt Nam và những lưu ý cho các bên tham gia hợp đồng thông minh kết hợp về vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh, đặc biệt là với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể này trong trường hợp dữ liệu truyền tải vào hợp đồng thông minh bị sai lệch.

<b>4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu </b>

<b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b>

Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề về hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp, đặc biệt là trách nhiệm

<small>4 Vitalik Buterin (2014), “DAOs, DACs, DAs and More: An Incomplete Terminology Guide”, </small>

<small>[ (truy cập ngày 03/11/2022). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

về bồi thường thiệt hại phát sinh khi việc truyền tải dữ liệu vào hợp đồng bị sai. Trình bày cái nhìn tổng quan về Blockchain, hợp đồng thông minh, bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp, xem xét khung pháp luật của Estonia và Belarus về hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu được điều chỉnh thế nào tại hai quốc gia này.

Dựa trên sự phân tích của pháp luật Việt Nam điều chỉnh đối với hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu, đồng thời so sánh với pháp luật của Estonia và Belarus và từ những đánh giá qua q trình nghiên cứu của nhóm, đề tài sẽ làm rõ những thiếu sót hiện có trong khung pháp luật của Việt Nam, đồng thời đánh giá khả năng đáp ứng của pháp luật hiện hành so với thực tế có thể xảy ra. Qua đó đề xuất về việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp khi phát sinh thiệt hại do việc truyền tải dữ liệu sai gây ra và đưa ra những lưu ý cho các bên tham gia hợp đồng thông minh.

<b>4.2. Phạm vi nghiên cứu </b>

Nội dung nghiên cứu giới hạn trong phạm vi xác định trách nhiệm khi hợp đồng thông minh tự động thực hiện trái với ý chí của các bên trong hợp đồng thông minh (bao gồm bên tham gia giao kết và thực thi các nghĩa vụ trong hợp đồng thông minh, bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh) khi việc truyền tải dữ liệu bị sai, tập trung xác định lỗi khách quan trong bối cảnh ứng dụng hợp đồng thông minh và trách nhiệm của chủ thể là bên truyền tải dữ liệu chịu. Nghiên cứu sẽ mở rộng so sánh với các quy định của các nước là Estonia và Belarus.

Nội dung của đề tài xoay quanh các quy định của pháp luật Việt Nam, Estonia, Belarus về hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp, tập trung vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có lỗi sai trong việc truyền tải dữ liệu.

Hợp đồng thông minh chỉ tập trung vào dạng hợp đồng thông minh kết hợp (hợp hybrid smart contract). Còn trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu sẽ tập trung xác định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi truyền tải dữ liệu sai do sự kiện khách quan. Đề tài sẽ không tập trung vào các dạng hợp đồng thông minh khác và trách nhiệm khác của bên truyền tải dữ liệu như trách nhiệm bảo mật dữ liệu, xây dựng hệ thống…

<b>5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu </b>

<b>5.1. Cách tiếp cận </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nhóm tác giả sẽ đi từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của Blockchain, hợp đồng thông minh, bên truyền tải dữ liệu, đến những vấn đề thực tiễn trong việc ứng dụng hợp đồng thông minh tại Estonia, Belarus, những quy định trong khung pháp lý điều chỉnh chung về hợp đồng thông minh và điều chỉnh riêng về bên truyền tải dữ liệu. Từ đó so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành. Việc đánh giá sẽ được thực hiện thông qua các tiêu chí cụ thể về cả khung pháp luật và các bên tham gia hợp đồng thông minh.

<b>5.2. Phương pháp nghiên cứu </b>

Để thực hiện thành công đề tài, nhóm tác giả sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp.

Phương pháp so sánh đóng vai trị quan trọng nhất trong việc nghiên cứu đề tài, có tác dụng so sánh sự điều chỉnh luật và áp dụng pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan với các nghĩa vụ pháp lý liên quan. Đồng thời, phương pháp này được sử dụng đầu tiên để so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật điều chỉnh về hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh với các quy định về cùng vấn đề của Estonia và Belarus.

Phương pháp phân tích được vận dụng để giải thích và làm sáng tỏ các điều luật điều chỉnh có liên quan đến hợp đồng thơng minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng minh. Sau khi phân tích, nhóm sẽ chỉ ra quy định pháp luật hiện hành có những thiếu khuyết nào khi điều chỉnh các vấn đề này. Phương pháp này cũng được sử dụng nhằm phân tích các quy định của pháp luật của Estonia và Belarus để từ đó rút ra những ưu điểm trong các quy định điều chỉnh về cùng vấn đề của các quốc gia này để có thể đưa ra những kiến nghị hoàn thiện hơn cho pháp luật Việt Nam Dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn được tổng hợp từ quá trình phân tích, nghiên cứu, nhóm nhóm sẽ khái qt tồn diện những thiếu sót đang tồn tại trong các quy định về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng minh tại Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất phù hợp với Việt Nam về khung pháp lý điều chỉnh và lưu ý với các bên tham gia hợp đồng.

<b>6. Tóm tắt nội dung của đề tài </b>

Đề tài “Trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp - Kinh nghiệm từ Estonia, Belarus và đề xuất cho Việt Nam” đặt ra những vấn đề xoay

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

quanh trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp (hybrid smart contract) trong bối cảnh sự ứng dụng và phát triển của hợp đồng thông minh ngày càng trở lên phổ biến, đem tới những mối quan tâm có chiều sâu hơn, khơng chỉ dừng lại ở góc độ pháp lý của loại hợp đồng này mà còn ở những khía cạnh khác như cơ chế giải quyết tranh chấp, vấn đề bồi thường thiệt hại, xác định nghĩa vụ và lỗi của các bên trong trường hợp hợp đồng thông minh bị lỗi… Nội dung bài nghiên cứu chủ yếu tập trung phân tích các quy định của pháp luật xoay quanh hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, đặc biệt là với trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi truyền tải dữ liệu sai vào hợp đồng, đối chiếu với pháp luật của Estonia và Belarus. Từ đó, đánh giá được thiếu sót trong khung pháp luật hiện hành của Việt Nam đối với vấn đề trách nhiệm bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, rút ra những ưu điểm trong các quy định điều chỉnh cùng vấn đề giữa Việt Nam và hai quốc gia này để có thể đưa ra những kiến nghị hoàn thiện hơn cho pháp luật Việt Nam. Cuối cùng, đề tài còn đặt ra một khía cạnh nghiên cứu khác là làm thế nào để các bên tham gia vào hợp đồng thông minh (bao gồm các bên hợp đồng, bên truyền tải dữ liệu) có thể giảm thiểu rủi ro khi tham gia/giao kết hợp đồng thông minh.

<b>7. Sản phẩm nghiên cứu của đề tài và khả năng ứng dụng 7.1. Sản phẩm: </b>

Cơng trình nghiên cứu khoa học về “Trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh - Kinh nghiệm từ Estonia, Belarus và đề xuất cho Việt Nam”.

Bài tham luận đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Hợp đồng thông minh - Những vấn đề pháp lý liên quan, Khoa Luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/3/2023. Tên bài viết: Khái niệm hợp đồng thông minh - Tổng hợp từ một số quan điểm trên thế giới, kiến nghị bổ sung vào pháp luật Việt Nam.

<b>7.2. Khả năng ứng dụng: </b>

Đề tài đưa ra những vấn đề còn tồn tại mà khung pháp luật Việt Nam hiện hành chưa điều chỉnh tới đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, làm rõ những trường hợp thiệt hại phát sinh do truyền tải dữ liệu sai thì chủ thể nào sẽ là chủ thể có trách nhiệm bồi thường, đặc biệt là khi việc này không xuất phát từ lỗi của các bên. Với những nghiên cứu này, đề tài có khả năng ứng dụng ở hai nhóm:

1. Làm tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật xoay quanh vấn đề trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu, bồi thường thiệt hại do những “lỗi khách quan” trên không gian mạng trong giai đoạn công nghệ số bùng nổ như hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

2. Các doanh nghiệp hoặc các chủ thể khác trong xã hội có thể dựa vào những phân tích, đề xuất và lưu ý của nhóm tác giả để giảm thiểu những rủi ro khi giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp nếu sử dụng hợp đồng thông minh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ CHUỖI KHỐI, HỢP ĐỒNG THÔNG MINH VÀ BÊN TRUYỀN TẢI DỮ LIỆU TRONG HỢP ĐỒNG </b>

<b>THƠNG MINH 1.1. Tổng quan về cơng nghệ chuỗi khối </b>

<i>1.1.1. Khái niệm công nghệ chuỗi khối </i>

Nền tảng công nghệ đằng sau hợp đồng thông minh là công nghệ chuỗi khối (tiếng anh: Blockchain), đây là một trong những ứng dụng quan trọng hàng đầu của công nghệ sổ cái này. Ý tưởng về Blockchain xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2008 trong một bài

<i>luận với tựa đề “Bitcoin: A peer-to-peer Electronic Cash System” của (nhóm) tác giả </i>

với bút danh Satoshi Nakamoto bài viết đã đưa ra kiến thức tổng quan về sự hình thành chuỗi Bitcoin và các khối giao dịch kết nối trong chuỗi dù không trực tiếp sử dụng thuật ngữ “Blockchain” khi đề cập đến phương thức này. Đến năm 2009 Bitcoin chính thức vượt ra khỏi khuôn khổ một ý tưởng sáng tạo trên văn bản học thuật khi Satoshi Nakamoto sáng tạo ra mạng lưới Bitcoin, và Blockchain lúc này được thực hiện như một thành phần cốt lõi của Bitcoin<small>5</small>, với mục đích thiết kế ra một hệ thống thanh tốn tiền điện tử mà không cần bất kỳ bên trung gian tài chính nào. Tuy nhiên cần nhìn nhận một vấn đề rằng, dù Bitcoin là ứng dụng thực tế đầu tiên của Blockchain, nhưng công nghệ là sự kết hợp của một số kỹ thuật cơ bản này đã tồn tại trong ít nhất bốn thập kỷ trước đó<small>6</small>, đến thời điểm vào giữa những năm 1990 đã xuất hiện ý tưởng về một hệ thống bảo mật dữ liệu và an tồn thơng tin. Các nhà khoa học là Stuart Haber và W. Scott Stornetta đã cố gắng giải quyết một vấn đề lớn đó là làm thế nào để giữ cho quá khứ được an toàn và giữ cho thông tin kỹ thuật số được bảo mật đồng thời không bị thay đổi.<small>7</small>

Trong năm năm đầu tiên sau khi Bitcoin ra đời, lịch sử của Blockchain gần như trùng khớp với lịch sử của Bitcoin<small>8</small>. Đến năm 2015, với sự ra đời của nền tảng Ethereum

<small>5</small><i><small> Mark Gates, “Bản chất của Blockchain, Bitcoin, tiền điện tử, hợp đồng thông minh và tương lai của tiền tệ”, </small></i>

<small>NXB. Lao động, tr. 74. </small>

<small>6 “Một số quy định pháp luật của Mỹ liên quan đến công nghệ chuỗi khối Blockchain và tham khảo cho Việt </small>

<i><small>Nam”, Tạp chí điện tử pháp lý, [</small></i><small>nghe-chuoi-khoi-blockchain-va-tham-khao-cho-viet-nam-a255351.html] (truy cập ngày 12/02/2023) </small>

<small> Roopika J (2020), Blockchain Technology: History, Concepts, and Applications, International Research Journal of Engineering and Technology (IRJET), p. 645, [ (truy cập ngày 30/4/2023) </small>

<small>8 WTO, “Can Blockchain revolutionize international trade”?, tr. 4, </small>

<small>[ ( truy cập ngày 12/02/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

- sự kiện đôi khi được gọi là Blockchain 2.0 đã đánh dấu bước nhảy vọt của công nghệ Blockchain với khả năng cho phép hợp đồng thông minh hoạt động trên Blockchain.

