Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Trang trí trên ngói ở hoàng thành thăng long qua tư liệu khai quật hố D

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.78 MB, 129 trang )

Đại học quốc gia hà nội

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

Khoa Lịch sử

Ngô Thị Lan

Trang trí trên ngói ở hồng thành thăng long qua

tư liệu khai quật hô D4-D5-D6 (khu D) địa điềm
18.hoàng diệu - hà nội

Chuyên ngành: khảo cổ học

Mã số: 60.22.60

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS.Tơng Trung Tín

Hà Nội — 2006

MỤC LỤC

Tr

Lời cam đoan

Mục lục nA BWN



Bảng chữ viết tắt

Danh mục các bảng thống kê

Danh mục phụ lục minh hoạ
Mở đầu 14
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

5. Kết quả và đóng góp của luận văn

6. Bố cục luận văn

Chuong 1.TONG QUAN TU LIEU 18
1.1.Tổng quan những phát hiện và nghiên cứu về trang trí trên
ngói ở khu vực Thăng Long — Hà Nội
1.1.1.Những phát hiện và nghiên cứu trước năm 1954
1.1.2.Những phát hiện và nghiên cứu sau năm 1954
21
1.2. Tình hình phát hiện ngói và trang trí trên ngói ở các hồ D4-D5-D6
(khu D) khu di tích HT TL tại 18.Hồng Diệu
1.2.1.Vài nét về vị trí và địa tầng các hồ khai quật 27

1.2.2.Tình hình nghiên cứu ngới và trang trí trên ngói ở các hỗ D4+D5-D6 @huD) 30


1.3.Tiểu kết chương 1 39
Chuong 2. HOA VAN TRANG TRI TREN NGOI G CAC HO D4-D5-D6 40
2.1.Hoa văn trang trí trên các bộ phận trang trí gắn thêm trên ngói
2.1.1.Trang trí trên đầu ngói ống 40
2.1.2. Trang trí trên đầu ngói âm 59
2.1.3.Trang trí trên lá đề 62
2.1.4.Trang trí tượng uyên ương 85
2.2. Hoa văn trang trí trực tiếp trên thân ngói 89
2.2.1.Trang trí trên đầu ngói âm dương 89
2.2.2.Trang trí trên lưng ngói mũi sen đầu vát 90
2.2.3.Trang trí trên đầu và lưng ngói mũi sen đầu vát 91
2.3. Tiểu kết chương 2 92

Chương 3. NIÊN ĐẠI VÀ ĐẶC TRƯNG TRANG TRÍ TRÊN NGĨI Ở CÁC HĨ D4- D5- 94

3.1. Niên đại 94
3.2 Đặc trưng 111
3.3.Tiểu kết chương 3 113
Chương 4. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TRANG TRÍ TRÊN NGĨI Ở CÁC HĨ D4-D5-D6 115
4.1. Trang trí trên ngói ở các hồ D#D5-D6 góp phần nghiên cứu
tiến trình trang trí trên ngói ở HTTL và lịch sử trang trí ngói Việt Nam 115
4.2. Góp phan nhận diện kiến trúc ở các hồ D4-D5-D6 120
4.3. Góp phân tìm hiểu lịch sử Mỹ thuật Thăng Long và mỹ thuật Việt Nam. 125
4.4. Tiêu kết chương 4 127
Kết luận 129
Các công trình của tác giả đã cơng bố liên quan đến luận văn 133
Tài liệu tham khảo 134
Chú giải các nguồn tài liệu 140
Các bảng thống kê, phụ lục


BANG CAC CHU VIET TAT

a. Ban anh - Orient
BEFEO Bullentin de |’Ecole Francaise d’Extréme

BTLS Bao tang Lich str chuyên nghiệp
bs. Bản so sánh
bv. Bản vẽ
bd. Bản dập
b. Bảng thống kê

ĐH-THCN Đại học và trung học

Cb. & NVQG Chủ biên
H. Hà Nội
h. Hình

KCH Tạp chí Khảo cổ học

HTTL Hoang thanh Thang Long
KHXH Khoa học xã hội
KHXH Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia

NPHMVKCH Những phát hiện mới về khảo cổ học

Nxb. Nhà xuất bản
VHTT Văn hoá - thông tin

q. quyển


tr. trang

sd. Sơ đồ

Mở đâu

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Từ tháng 12 năm 2002 đến tháng 3 năm 2004 khảo cô học Việt

Nam đã tiến hành khai quật khu di tích HT TL tại I§.Hồng Diệu với diện
tích hơn 19.000m2. Giá trị của khu di tích đã được các chuyên gia trong
ngoài nước đánh giá thuộc loại di sản quốc gia đặc biệt đạt tầm cỡ di sản

thế giới. Một công cuộc chỉnh lý nghiên cứu khoa học, quy mô lâu dài

đang được Viện KCH tiễn hành nhằm làm rõ các giá trị của di tích và khối

lượng di vật phong phú, đa dạng kéo dài liên tục hơn 1300 năm lịch sử.

Mỗi loại hình di tích, mỗi loại hình di vật đều có giá trị to lớn trong việc

phản ánh lịch sử oanh liệt và vẻ vang của kinh đơ ngàn năm văn hiến. Đó
cũng chính là sự phản ánh những giá trị tiêu biểu nhất của lịch sử dân tộc.

Ngói và các bộ phận trang trí trên ngói là một thành phần quan trọng

trong tổng thể khối di vật đồ sộ đó của kinh đơ Thăng Long. Chỉ riêng
những di vật trang trí cũng đã rất phong phú. Chính vì vậy, fừm hiểu một
phân trang trí trên ngói là góp phân thiết thực vào công việc chỉnh lý tổng


thể khối di vật đồ sơ đó cũng như cơng cuộc nghiên cứu lịch sử Thăng
Long tiễn tới 1000 năm Thăng Long — Hà Nội.

1.2. Kinh đô Thăng Long với bề dày lịch sử hiếm có trên thế giới, do

chịu sự tàn phá ác liệt của thiên nhiên và các biến động xã hội nên gần như
toàn bộ kiến trúc kinh thành đã bị phá huỷ và xáo trộn. Đề nhận diện được

dấu tích kinh thành, có chăng chúng ta chỉ nhận diện được phần nên móng

và bộ mái kiến trúc trong đó có ngói và những thành phần trang trí trên
ngói. Thơng thường thì mỗi loại kiến trúc đều có những thành phần ngói
lợp khác nhau trang trí trên ngói khác nhau. Do vậy, trang trí trên ngói
phản ánh sự phong phú của kiến trúc kinh thành. Trang trí trên ngói cũng

14

thể hiện diễn biến liên tục theo thời gian, do vậy nghiên cứu trang trí trên
ngói cũng hiểu được phần nào lịch sử kiến trúc kinh thành.

Cũng như ngói lợp nói chung, những thành phần trang trí phong phú