Blockchain có thể được hiểu là một cuốn “sổ cái” kỹ thuật số được mã hóa phi tập trung được sử dụng để ghi lại các giao dịch. Các nguyên tắc cơ bản của công nghệ này cho phép những người khơng biết lẫn nhau có thể xây dựng một bản ghi kỹ thuật số lớn về “ai sở hữu cái gì” dựa trên nguyên tắc đồng thuận giữa những người có liên quan<small>9</small>. Nói cách khác, Blockchain cho phép các bên gửi, nhận và lưu trữ thông tin thông qua giao thức peer to peer. Mỗi giao dịch được phân phối trên toàn bộ mạng và chỉ được ghi lại trên một “khối” khi vào chỉ khi phần còn lại của mạng phê duyệt tính hợp lệ của giao dịch dựa trên lịch sử giao dịch của các khối trước đó.

<i>1.1.2. Đặc điểm của Blockchain và sơ lược về sự hình thành một chuỗi khối </i>

Một trong những tính năng độc đáo của Blockchain là bản chất phi tập trung trong các hoạt động của nó. Trong đó, khơng có bất kỳ ai là người nắm quyền hoặc có khả năng chi phối toàn bộ hệ thống Blockchain, mọi người tham gia vào với tư cách là một mạng máy tính đồng đẳng (node) trong cả mạng lưới. Bản sao của cùng một sổ cái tồn tại trên nhiều máy tính khác nhau, chúng có thể truy cập cơng khai vào hệ thống và cho phép các nút tham gia vào có thể xem chi tiết các giao dịch đã được thực hiện được ghi lại. Chính bản chất phi tập trung này đã tạo nên các đặc điểm nổi bật cho Blockchain, có thể kể đến như sau:

(i) Bất biến về dữ liệu

Blockchain duy trì hồ sơ khơng thể thay đổi về mọi giao dịch được xác nhận. Không người tham gia nào có thể làm giả giao dịch sau khi giao dịch đã ghi lại vào sổ cái phân tán. Trên mạng Blockchain, tất cả các nút (nodes) đều sở hữu bản sao của chuỗi khối và có thể truy xuất thông tin bất cứ lúc nào, làm hạn chế tối đa nguy cơ bị mất dữ liệu. Nếu bản ghi có lỗi, người dùng phải thêm một khối mới để ghi nhận sự bù trừ cho lỗi, các thông tin bị sai và được thêm vào để chỉnh sửa cho thơng tin trước đó đều được chứa trong các khối và hiển thị công khai trong mạng lưới. Việc thay thế một khối đã tồn tại chỉ có thể xảy ra khi có sự đồng thuận của hơn 50% node tham gia vào Blockchain trong cùng một lúc, để thay thế toàn bộ các khối ở trước và sau khối cần ghi đè đã tồn tại, mà điều này về mặt lý luận là bất khả thi<small>10</small>. Tóm lại, tính bất biến của dữ

<small>9</small><i><small> Kyushu University, “Legal Tech, Smart Contract and Blockchain”, Perspectives in Law, Business and Innovation, p. 2. </small></i>

<small>10 Florence Guillaume, "Aspects of private international law related to blockchain transactions.", Blockchains, Smart Contracts, Decentralised Autonomous Organisations and the Law, Edward Elgar Publishing, 2019, p. 51. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

liệu trong chuỗi khối được bảo vệ bởi cơ chế mã hóa, mã băm, và sự đồng thuận của cộng đồng mạng, giúp hạn chế tối đa việc thay đổi và đánh tráo dữ liệu.

(ii) Tính bảo mật cao

Cơng nghệ Blockchain cho phép lưu trữ tài sản (như các hợp đồng, tài liệu…) vào trong hệ thống thông qua Internet. Chủ sở hữu sẽ có quyền kiểm sốt trực tiếp hệ thống và chuyển giao tài sản của mình sang bất kỳ một người nào khác thơng qua ngun lý mã hóa. Các thơng tin, dữ liệu trong các chuỗi blockchain được phân tán và an tồn, chỉ có người nắm giữ “khóa riêng tư” mới có quyền truy xuất dữ liệu đó<small>11</small>. Khái niệm "khóa riêng tư" trong Blockchain có thể được hiểu tương đương với khái niệm "chữ ký số", xác nhận rằng người sở hữu đã thực sự tiến hành giao dịch. Bên cạnh khóa riêng tư, cịn tồn tại khái niệm "khóa cơng khai" (public key). Một khóa riêng tư có thể tạo ra nhiều khóa cơng khai, nhưng việc ngược lại khơng thể thực hiện, khơng thể từ khóa cơng khai mà truy xuất ngược về khóa riêng tư. Vì vậy, mặc dù các giao dịch trên blockchain được thực hiện cơng khai, tính bảo mật liên quan đến tài sản điện tử của người sở hữu vẫn được đảm bảo một cách toàn diện.

(iii) Minh bạch

Dữ liệu trong Blockchain cho phép mọi người đều có thể theo dõi đường đi từ địa chỉ này tới địa chỉ khác và có khả năng tổng hợp tồn bộ lịch sử trên địa chỉ đó. Các nguyên tắc cơ bản của công nghệ này cho phép những người không biết lẫn nhau có thể xây dựng một bản ghi kỹ thuật số lớn về “ai sở hữu cái gì” dựa trên nguyên tắc đồng thuận giữa giữa các bên có liên quan<small>12</small>. Nói cách khác, Blockchain cho phép các bên gửi, nhận và lưu trữ thông tin thông qua giao thức đồng đẳng. Mỗi giao dịch được phân tán trên toàn mạng và chỉ được ghi vào một "khối" khi phần cịn lại của mạng chấp thuận tính hợp lệ của giao dịch, dựa trên lịch sử giao dịch của các khối trước đó. So với hệ thống giao dịch tập trung truyền thống, nơi mỗi giao dịch cần sự xác nhận từ một thực thể tập trung và đáng tin cậy (ví dụ như Ngân hàng trung ương). Trong khi đó, Blockchain cho phép phân tán quyền kiểm soát và ra quyết định cho các thành phần trong mạng lưới bằng quy tắc sổ cái. Mỗi người dùng tham gia vào mạng blockchain được gọi là các node mạng, giữ một bản sao điện tử của dữ liệu blockchain. Dữ liệu blockchain được cập nhật thường xuyên tất cả các giao dịch mới nhất và đồng bộ với bản sao của người dùng. Mã nguồn trên mạng lưới blockchain là nguồn mở, điều này

<small>11</small><i><small> Champagne P., The book of Satoshi, e53 Publishing LLC, United States of America, 2014, tr. 21-22 </small></i>

<small>12 Kyushu University, tlđd số 12, p.2. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

có nghĩa là bất kỳ ai có máy tính kết nối được với Internet đều có thể tham gia vào mạng lưới và tiến hành giao dịch.

<i>1.1.3. Phân loại Blockchain </i>

Về cơ bản, Blockchain sẽ được phân chia thành 3 dạng chính: blockchain cơng khai (permissionless blockchain/public blockchain) và Blockchain riêng tư (permissioned blockchain/private blockchain)<small>13</small>. Loại blockchain thứ ba nhưng ít được nhắc đến là hybrid blockchain hoặc consortium blockchain (tạm dịch: blockchain hỗn hợp). Blockchain hỗn hợp được xem như là sự kết hợp giữa blockchain riêng tư và blockchain công khai<small>14</small>, nhưng chỉ cho phép các đối tượng đáng tin cậy được cấp quyền tham gia<sup>15</sup>.

Blockchain công khai là một hệ thống sổ cái phân tán không hạn chế, khơng u cầu cấp quyền, có nghĩa là nó cho phép bất kỳ ai kết nối với internet tham gia và trở thành một phần của nó<small>16</small>. Tất cả những người tham gia vào mạng blockchain này có thể đọc, viết và kiểm tra các hoạt động đang diễn ra trong mạng lưới, điều này giúp đạt được sự tự quản trị, thể hiện bản chất phi tập trung của blockchain. Và bởi vì mọi người có thể tự do truy cập và trở thành một phần của mạng lưới, các khối được tạo ra càng nhiều, càng có nhiều sự liên kết khiến cho blockchain công khai càng bền vững và trở nên cực kỳ khó khăn để xâm nhập và phá vỡ. Blockchain này tuy mang tính cơng khai nhưng việc phá vỡ tính bảo mật và thay đổi dữ liệu được nhập vào hệ thống là gần như bất khả thi bởi mọi thứ đều được mã hóa và gắn liền với sự liên kết hàm băm. Một vài ví dụ điển hình thường xun bắt gặp nhất về Blockchain công khai là các tổ chức mở công khai như Hyperledger Fabric hay Ethereum,... <small>17</small>

Ngược lại với Blockchain công khai, Blockchain riêng tư sẽ được hạn chế hoạt động trong một mạng lưới kín. Người tham gia chỉ có thể tham gia một mạng Blockchain riêng tư thông qua lời mời, trong đó danh tính hoặc thơng tin cần thiết phải được xác thực và chứng minh. Blockchain riêng tư kiểm sốt việc ai có quyền tham gia vào mạng bởi một cơ quan cụ thể duy trì mạng, mang tính tập trung hơn so với

<small>13 Understanding Blockchain’s Role and Risks in Trusted Systems (2019), [content/uploads/2021/07/ECM_Standards_Blockchain_WhitePaper-Final.pdf] (truy cập 05/05/2023) </small>

<small> Z. Zheng et al, ‘‘An overview of blockchain technology: Architecture, consensus, and future trends’’ in Proc. IEEE Int. Congr. Big Data (BigData Congress), 2017, p.557–564. </small></i>

<small>15 Roopika J, Blockchain Technology: History, Concepts, and Applications, International Research Journal of Engineering and Technology (IRJET), 2020, [ (truy cập ngày 30/04/2023) </small>

<small>16 Types Of Blockchains Explained- Public Vs. Private Vs. Consortium, Blockchain Council, 2022, [ (truy cập ngày 01/05/2023) </small>

<small>17 Roopika J, 2020, tlđd số 9. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

blockchain cơng khai. Ngồi ra, chỉ người dùng được chọn mới có thể duy trì sổ cái được chia sẻ. Chủ sở hữu Blockchain có thể thay đổi giao thức đồng thuận, quy tắc hoặc ghi đè bất kỳ thông tin nào trên Blockchain<small>18</small>. Chính vì thế, Blockchain riêng tư thường được sử dụng trong môi trường nội bộ của doanh nghiệp hoặc tổ chức kín.

Loại hình blockchain cịn lại u cầu sự cấp quyền cập đặc biệt để tham gia vào mạng lưới, cho phép mọi người tham gia vào sau khi đã thực hiện quá trình xác minh định danh phù hợp. Điều này cho phép những người tham gia thực hiện các chức năng cụ thể như là đọc, truy cập hoặc nhập thơng tin trên Blockchain. Nó vừa mang tính mở như một Blockchain cơng khai ở việc bất kỳ ai cũng có thể xem được các hoạt động diễn ra trên mạng lưới, nhưng không được tự do tham gia vào, người tham gia phải được cấp phép và xác minh độ tin cậy trước khi có thể tham gia và thực hiện hoạt động trên mạng lưới.

<i>Tính tới thời điểm hiện tại, Blockchain đã trải qua 4 giai đoạn phát triển (xem ảnh dưới), mặc dù thế hệ đầu tiên của Blockchain có từ năm 2008 - 2009 nhưng phải đến </i>

thế hệ thứ 2 (2010), Blockchain mới có khả năng triển khai hợp đồng thơng minh<small>19</small>.

Ảnh 1: Các giai đoạn phát triển của Blockchain tính tới hiện tại<small>20</small>

<small>18 Comparing public and private blockchain features, pros & cons, BVS Blockchain, 2022 [ (truy cập ngày 02/05/2023) </small>

<small>19 J. Angelis and E. Ribeiro da Silva, “Blockchain adoption: A value driver perspective”, Business Horizons, vol. 62, no.3, pp. 307 - 314, May 2019, doi: 10.1016/j.bushor.2018.12.001 and U. Bolkhe, S. Tanwar, K. Parekh, P. Khanpara, S.Tyagi, N. Kumar, and M. Alazab, “Blockchain for Industry 4.0: A comprehensive review”, IEEE Access, vol. 8, no. 1, pp. 79764-79800, Apr. 2020, doi: 10.1109/ACCESS.2020.2988579 </small>

<small>20 Lê Trần Quốc Công (2023), “Khi hợp đồng thông minh được ứng dụng phổ biến tại Việt Nam - Góc nhìn từ </small>

<i><small>nền tảng công nghệ đến khung pháp lý”, Kỷ yếu hội thảo hợp đồng thông minh - Những vấn đề pháp lý liên quan, </small></i>

<small>Khoa Luật Quốc tế - Trường ĐH Luật TP.HCM ngày 01/3/2023, tr. 8. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<b>1.2. Tổng quan về hợp đồng thông minh </b>

<i>1.2.1. Khái niệm hợp đồng thông minh </i>

Ý tưởng về hợp đồng thông minh (tiếng anh: Smart contract) được đề xuất từ những năm 1990 bởi nhà khoa học máy tính người Mỹ Nick Szabo<small>21</small>. Tại đó, ơng đã đưa ra một ý tưởng về việc sử dụng mã hóa để tạo ra các hợp đồng kỹ thuật số, tự động thực hiện các điều khoản một cách đáng tin cậy và không thể thay đổi. Đến đầu những năm 2010, khi Bitcoin trở nên phổ biến, ý tưởng về hợp đồng thông minh được đưa ra một lần nữa. Ethereum, một nền tảng blockchain được tạo ra vào năm 2015, đã làm cho hợp đồng thông minh trở thành một ứng dụng thực tế trên blockchain. Ethereum đã phát triển một ngơn ngữ lập trình riêng, Solidity, cho phép các nhà phát triển tạo ra các hợp đồng thơng minh trên nền tảng của mình.

Từ đó, các ứng dụng của hợp đồng thơng minh ngày càng được phát triển và áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, chuỗi cung ứng, quản lý tài sản và nhiều lĩnh vực khác. Hợp đồng thơng minh đem lại nhiều lợi ích cho các bên liên quan, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và đảm bảo tính minh bạch, đáng tin cậy trong các giao dịch kinh doanh.

Theo sự phát triển của hợp đồng thông minh, ngày càng nhiều học giả và tổ chức lần lượt đưa ra các định nghĩa về hợp đồng thông minh. Ngày nay, hợp đồng thông minh được thiết lập dựa trên nền tảng Blockchain đã được hiểu khác so với dạng hợp đồng thông minh mà Nick Szabo mô tả trước đây.

Theo các kỹ sư công nghệ, hợp đồng ngày nay về cơ bản là các mã lệnh được lưu trữ trên Blockchain và được thiết kế theo câu lệnh If-Then-Else để có thể tự thực hiện một số điều khoản đã được mã hóa từ các lập trình viên từ những thỏa thuận trước đó của các bên khi các điều kiện định trước được thỏa mãn<small>22</small>. Vitalik Buterin, người đồng sáng lập đồng tiền kỹ thuật số Ethereum đã giải thích về hợp đồng thơng minh trong hội nghị thượng đỉnh tại Washington DC như sau: “Hợp đồng thông minh là một cơ chế liên quan đến tài sản kỹ thuật số do hai hoặc nhiều bên tham gia. Trong đó một hoặc các bên đưa tài sản vào và tài sản này được tự động phân phối lại giữa các bên đó theo

<small>21</small><i><small> Nick Szabo (1997), “Formalizing and Securing Relationship on Public Networks”, First Monday, </small></i>

<small>[ (truy cập ngày 15/02/2023) </small>

<small>22</small><i><small> Z. Zheng, et al. (2020), tlđd số 14 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

một công thức dựa trên một số dữ liệu cụ thể mà các bên không được biết vào thời điểm hợp đồng được bắt đầu”<small>23</small>.

Dưới góc độ pháp lý, thì khơng phải trong trường hợp nào hợp đồng thông minh cũng được xem là một “hợp đồng”, chúng chỉ được xem là một hợp đồng có giá trị pháp lý khi được thiết lập thỏa mãn các điều kiện hợp đồng. Dựa trên góc độ pháp lý, trong ấn phẩm năm 2018 của mình, Phịng Thương mại Điện tử (CDC)<small>24</small><i>, phân biệt rõ “Hợp đồng thơng minh có tính pháp lý” - một ứng dụng của SC mới là đối tượng điều chỉnh </i>

của các hệ thống pháp luật về hợp đồng. Trong định nghĩa của mình, CDC cho rằng SC

<i>là “mã máy tính được xác định và được thực thi bằng công nghệ chuỗi khối thông qua một bộ tham số đã thiết lập, khi đáp ứng được các điều kiện cụ thể.” Cịn SC có tính pháp lý là “một hợp đồng thông minh thể hiện rõ ràng và có khả năng tự thực thi, trên cơ sở các điều khoản của một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên có hiệu lực pháp lý”. </i>

Nói tóm lại, dưới góc độ pháp lý, hợp đồng thơng minh phải bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết để trở thành một hợp đồng có giá trị pháp lý theo quy định pháp luật của một khu vực tài phán xác định. Các tranh chấp phát sinh từ dạng hợp đồng sẽ được giải quyết bởi cùng một cơ quan có thẩm quyền đồng thời giải quyết cho các hợp đồng pháp lý truyền thống<small>25</small>.

Tham khảo từ những khái niệm về hợp đồng thông minh được đưa ra từ các học giả và các tổ chức trên thế giới, nhóm tác giả xin đưa ra một khái niệm khái quát về hợp

<i>đồng thông minh như sau: “Hợp đồng thông minh là dạng hợp đồng điện tử đặc biệt mà trong đó, các điều khoản, thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng được thực thi toàn toàn bộ hoặc một phần dựa trên sự hỗ trợ của nền tảng công nghệ chuỗi khối. Các điều khoản trong loại hợp đồng này tương đương với một hợp đồng có giá trị pháp lý và được ghi lại dưới ngơn ngữ của lập trình”. </i>

<i>1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng thông minh </i>

Căn cứ vào các khái niệm, hợp đồng thông minh trên nền tảng Blockchain về cơ bản có cách thức xác lập và thực thi khác biệt hồn tồn với các hợp đồng thơng thường, thậm chí khác biệt đối với các hợp đồng điện tử truyền thống. Tuy nhiên, tự bản thân nền tảng Blockchain không đủ khả năng để có thể trực tiếp xử lý dữ liệu và thực hiện

<small>23 Vitalik Buterin, “DAOs, DACs, DAs and More: An Incomplete Terminology Guide,” </small>

<small>[ (truy cập ngày 26/52023). </small>

<small>24 Chamber of Digital Commerce (2018), Smart contracts: is the law ready?, [contracts-paper-press/] (truy cập ngày 15/6/2023) </small>

<small> Nash E. J. (2019), “Blockchain & SC Technology: Alternative Incentives for Legal Contract Innovation”, Brigham Young University Law Review, p. 817, 818. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

các chương trình một cách nhanh chóng, trơi chảy. Vì lý do này, một số ngơn ngữ lập trình chun được dùng để viết nên một hợp đồng thông minh đã được phát triển. Trong số đó, phổ biến nhất là ngơn ngữ lập trình Solidity, đây là một dạng ngơn ngữ lập trình tương tự như JavaScript nhưng được phát triển đặc biệt để viết nên hợp đồng thông minh chạy trên nền tảng Ethereum<small>26</small>. Để có cái nhìn trực quan hơn về thế nào là một hợp đồng thông minh được viết trên Ethereum bằng ngơn ngữ lập trình chun biệt Solidity, có một ví dụ mang tính tham khảo như sau:

<i>Hình: Mã của một hợp đồng thơng minh đơn giản<small>27</small> </i>

Bản chất của hợp đồng thông minh là hoạt động trên nền tảng của công nghệ blockchain mà cụ thể là hoạt động dưới sự hỗ trợ của nền tảng Ethereum (nền tảng phần mềm mở được tạo ra vào năm 2015 với mục đích xây dựng và triển khai các ứng dụng

<small>26 Sebastián Peyrott, An Introduction To Ethereum And Smart Contracts, </small>

<small>[ (truy cập ngày 30/10/2022). </small>

<small>27 Sebastián Peyrott (2017), “An Introduction To Ethereum And Smart Contracts”, </small>

<small>[ (truy cập ngày 30/10/2022) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

phi tập trung và hợp đồng thông minh), tồn tại dưới dạng tập hợp các mã hóa và thuật tốn, do đó tồn tại các đặc điểm vơ cùng nổi bật, có thể kể đến một vài yếu tố như sau:

a. Vận hành tự động

Hợp đồng thông minh là một dạng hợp đồng điện tử đặc biệt khi được viết ra bằng ngơn ngữ lập trình với tất cả các điều khoản hợp đồng được xác lập và mã hóa bởi các câu lệnh “If…then…”. Điều này có nghĩa nếu khơng thỏa mãn một trong các điều kiện được lập trình sẵn, quá trình thực thi hợp đồng sẽ tự động ngừng lại. Nếu như việc thực thi các điều khoản trong hợp đồng truyền thống trên thực tế dựa vào sự thiện chí, hợp tác giữa các bên thì hợp đồng thông minh với nguyên tắc vận hành tự động đã đem lại một quy trình hồn tồn mới trong thực hiện hợp đồng. Đây là một điểm phân biệt nổi bật giữa hợp đồng thông minh với các hợp đồng truyền thống được xác lập dưới dạng văn bản, lời nói hoặc hành vi của các chủ thể tham gia giao kết. Có thể nhận thấy một cách rõ ràng rằng hợp đồng thông minh đã loại bỏ đi quá trình thỏa thuận giữa các bên khi được xác lập dựa trên các bộ giao thức có sẵn khi mà một khi các bên đồng ý với các điều khoản của hợp đồng, mã của hợp đồng thông minh sẽ đảm bảo chắc chắn họ bị ràng buộc và không thể vi phạm hợp đồng. Đồng thời, hợp đồng thông minh được soạn thảo bằng cách sử dụng mã nguồn máy tính, chúng có thể được tiêu chuẩn hóa và thực hiện gần như khơng tốn kém nên có thể giảm bớt những định phí khi tạo lập hợp đồng<small>28</small>.

b. Tính bảo mật

Nếu hợp đồng thơng minh chỉ hoạt động với cách thức lập trình như vậy thì từ trước tới giờ đã tồn tại rất nhiều những hợp đồng điện tử mang đặc tính tự động hóa tương tự. Tuy nhiên, những hợp đồng điện tử này thiếu khuyết một cơ chế đó là cơ chế giám sát, xác nhận những giao dịch để chống lại sự gian lận. Được xác lập dựa trên nền tảng của công nghệ chuỗi khối mà bản chất blockchain là một chuỗi khối liên kết với nhau bằng các hàm băm với tính bảo mật cao nên hợp đồng thơng minh theo đó cũng có độ tin cậy vượt trội, giải quyết được vấn đề về cơ chế bảo mật tồn đọng của các hợp đồng điện tử mang đặc tính tự vận hành khác. Bằng đặc điểm này, hợp đồng thơng minh có thể bảo vệ các chủ thể tham gia xác lập khỏi những sự cố không mong muốn như giả mạo, lừa đảo, xâm nhập bất hợp pháp. Một khi xác lập hợp đồng thông minh, đồng nghĩa với việc các bên tự nguyện đặt niềm tin vào độ bảo mật của blockchain thay vì bất kỳ bên trung gian nào. Như vậy, thì vì đặt nhiệm vụ giám sát quá trình thực hiện

<small>28 Jerry I-H Hsiao, “Smart contract on the Blockchain - paradigm shift for contract law”, US-China Law Review, 2017, p. 687. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hợp đồng cho một bên thứ ba bất kỳ, chính hợp đồng thơng minh sẽ giữ vai trị đó, tránh trường hợp hợp đồng bị thao túng hay giả mạo. Bởi hợp đồng thông minh được thiết lập trên những thuật toán và khởi chạy theo một trình tự đã được lập trình tự động do đó rất khó để phá vỡ những thuật tốn này và cho dù thực hiện được thì cũng phải đánh đổi bằng một khối lượng tài nguyên rất lớn<small>29</small>.

c. Tính bất biến về dữ liệu

Được thiết lập trên nền tảng Blockchain, hợp đồng thông minh mang đầy đủ các đặc tính của cơng nghệ này, trong đó có tính bất biến về dữ liệu xuất phát từ giao thức đồng đẳng (peer to peer) của nền tảng này. Các hợp đồng thông minh được lưu trữ trên nền tảng blockchain và có sự dán nhãn về thời gian cho tất cả các hành động được thực thi. Một khi các dữ liệu được nhập trực tiếp vào các khối của blockchain thì nó khơng thể bị thay đổi hoặc sửa chữa bởi bất kỳ ai do sự hoạt động của thuật toán đồng thuận và mã hàm băm liên kết các khối chứa thông tin lại với nhau. Nghĩa là khi có ai đó sửa đổi một dữ liệu nào lưu trữ trên blockchain và sự sửa đổi này được chấp nhận bởi phần lớn các nút khác, giao dịch sẽ được xác thực và tích hợp vào một khố mới nối thêm vào chuỗi khối và được cấp nhật trên tất cả các nút tham gia trong mạng. Những bản sao giống hệt nhau của dữ liệu mới này được quản lý đồng bộ bởi tất cả các nút trong mạng, khơng có bất kỳ phân cấp nào giữa các bản sao.<small>30</small> Nếu muốn thay đổi thông tin nhằm gây bất lợi cho bất kỳ bên nào sẽ phải đối mặt với một hệ thống bảo mật cực kỳ cao và q trình sửa đổi tồn bộ các mã băm liên kết các khối gần như là bất khả thi. Đồng thời bởi tính phi tập trung nên các thông tin không thể bị thất lạc do đều được mã hóa trên một cuốn sổ cái chung, đáp ứng được sự minh bạch và an toàn. Nhờ sự ghi nhớ, bảo mật cao mà ai cũng có thể dễ dàng truy dấu được nguồn gốc của tất cả các giao dịch, khơng có khả năng đảo ngược giao dịch và mọi dấu vết đều được ghi nhận một cách rõ ràng và cụ thể trên công nghệ chuỗi khối. Điều này vơ hình chung tạo được sự trung thực của các bên khi tham gia vào bất kỳ một hợp đồng thông minh nào.

<i>1.2.3. Phân loại hợp đồng thơng minh </i>

Cho đến thời điểm hiện tại, tính pháp lý của hợp đồng thông minh vẫn là một vấn đề đang được bỏ ngỏ. Có thể thấy rằng, khó có thể đưa ra một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ hợp đồng thông minh. Tuy nhiên thông qua những quan điểm đa dạng được đưa ra bởi các học giả, các tổ chức chính phủ và các hệ thống pháp luật trên thế giới, dễ

<small>29 Tô Minh Phương, Pháp luật điều chỉnh hợp đồng thông minh (Smart contract) trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2020. </small>

<small>30 Mark Gates (2017), Blockchain: Ultimate guide understanding blockchain, bitcoin, cryptocurrencies, smart </small>

<i><small>contracts and the future of money, Vol. 125, Scotts Valley: CreateSpace Independent Publishing Platform. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

dàng nhận thấy một điểm chung nhất rằng: hợp đồng thông minh là một chương trình máy tính. Khi đó, các điều khoản được thiết lập trong hợp đồng sẽ được thể hiện dưới dạng các câu lệnh được mã hóa. Chúng được tạo lập và thiết kế sao cho các điều khoản sẽ tự động thực thi bằng ứng dụng của công nghệ kỹ thuật số mà không cần đến sự giám sát, quản lý của bất kỳ bên thứ ba nào.

Thông qua quá trình nghiên cứu tài liệu và tổng kết thực tiễn, nhóm tác giả kết luận hợp đồng thơng minh có thể được phân làm hai loại dựa trên chức năng và mức độ công nghệ<small>31</small>.

Thứ nhất là hợp đồng thông minh thực sự “thông minh”. Nghĩa là đối với dạng hợp đồng này, nó được lập trình hoàn toàn bằng mã code, tự động thực thi mà khơng cần nhận dữ liệu từ bên ngồi vào. Đây là dạng hợp đồng thông minh tự thực thi “thuần túy”, chỉ có bước giao kết hợp đồng là nhận dữ liệu từ bên ngoài (người giao kết nhấn xác nhận chấp nhận giao kết hợp đồng), thường đóng vai trò như một phần mềm trung gian kỹ thuật. Loại hợp đồng này hiếm khi tạo ra các mối quan hệ pháp lý có thể thực thi. Chúng tồn tại để thực hiện các nhiệm vụ cơ học, như một sự bổ sung cho các hợp đồng pháp lý mà các điều khoản quan trọng làm cho hợp đồng có hiệu lực không nằm ở việc thực hiện các đoạn mã.

Thứ hai là hợp đồng thông minh cần có sự chuyển đổi dữ liệu từ bên ngồi, thường được ứng dụng hiện nay, còn được biết đến với tên gọi hợp đồng thông minh kết hợp (hybrid smart contract<small>32</small>). Đối với dạng hợp đồng này, để “chấp nhận” một hợp đồng thông minh trên hệ thống, người dùng có thể trực tiếp hoặc thơng qua một Oracle<small>33</small> gửi các dữ liệu từ bên ngoài cung cấp rằng mục đích khi giao kết hợp đồng của một bên (đối tượng của hợp đồng) đã được thực hiện và sau đó hợp đồng sẽ tự động thực hiện thanh tốn. Nói cách khác, loại hợp đồng thơng minh này sẽ cần thơng tin từ thế giới bên ngồi để cho phép nó thực hiện giao dịch<small>34</small> (Ví dụ: Một hợp đồng thơng minh có điều khoản: “Nếu hơm nay trời mưa, thì A sẽ nhận được 100 USD từ B”, để hợp đồng

<small>31</small><i><small> Lauren Henry Scholz, “Algorithmic Contracts”, Stanford Technology Law Review, pp. 128-169. </small></i>

<small>32 Ellis Slaiman, Todd Wike, Ioannis Sfyrakis, “Implementation and evaluation of smart contracts using a hybrid </small>

<i><small>on-and off-blockchain architecture”, ResearchGate, </small></i>

<small>[ (truy cập ngày 08/8/2023) </small>

<small>33 Oracle là nguồn cấp dữ liệu của bên thứ ba cung cấp về các thông tin ở thế giới bên ngồi cho Smart contract, đóng vai trị như cầu nối giữa Smart contract với thế giới bên ngoài. Chúng thường là một thiết bị điện tử hay máy tính của hệ thống. </small>

<small>34 E. Tjong Tjin Tai, “Force Majeure and Excuses in Smart Contracts”, Tilburg Private Law Working Paper Series, No. 10/2018, p.4, 5, [ (truy cập ngày 18/8/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

có thể vận hành, nó cần được cung cấp thơng tin về thời tiết). Vịng đời điển hình của một hybrid smart contract thường bao gồm các bước sau:

Để giải thích cụ thể về q trình này, nhóm tác giả đưa ra ví dụ mang tính mơ tả

<i>như sau (tạm gọi là “ví dụ thanh toán”): </i>

(i) Nghĩa vụ “Chuyển tiền trong tài khoản thanh toán của A sang tài khoản của B trong một mốc thời gian nhất định” được thể hiện dưới dạng các câu lệnh mã hóa. Đây là thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng thông minh.

(ii) Nghĩa vụ chuyển tiền được thực hiện khi “B giao hàng cho A”. Đây là nghĩa vụ của một bên chủ thể cũng đồng thời là tiêu chí để xác định thực hiện hợp đồng và kích hoạt nghĩa vụ thanh tốn của bên A.

Trên đây là mơ phỏng về nội dung của mã hợp đồng thông minh đơn giản. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc tạo ra các đoạn mã thì khơng thể xác định được liệu rằng B đã giao hàng cho A hay chưa và làm cách nào để xác định việc giao hàng đã diễn ra để hợp đồng thông minh tự động để A thực hiện chức năng thanh toán. Điều này đặt ra một điều kiện quan trọng đối với hợp đồng thơng minh kết hợp, đó là hợp đồng thơng minh cần có sự liên kết với thế giới vật chất. Các đối tượng được đề cập cần có sự tham chiếu đến thực tế. Và bởi vì hiện tại hợp đồng thông minh phổ biến và dừng lại ở chức năng thanh toán nên những nghĩa vụ khác cần được thực hiện ở thế giới vật chất chứ không mang tính tự động thực thi như việc tự động thanh tốn.

Thứ ba là loại hợp đồng thơng minh tích hợp vào hợp đồng truyền thống (hợp đồng Ricardian). Đây là loại hợp đồng được Ian Grigg và Gary Howland<small>35</small> lên ý tưởng vào năm 1996, đây là loại hợp đồng được viết bằng ngôn ngữ tự nhiên nhưng có thể được xử lý bằng phần mềm dẫn đến việc máy tính biên dịch nó thành mã thực thi để thực hiện các điều khoản của thỏa thuận ngôn ngữ tự nhiên. Loại hợp đồng này được thiết kế nhằm mục đích thống nhất các ngơn ngữ văn bản và mã kỹ thuật.

Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tập trung phân tích đối với khía cạnh của dạng hợp đồng thông minh thứ hai - hybrid smart contract (sau đây gọi tắt là “hợp đồng thông minh”.

<b>1.3. Bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh kết hợp </b>

Như đã đề cập ở mục 1.2, các hợp đồng thông minh là các chương trình phần mềm tự thực thi có khả năng thực thi các thỏa thuận giữa các bên khi các điều kiện cụ thể

<small>35 Ian Grigg, “The Ricardian Contract”, [ (truy cập ngày 29/10/2022). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

được đáp ứng và để có thể thực thi thỏa thuận, đơi khi yêu cầu hợp đồng phải nhận được thông tin liên quan từ thế giới bên ngoài. Tuy nhiên hợp đồng thông minh là những mã code, chúng không thể truy cập dữ liệu ngoài chuỗi khối (dữ liệu nằm ngoài mạng)<small>36</small>

Đây là lúc cần đến nguồn cấp dữ liệu (Oracle) - các dịch vụ của bên thứ ba cung cấp cho các hợp đồng thông minh những thông tin từ thế giới bên ngoài để là điều kiện để thực thi hợp đồng thông minh. Cần lưu ý rằng bản thân Oracle không phải lúc nào cũng là cầu nối giữa nguồn dữ liệu và hợp đồng thông minh, đơi lúc Oracle đóng vai trị vừa là nguồn dữ liệu vừa là một Oracle - loại Oracle này được gọi là “Oracle của bên thứ nhất”<small>37</small>.

<i>1.3.1. Oracle - Nguồn cấp dữ liệu </i>

Oracle rất đa dạng, không chỉ là những thiết bị, máy tính mà cịn có thể tất cả những thứ có thể hoạt động giống như một phần mềm trung gian tạo điều kiện cho hợp đồng thơng minh và bất kỳ hệ thống ngồi chuỗi khối (off-chain) nào cũng có thể giao tiếp với nhau, bao gồm các nhà cung cấp dữ liệu, API web, phụ trợ kinh doanh, Cloud, Thiết bị IoT, chữ ký số, thanh toán hệ thống, phần mềm chuyển đổi dữ liệu…. Dựa vào hình thức, có thể chia ra các dạng Oracle như sau<small>38</small>:

<i>Oracle phần mềm </i>

Các Oracle phần mềm tương tác với các nguồn thông tin trực tuyến và truyền nó đến blockchain. Thơng tin này có thể đến từ các cơ sở dữ liệu trực tuyến, các máy chủ, trang web – về cơ bản là bất kỳ nguồn dữ liệu nào có thể tìm thấy được trên Internet. Việc các Oracle phần mềm được kết nối với mạng Internet không chỉ cho phép chúng cung cấp thông tin cho các hợp đồng thông minh mà cịn truyền các thơng tin đó đi theo thời gian thực. Điều này làm cho chúng trở thành một trong những loại Oracle trên blockchain phổ biến nhất.

<i>Oracle phần cứng </i>

Một số hợp đồng thông minh cần tương tác với thế giới thực. Dựa vào ứng dụng của công nghệ Internet of Things. Các oracle phần cứng được thiết kế để thu thập thông tin từ thế giới vật lý và cung cấp nó cho các hợp đồng thơng minh. Những thơng tin này có thể được chuyển từ các cảm biến điện tử, máy quét mã vạch và các thiết bị đọc thông

<small>36</small><i><small> E. Tjong Tjin Tai, tlđd số 34, [</small></i><small> (truy cập ngày 18/8/2023), </small>

<small>37 First-party vs Third-party Oracles (2023), [oracles/] (truy cập ngày 09/8/2023) </small>

<small> Smart Contracts and the Digital Single Market Through the Lens of a “Law + Technology” Approach, </small>

<i><small>Directorate-General for Communications Networks, Content and Technology, European Commission, p. 27, 28 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

tin khác. Một oracle phần cứng về cơ bản “chuyển đổi” các sự kiện trong thế giới thực thành các giá trị kỹ thuật số mà các hợp đồng thơng minh có thể hiểu được. Một ví dụ về Oracle phần cứng là cảm biến có khả năng kiểm tra xem liệu một chiếc xe tải vận chuyển hàng hóa đã đến vịnh chất hàng hay chưa. Nếu xe đã đến, nó sẽ chuyển thơng tin này đến hợp đồng thông minh và hợp đồng thông minh này sau đó sẽ ra các quyết định dựa trên thơng tin đó.

<i>Các Oracle con người </i>

Đơi khi những người có kiến thức chuyên ngành trong một lĩnh vực cụ thể cũng có thể đóng vai trị như một Oracle. Họ có thể nghiên cứu và xác minh tính xác thực của thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và chuyển các thơng tin đó đến các hợp đồng thơng minh. Trong trường hợp này, họ có thể là một bên trong hợp đồng hoặc bên thứ ba được các bên trong hợp đồng ủy quyền truyền tải thông tin vào hợp đồng thơng minh. Vì có thể xác minh danh tính của các Oracle con người bằng cách sử dụng mật mã, nên nguy cơ họ bị giả mạo danh tính và cung cấp dữ liệu lỗi là tương đối thấp, tuy nhiên điều này cũng đồng nghĩa với việc, khi họ nhập sai thông tin dữ liệu, chủ thể chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc nhập sai dữ liệu sẽ là chính họ. Sự phân loại đối với Oracle con người sẽ chia làm 3 chủ thể:

(i) Một bên trong hợp đồng thông minh: Một bên có nghĩa vụ thực hiện hành động ở mơi trường ngồi hợp đồng thơng minh sẽ phải tự cung cấp thơng tin họ đã hồn thành nghĩa vụ đó trên thực tế để thỏa mãn điều kiện được quy định trong hợp đồng nhằm kích hoạt tính tự động thực thi khi mệnh đề “if” được đáp ứng.

(ii) Bên thứ ba do các bên trong hợp đồng thông minh chỉ định: Đây là chủ thể được các bên lựa chọn và có thể bị ràng buộc bởi các mối quan hệ pháp lý như hợp đồng ủy quyền. Họ có trách nhiệm truyền tải thơng tin về q trình thực hiện hợp đồng của một hoặc cả hai bên vào hợp đồng thông minh.

(iii) Bên thứ ba do một bên tham gia giao kết hợp đồng thông minh thuê: Đối với loại chủ thể này, họ chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý dựa trên hợp đồng th đối với bên th mình chứ khơng chịu trách nhiệm phát sinh đối với mọi bên tham gia hợp đồng khi có vi phạm về tính xác thực của thông tin.

Vậy bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh là Oracle con người được chia thành 3 chủ thể, gồm: một bên trong hợp đồng thông minh, bên thứ ba khác do các bên trong hợp đồng thông minh chỉ định và bên thứ ba khác do một bên trong hợp đồng thông minh thuê.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i>1.3.2. Trách nhiệm của bên thực hiện việc truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thơng minh </i>

Các Oracle theo hướng nghiên cứu của nhóm tác giả là hệ thống Oracle ngoài chuỗi (off-chain), nên chúng không nằm trong các cơ chế bảo mật mà các blockchain có thể cung cấp. Xung đột về yêu cầu sự tin cậy khi sử dụng các Oracle của bên thứ ba và khả năng thực thi mà không cần sự tin cậy của các hợp đồng minh vẫn là một bài tốn chưa có lời giải. Các cuộc tấn cơng của người trung gian, trong đó một tác nhân độc hại có quyền truy cập vào luồng dữ liệu giữa các Oracle và hợp đồng để sửa đổi hoặc làm sai lệch dữ liệu, cũng có thể là một mối đe dọa. Các hợp đồng thông minh thực thi các quyết định dựa trên dữ liệu do các Oracle cung cấp nên chúng là chìa khóa cho một hệ sinh thái blockchain lành mạnh. Vấn đề lớn nhất trong việc thiết kế các blockchain là nếu Oracle bị tấn cơng, thì hợp đồng thơng minh dựa vào nó cũng bị tấn công. Điều này thường được gọi là “Vấn đề Oracle”. Hiểu một cách đơn giản. để một Oracle có thể hoạt động, dù có là bất kỳ loại Oracle nào đi chăng nữa, vẫn phải cần có sự can thiệp của con người - đây là chủ thể được gọi là bên thực hiện việc truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh, và trong trường hợp xảy ra những sự cố Oracle truyền tải dữ liệu sai, đặt ra một vấn đề là, ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho sự cố đó. Bên thiết kế ra Oracle, bên cung cấp dữ liệu cho Oracle, hay bên thuê dịch vụ Oracle? Để mô tả những vấn đề có thể xảy ra này, nhóm tác giả đưa ra các trường hợp điển hình thường xảy ra trong thực tế dưới đây

<i>Đối với Oracle con người </i>

Như đã đề cập ở nội dung trên, Oracle con người lúc này chính là bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh đúng nghĩa, cung cấp các điều kiện để hợp đồng có thể tự động thực thi. Bởi họ là người trực tiếp chịu trách nhiệm nhập thơng tin, do đó các vấn đề xoay quanh trách nhiệm truyền tải của họ tương đối rõ ràng - theo nguyên tắc dân sự ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Về cơ bản, oracle con người vẫn thực hiện vai trò truyền tải thông tin vào hợp đồng thông minh thông qua các phần mềm và phần cứng. Nhưng điểm khác biệt nổi bật là có sự tham gia trực tiếp của con người nhập liệu, nếu khơng có hoạt động này thì các phần mềm và phần cứng không tự chuyển dữ liệu như các loại phần mềm, phần cứng mà nhóm tác giả trình bày ở những nội dung trên. Tức là, vai trò của oracle con người đề cao sự đánh giá chủ quan của chính họ hoặc ý chí các chủ thể họ nhập liệu thay (như bên trong hợp đồng thuê họ). Vấn đề đặt ra ở đây là, trong trường hợp họ được một bên trong hợp đồng thuê để nhập dữ liệu vào hợp đồng, thì liệu có sự liên đới trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ hay khơng, và nếu có thì sẽ xảy ra lúc nào?

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i>Đối với Oracle phần mềm </i>

Như đã trình bày ở phần phân loại, oracle phần mềm có thể là cơ sở dữ liệu để truyền tài thông tin trực tiếp vào hợp đồng thơng minh, có thể kể đến một vài dạng như: trang web, các ứng dụng hoặc các nguồn dữ liệu khác được tạo và được lưu trữ hoàn tồn trên mạng lưới internet.

Một ví dụ điển hình là nếu như các bên tham gia hợp đồng xác nhận lấy dữ liệu từ một trang web dự báo thời tiết với các điều kiện như sau:

- Nếu như thơng tin dự báo ngày x có mưa thì A sẽ tự động chuyển số tiền là y cho bên A.

Như vậy, để xác nhận ngày x trời có mưa hay khơng nằm ngồi khả năng nhận biết của hợp đồng thơng minh mặc dù đó là điều kiện để thực thi nghĩa vụ trong hợp đồng. Thông tin về thời tiết lúc này được truyền trực tiếp từ trang web dự báo thời tiết sang hợp đồng thông minh không thông qua bất kỳ thiết bị trung gian (phần cứng) nào hay cần chờ đợi sự nhập liệu từ con người. Tuy nhiên, nó xảy ra những vấn đề xoay quanh trách nhiệm chủ thể nếu phần mềm này xảy ra lỗi.

Cụ thể, nếu như vì những lý do khách quan hoặc lỗi phần mềm mà thông tin được truyền vào hợp đồng thông minh khơng chính xác với thực tế nhưng bởi vì tương thích với điều kiện đã đặt ra mà nghĩa vụ chuyển tiền được thực thi thì trách nhiệm sẽ thuộc về ai? Bên thứ ba lúc này không phải là con người mà là một phần mềm, hơn hết nếu như các bên trong hợp đồng thỏa thuận lấy dữ liệu từ một trang web bất kỳ nhưng giữa các bên tham gia hợp đồng khơng có bất kỳ sự ràng buộc pháp lý nào với chủ sở hữu phần mềm/người vận hành phần mềm thì người này được miễn trách nhiệm pháp lý đối với sự sai sót của phần mềm hay không? Và các bên trong hợp đồng sẽ tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình trong việc lựa chọn một nguồn cung cấp bất kỳ mà khơng có sự ràng buộc pháp lý đối với người vận hành để đảm bảo tính pháp lý của dữ liệu được truyền tải.

<i>Đối với Oracle phần cứng </i>

Tương tự như đối với Oracle phần mềm, Oracle phần cứng được thể hiện trực tiếp bằng các thiết bị điện tử cụ thể dưới một số dạng cụ thể như: đồng hồ thông minh đo nhịp tim, nhiệt độ hoặc các thiết bị có chức năng định vị cùng một số thiết bị với các chức năng cụ thể khác nhằm truyền tải thông tin tự động về điều kiện xác nhận thực hiện hợp đồng của các bên trong giao dịch. Vấn đề pháp lý đặt ra đối với loại Oracle này là, trong trường hợp Oracle này đột nhiên bị hỏng, dẫn tới việc truyền thông tin vào

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

hợp đồng thông minh có sai lệch, ai sẽ là người chịu trách nhiệm đối với sai sót này, ai sẽ là người phải bồi thường? Để cụ thể hóa, nhóm tác giả đưa ra ví dụ sau đây:

Ví dụ: Một hợp đồng thông minh về bảo hiểm được lập ra giữa công ty bảo hiểm với một người bị bệnh tim (tạm gọi là B). Oracle được tích hợp vào trong thiết bị hỗ trợ tim của B để theo dõi nhịp tim (thiết bị này do một bên thứ ba cung cấp), và hợp đồng thơng minh này có nội dung rằng nếu người này tử vong do một cơn đau tim (được thiết bị Oracle này theo dõi xác nhận), thì tiền bảo hiểm sẽ được chuyển trực tiếp cho con gái của B. Tuy nhiên trong trường hợp người này gặp một vụ tai nạn xe cộ, và lên cơn đau tim, tuy nhiên nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của người này là từ những chấn thương do vụ tai nạn xe chứ không phải cơn đau tim, nhưng hệ thống Oracle này bởi nhận được tín hiện từ cơn đau tim và sau đó là tim ngừng đập, nên đã xác định người này tử vong do cơn đau tim và truyền thông tin vào hợp đồng thông minh để hợp đồng thực thi việc chuyển tiền cho con gái.

Từ ví dụ trên, câu hỏi pháp lý đặt ra ở đây là, ai sẽ là người chịu trách nhiệm đối với sự sai lệch do Oracle này gây ra, công ty cung cấp Oracle này, bên thuê công ty cung cấp dịch vụ này và liệu có xảy ra liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Hay chỉ đơn giản là khi phát hiện lỗi sai này, con gái của B sẽ hoàn lại tiền bảo hiểm cho công ty bảo hiểm?

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ tập trung làm rõ vấn đề trong trường hợp xảy ra các Vấn đề Oracle, thì trách nhiệm của các bên trong thực tế sẽ thế nào, từ đó làm rõ trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu, bên thiết kế Oracle phần mềm và phần cứng (Sau đây gọi chung các chủ thể này là “bên truyền tải dữ liệu”) vào hợp đồng thông minh trong trường hợp xảy ra các vấn đề này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>

Ở Chương này nhóm tác giả đã tìm hiểu những nội dung liên quan về mặt lý luận Blockchain, hợp đồng thông minh và bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh, hợp đồng thông minh và trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu vào nó là vấn đề pháp lý mà hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu tại Việt Nam dù rằng mối quan tâm của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ hợp đồng thơng minh đối với nó đang ngày càng gia tăng. Thực tiễn cho thấy, dù chưa được công nhận về mặt pháp lý cụ thể bởi đa số các hệ thống pháp luật trên thế giới, nhưng hiện nay, các giao dịch được tiến hành bằng hợp đồng thông minh trong mọi lĩnh vực như tài chính thương mại, quản lý chuỗi cung ứng, bảo hiểm… ngày càng phát triển kể cả là tại Việt Nam nói riêng hoặc quốc tế nói chung. Theo đó, đi kèm với những tiện ích tối ưu hóa quy trình thực hiện hợp đồng, nhiều doanh nghiệp đã tích hợp sử dụng hợp đồng thơng minh vào q trình hoạt động, mở rộng thị trường để các công ty công nghệ cung cấp những dịch vụ về hợp đồng thông minh mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự tự động hóa và sự tham gia của chương trình máy tính đã khiến cho cơ chế hoạt động của một hợp đồng thông minh trở nên phức tạp hơn nhiều so với hợp đồng truyền thống hay các hợp đồng điện tử khác. Điều này đặt ra vấn đề nếu không kịp thời điều chỉnh khung pháp lý xoay quanh vấn đề truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh sẽ dễ xảy ra rủi ro cho doanh nghiệp khi đây là một vấn đề nổi bật thường gặp trong quá trình thực hiện hợp đồng thơng minh. Như vậy, các quy định cụ thể về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng minh cần có sự xem xét và bổ sung một cách cẩn trọng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<b>CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BÊN TRUYỀN TẢI DỮ LIỆU TRONG HỢP ĐỒNG THÔNG MINH </b>

<i><b>2.1. Khung pháp lý điều chỉnh trách nhiệm bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh của Estonia và Belarus </b></i>

Hiện nay, Belarus và Estonia đang là hai trong các quốc gia đi đầu trong việc quy định về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thông minh, với Belarus là về các quy định thừa nhận trực tiếp tính pháp lý của hợp đồng thông minh và Estonia là các quy định về trách nhiệm bên truyền tải dữ liệu nói chung. Đồng thời khung pháp lý của hai quốc gia này cũng có nhiều điểm tương đồng trong định hướng phát triển các quy định xoay quanh vấn đề hợp đồng thông minh với Việt Nam.

<i>2.1.1. Thực tiễn ứng dụng và khung pháp lý điều chỉnh hợp đồng thông minh tại Estonia </i>

<i>2.1.1.1. Thực tiễn ứng dụng </i>

Là một trong những nước tiên phong trong việc ứng dụng những nghiên cứu về công nghệ số trong thực tiễn, Estonia đã vận dụng các ứng dụng của hợp đồng thơng minh trong q trình xây dựng chính phủ điện tử cũng như các lĩnh vực khác của mình. Chương trình cư trú điện tử (E-residency) được chính thức khởi động vào năm 2014 với quyết định cung cấp danh tính kỹ thuật số, cùng với quyền truy cập vào các dịch vụ kỹ thuật số của Estonia, cho cơng dân của các quốc gia khác khơng có nơi cư trú tại Estonia, hệ thống căn cước công dân bắt buộc này khơng chỉ có tác dụng xác định cơng dân mà cịn cho họ quyền truy cập tất cả dịch vụ trực tuyến. Những người này được gọi là cư dân điện tử và nhận được thẻ ID kỹ thuật số Cư trú điện tử, cung cấp quyền truy cập vào nhiều dịch vụ điện tử tương tự của chính phủ trước đây chỉ dành cho người Eston sống ở Estonia. Bằng cách này, chính phủ Estonia đã biến cơng dân của các quốc gia trên tồn thế giới thành “người dùng” tiềm năng của các dịch vụ của Estonia. Chương trình này đã cho phép phát triển các ứng dụng sáng tạo, bao gồm nền tảng dựa trên Blockchain cho các giao dịch bất động sản và nền tảng quản lý chuỗi cung ứng sử dụng hợp đồng thơng minh để theo dõi hàng hóa và dịch vụ, hầu hết mọi tương tác với nhà nước - chẳng hạn như bỏ phiếu, khai thuế và đăng ký khai sinh - đều có thể được thực hiện hoàn toàn trực tuyến từ hầu hết mọi nơi trên thế giới. Ngoài ra, những

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nhận dạng kỹ thuật số tương tự này có thể được sử dụng để truy cập ngày càng nhiều dịch vụ của khu vực tư nhân như ngân hàng trực tuyến<small>39</small>.

Vào năm 2013, Estonia đã cho người dân lựa chọn bỏ phiếu điện tử cho mọi cuộc bầu cử và điều tra dân số, khoảng 21,2% tổng số dân số đã bỏ phiếu bằng cách sử dụng bỏ phiếu điện tử<small>40</small>. Hệ thống mà Estonia ứng dụng có sử dụng phần mềm phi tập trung, cung cấp tính ẩn danh và cử tri xác minh. Để truy cập vào hệ thống này yêu cầu Internet và thẻ căn cước điện tử quốc gia được sử dụng để xác thực, mã hóa và chữ ký. Cử tri cần tải về ứng dụng bỏ phiếu, xác thực bằng ID điện tử, nếu đáp ứng đủ điều kiện, một danh sách các ứng cử viên sẽ được hiển thị để họ bỏ phiếu<small>41</small>. Việc khởi chạy tự động những quy trình trong hệ thống bỏ phiếu điện tử đều do hợp đồng thông minh tích hợp sẵn trong các chuỗi khối thực thi.

Trong lĩnh vực y tế, Estonia hiện nay là quốc gia tiến bộ nhất trong việc ứng dụng hợp đồng thông minh vào quản lý hồ sơ bệnh án điện tử. Từ năm 2016, quốc gia này đã khởi động một dự án phát triển xây dựng Blockchain và hợp đồng thơng minh nhằm mục đích ghi lại, bảo mật và bảo đảm tính tồn vẹn hồ sơ sức khỏe của 1,3 triệu cơng dân của mình. Việc sử dụng công nghệ này đã cho phép đất nước ngày chia sẻ dữ liệu một cách dễ dàng và tiết kiệm giữa nhiều nhà cung cấp dịch vụ y tế trong thời gian thực, bảo tồn tính tồn vẹn của dữ liệu và giảm rủi ro dữ liệu sức khỏe quan trọng bị tấn công bởi những ứng dụng từ hợp đồng thơng minh, cá nhân hóa dữ liệu sức khỏe của cơng dân và chuyển từ chữa bệnh sang phịng bệnh. Trong khi đó, tại nhiều nơi trên thế giới, các bác sĩ phải điều trị cho bệnh nhân mà không hiểu đầy đủ về bệnh sử của họ<small>42</small>.

<i>2.1.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh </i>

(i) Khung pháp lý chung về hợp đồng thông minh

Tuy nhiên dù được ứng dụng sớm như vậy, nhưng đáng ngạc nhiên là tới hiện tại, Estonia vẫn chưa có bất kỳ đạo luật nào điều chỉnh về hợp đồng thông minh. Các văn bản pháp luật hiện nay của Estonia chỉ dừng lại ở mức quy định một cách gián tiếp về

<i>hợp đồng thông minh, áp dụng theo nguyên tắc quod lege non prohibitum (Thực hiện </i>

<small>39 Why Estonia offers e-Residency, Estonia-offers-e-Residency (truy cập ngày 11/06/2023) </small>

<small> D. Springall, T. Finkenauer, Z. Durumeric, J. Kitcat, H. Hursti, M. MacAlpine, and J. A. Halderman, ‘‘Security analysis of the Estonian internet voting system,’’ in Proc. ACM SIGSAC Conf. Comput. Commun. Secur., Nov. 2014, pp. 703–715. </small>

<small>41 P. Martinson, “Estonia—The Digital Republic Secured by Blockchain - PWC”, </small>

<small>[ (truy cập 05/05/2023) </small>

<small>42 Taavi Einaste, Blockchain and healthcare: the Estonian experience, 2018, [healthcare-estonia/] (truy cập ngày 11/06/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

điều pháp luật khơng cấm là hợp pháp) thì việc ứng dụng Hợp đồng thông minh và Blockchain trong các giao dịch hợp pháp là phù hợp với pháp luật<small>43</small>. Như vậy, cần áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật để xem xét một hợp đồng thơng minh có giá trị pháp lý không, lúc này, cần căn cứ theo những quy định của Bộ luật Dân sự Estonia và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan.

Theo Đạo luật về phần chung của Bộ luật Dân sự<small>44</small>, căn cứ theo khoản 2 Điều 67

<i>thì “Giao dịch gồm giao dịch đơn phương và đa phương” và Điều khoản này xác định “Giao dịch đa phương là hợp đồng”. Tại Điều 77, 78, 80 quy định về việc các bên tham </i>

gia vào giao dịch được phép tự do chọn lựa hình thức của giao dịch mà khơng bị giới hạn, trừ trường hợp pháp luật quy định hình thức bắt buộc và hình thức giao dịch điện tử được coi như tương đương với giao dịch bằng văn bản miễn là giao dịch này được ký bằng chữ ký điện tử. Điều 81, 82 quy định về vấn đề công chứng chứng thực giao dịch đối với các trường hợp pháp luật quy định giao dịch đó bắt buộc phải công chứng chứng thực. Điều 83 quy định về hiệu lực của giao dịch không quy định về hình thức

<i>giao dịch như sau: “(1) Việc khơng tuân thủ hình thức quy định cho giao dịch theo luật sẽ khiến giao dịch vô hiệu trừ khi luật quy định một kết quả khác hoặc theo mục đích mà hình thức được u cầu; (2) Việc khơng tuân thủ hình thức đã thỏa thuận làm cho giao dịch vô hiệu trừ trường hợp pháp luật hoặc các bên có thỏa thuận quy định một kết quả khác.”. Từ đó có thể thấy dù là trong trường hợp giao dịch, hợp đồng được quy </i>

định phải được xác lập bằng văn bản hay bắt buộc phải công chứng chứng thực, thì dựa vào thỏa thuận của các bên, những giao dịch, hợp đồng không thỏa mãn các điều kiện này vẫn có thể có hiệu lực. Đây là hướng quy định rất mở, cho phép việc tự do lựa chọn hình thức giao dịch, hợp đồng của Bộ luật Dân sự Estonia.

Đạo luật Mua sắm công do Quốc hội ban hành có hiệu lực từ ngày 03/04/2023 của Estonia đề cập một cách gián tiếp về tính pháp lý của hợp đồng thông minh, khi mà quy định về việc hợp đồng cơng có thể được lập dưới dạng điện tử, cụ thể tại khoản 7 Điều

<i>8 Luật này quy định “Trong các tài liệu mua sắm, cơ quan hoặc tổ chức có thể quy định rằng hợp đồng công được lập bằng văn bản hoặc dưới dạng điện tử hoặc có cơng chứng”<small>45</small></i>. Như vậy, có thể thấy trong pháp luật Estonia, quy định về hợp đồng là rất mở

<small>43Karolina Kasspyk (2018), The concept of smart contracts form the legal perspective, p.111, </small>

<small>[ (truy cập ngày 15/8/2023) . </small>

<small>44 An Act on the General Part of the Civil Code, Riigikogu, </small>

<small>[ (truy cập ngày 15/06/2023) </small>

<small>45 Public Procurement Act, Riigikogu, </small>

<small>[ (truy cập ngày 15/05/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

và hầu như không giới hạn những giao dịch nào bắt buộc phải lập thành văn bản, nếu có phải lập thành văn bản thì hầu hết đều có thể thay thế bằng biểu mẫu điện tử được.

Tại Quy định về mô tả và các yêu cầu để đảm bảo tính liên tục của định dạng số và chữ ký số như một dịch vụ quan trọng do Bộ Doanh nhân và Công nghệ thông tin của nước này ban hành và có hiệu lực vào ngày 18/01/2019<small>46</small> đề cập đến chữ ký số là một loại dịch vụ quan trọng và cần đảm bảo cho việc thực hiện loại dịch vụ này để đảm bảo việc thực hiện các giao dịch trong môi trường số. Về bản chất, Blockchain cùng hợp đồng thông minh và chữ ký số là hai đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, hợp đồng thơng minh chưa có bất kỳ văn bản pháp luật nào thừa nhận về giá trị pháp lý của nó. Trong khi đó, chữ ký số được thừa nhận giúp cho các giao dịch trên môi trường Internet đảm bảo an tồn, được pháp luật cơng nhận, đảm bảo tính thuận tiện nhất hiện nay. Quy định này đã gián tiếp mở ra khả năng được thừa nhận về tính pháp lý của hợp đồng thơng minh khi mà chữ ký trên loại hợp đồng này về cơ bản phải là chữ ký số như đã đề cập ở các phần trên.

Từ những phân tích trên có thể kết luận rằng trong trường hợp các bên đồng ý thực hiện giao dịch bằng hợp đồng thông minh và yêu cầu về hình thức của hợp đồng trong giao dịch này không rơi vào trường hợp hợp đồng đương nhiên vô hiệu và bắt buộc phải lập thành văn bản mà không được thay thế bằng biểu mẫu điện tử thì hợp đồng thơng minh mặc nhiên được xác định là có giá trị pháp lý.

Như vậy, về cơ bản Estonia vẫn đang sử dụng những quy định trong pháp luật hiện hành để điều chỉnh về các vấn đề xoay quanh hợp đồng thông minh và khung pháp luật hiện hành của quốc gia này có thể xem như thừa nhận tính pháp lý của hợp đồng thông minh khi mà pháp luật về hợp đồng được quy định rất mở. Việt Nam có thể xem xét và đối chiếu những quy định hiện có trong hệ thống pháp luật về những quy phạm điều chỉnh hợp đồng thơng minh, từ đó, đưa ra hướng giải quyết cụ thể, tạo một khung pháp lý riêng hay sử dụng những quy định hiện hành để điều chỉnh hợp đồng thông minh.

(ii) Khung pháp lý riêng điều chỉnh về trách nhiệm bên truyền tải dữ liệu

Về trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu, pháp luật Estonia hiện nay đã điều chỉnh một cách tương đối chặt chẽ đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu nói chung, qua đó điều chỉnh trực tiếp đối với trách nhiệm của chủ thể này trong việc truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh qua các văn bản pháp luật như Đạo luật an ninh mạng,

<small>46 Minister of Entrepreneurship and Information Technology, The description and requirements for ensuring the continuity of digital identification and digital signing as a vital service, </small>

<small> (truy cập ngày 14/06/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Đạo luật truyền thông điện tử , Quy định dịch vụ nhận dạng và ủy thác điện tử cho Đạo luật giao dịch điện tử, và một số văn bản pháp luật khác có liên quan, tuy nhiên quy định tập trung và điều chỉnh trực tiếp nhất vẫn nằm ở 3 văn bản quy phạm pháp luật vừa liệt kê. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ tập trung phân tích những quy định pháp luật điều chỉnh đối với trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu vào hợp đồng thông minh trong Đạo luật truyền thông điện tử, Quy định dịch vụ nhận dạng và

<i>ủy thác điện tử cho Đạo luật giao dịch điện tử, Đạo luật an ninh mạng. </i>

Với Đạo luật an ninh mạng<small>47</small>, trách nhiệm của bên truyền tải dữ liệu được điều chỉnh thông qua Điều 3, 4, 6, 7, 8, 10, 11 và Chương 5 của Đạo luật này. Theo định nghĩa tại Điều 3, thì bên truyền tải dữ liệu là “nhà cung cấp dịch vụ” trường hợp được

<i>quy định tại khoản 1 [RT I, 22.05.2018, 1 – entry into force 01.01.2020] “bộ xử lý và kiểm soát cơ sở dữ liệu”, lúc này, bên truyền tải dữ liệu sẽ là một Oracle phần mềm. </i>

Căn cứ theo Điều 4, bên truyền tải dữ liệu thuộc vào trường hợp tại khoản 2 hoặc khoản 3 là nhà cung cấp cơng cụ tìm kiếm trực tuyến hoặc dịch vụ điện tốn đám mây, lưu ý, để giải thích rõ hơn thế nào là nhà cung cấp dịch vụ số, quy định này được dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 2 Đạo luật Dịch vụ Xã hội Thông tin<small>48</small>, từ cách diễn giải tại Đạo luật Dịch vụ Xã hội Thông tin, có thể thấy quy định về nhà cung cấp dịch vụ số này điều chỉnh với những chủ thể cung cấp các Oralce phần mềm cho hợp đồng thông minh. Điều 6, 7, 8 đặt ra các nguyên tắc, biện pháp và nghĩa vụ của nhà cung cấp dịch vụ, trong đó nổi bật là đề ra việc nhà cung cấp phải có trách nhiệm áp dụng vĩnh viễn các biện pháp bảo mật để ngăn chặn và giải quyết tác động đến tính bảo mật của hệ thống của nhà cung cấp dịch vụ, vấn đề trách nhiệm khi ủy quyền cho bên khác quản lý hệ thống của mình, thơng báo sự cố mạng đến các cơ quan chức năng trong vòng 24 giờ sau khi biết về sự cố mạng và phải có trách nhiệm chủ động hợp tác với các bên liên quan khi xảy ra các sự cố. Như đã đề cập ở trên, quy định về “nhà cung cấp dịch vụ” này điều chỉnh đối với các Oracle phần mềm, tuy nhiên một Oracle - phương tiện trung gian hầu như không thể đáp ứng được các nguyên tắc nghĩa vụ bảo mật được vừa đề cập ở trên, từ đó có thể hiểu quy định tại các điều khoản này đang đặt trách nhiệm cho những chủ thể thiết kế ra các Oracle phần mềm này. Điều 10, 11 quy định về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ số, và về cơ bản, các trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ số cũng giống như của nhà cung cấp dịch vụ, tuy nhiên được dẫn chiếu thêm đến các quy định chung về an ninh mạng của EU. Tại Chương 5 đặt ra các trách nhiệm

<small>47 Cybersecurity Act, Riigikogu, [ (truy cập ngày 10/8/2023) </small>

<small>48 Information Society Services Act, Riigikogu, </small>

<small>[ (truy cập ngày 10/8/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

pháp lý và chế tài cụ thể khi vi phạm các quy định trong Đạo luật này, đáng chú ý, ngoài các chế tài cho việc vi phạm các quy định trong đạo luật, tại Chương này còn đặt ra chế tài khi vi phạm các yêu cầu của Quy định (EU) 2019/881 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu.

Với Đạo luật truyền thông điện tử<small>49</small>, việc điều chỉnh được quy định thông qua Điều 106, 111, Điều 166, 170, 184, 187. Điều 106 quy định về người được ủy quyền xử lý dữ liệu, và theo quy định này người được ủy quyền xử lý dữ liệu theo quy định tại Điều này đáp ứng điều kiện về người truyền tải dữ liệu trong hợp đồng thơng minh khi có một trong các bên tham gia hợp đồng ủy quyền cho một bên bất kỳ xử lý dữ liệu trong hợp đồng và đồng thời tương ứng với định nghĩa về Oracle con người trong hợp đồng thơng minh. Theo đó, các quy định này đặt trách nhiệm cho các bên truyền tải dữ liệu có trách nhiệm bảo tồn ngun vẹn dữ liệu khi tiến hành truyền tải đồng thời đặt ra các chế tài cụ thể như phạt tiền để xử lý những vi phạm các quy định tại Đạo luật này.

Quy định dịch vụ nhận dạng và ủy thác điện tử cho Đạo luật giao dịch điện tử<small>50</small>. Dịch vụ ủy thác trong trường hợp mà Estonia đề cập là dạng dịch vụ gồm người dùng dịch vụ và bên thứ ba đưa ra quyết định ràng buộc trên cơ sở dịch vụ tin cậy. Điều 3 quy định cụ thể về danh sách tin cậy và cơ sở hạ tầng tin cậy, quy định này trao thẩm quyền về công bố danh sách tin cậy cho các cơ quan có thẩm quyền, và việc lập ra các danh sách và cơ sở hạ tầng tin cậy này được chiếu theo quy định tại Điều 22, Điều 17(5) của Quy định (EU) số 910/2014 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu. Điều 4 quy định

<i>về Nghĩa vụ thông báo sự cố an ninh: “Các nhà cung cấp dịch vụ ủy thác sẽ, tuy nhiên không chậm trễ quá mức trong bất kỳ trường hợp nào trong vòng 24 giờ sau khi nhận thức được điều đó, thơng báo cho cơ quan có thẩm quyền về bất kỳ sự cố bảo mật nào theo Điều 19 (2) Quy định (EU) số 910/2014 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu”. </i>

Điều 13 về thông báo thay đổi hoàn cảnh liên quan đến việc cung cấp dịch vụ ủy thác, trong đó đặt ra nghĩa vụ thơng báo đến cơ quan có thẩm quyền về những thay đổi đối với dữ liệu so với đơn xin cấp phép. Điều 15 quy định về Công bố và bảo mật danh

<i>sách tin cậy: “(1) Cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố danh sách các nhà cung cấp dịch vụ ủy thác và dịch vụ ủy thác trên trang web của mình; (2) Cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo mật danh sách tin cậy bằng khóa cơng khai và khóa riêng tương ứng…”. Nhìn </i>

chung, trong trường hợp nếu xảy ra những vấn đề về lỗi bảo mật, sự cố kỹ thuật… các

<small>49 Electronic Communication Act, Riigikogu, </small>

<small>[ (truy cập ngày 08/8/2023) </small>

<small>50 Electronic Identification and Trust Services for Electronic Transactions Act, Riigikogu, </small>

<small>[ (truy cập ngày 08/8/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

quy định này đặt trách nhiệm cho bên cung cấp dịch vụ ủy thác về nghĩa vụ cung cấp

<b>thông tin cho cơ quan có thẩm quyền (khơng phải là bên được nhận dịch vụ ủy thác). </b>

<i>2.1.2. Thực tiễn ứng dụng và khung pháp lý điều chỉnh hợp đồng thông minh tại Belarus </i>

<i>2.1.2.1. Thực tiễn ứng dụng </i>

Trên thực tế, hợp đồng thông minh và các nhà cung cấp dịch vụ về hợp đồng thông minh đã xuất hiện và phát triển rất nhanh tại Belarus. Khơng nghi ngờ gì về vấn đề này khi Belarus đã tiếp cận và tạo cơ hội ứng dụng khoa học máy tính vào các lĩnh vực từ rất sớm, đi đầu trong các quốc gia trên thế giới về việc ghi nhận tính pháp lý cho hợp đồng thông minh và các công nghệ số khác.

(i) Về một số nhà cung cấp dịch vụ

Nadcab Technology - một công ty liên doanh của Naygon Technologies Pvt. Ltd và Nhà tích hợp hệ thống công nghệ thông tin, tập trung vào phát triển ứng dụng chuỗi khối. Nadcab Technology cung cấp những giải pháp chuỗi khối được đưa ra bởi các chuyên gia, đồng thời tập trung nghiên cứu những công nghệ chuỗi khối mới nhất để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng trong các lĩnh vực thích hợp.<small>51</small> Chính vì thế, Nadcab cũng là một trong những nhà phát triển hợp đồng thông minh ở Belarus (bao gồm Hợp đồng thông minh chuỗi khối Tron và hợp đồng thông minh chuỗi khối Ethereum). Doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ để triển khai hợp đồng thông minh MLM (Multi-Level Marketing) trên chuỗi khối Tron để đảm bảo tính minh bạch và hệ thống mã nguồn mở đáng tin cậy. Nadcab Technology cung cấp hợp đồng thông minh đã được xác minh trên chuỗi khối Tron. Kết nối ví Tron Blockchain: Tronlinkn Pro, Tronwallet, Imtoken, Token Pocket. Ngồi ra, hợp đồng thơng minh MLM trên chuỗi khối Ethereum với khí gas chính xác cũng được phát triển. NAdcab Technology cung cấp hợp đồng thông minh đã được xác minh trên chuỗi khối Ethereum. Kết nối ví Ethereum Blockchain Metamask, Trustwallet, Trình duyệt Dapp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng là nhà phát triển mã thông báo hợp đồng thông minh ở Belarus<small>52</small>.

Thư ký báo chí của Khu công nghệ cao Belarus (Belarusian High-Tech Park) Dmitry Titov và Denis Aleinikov - một trong những nhà phát triển hàng đầu của nghị định, đã nói về những thay đổi trong hoạt động của các công ty khởi nghiệp blockchain và tiền điện tử. Trong đó, Aetsoft, một trong những công ty thường trú mới của Hith

<small>51 Nadcab: about, [ (truy cập ngày 10/06/2023) </small>

<small>52 Nadcab, Best Smart Contract Development company in Belarus, [contract-development-company-belarus#] (truy cập ngày 10/06/2023) </small>

</div>

×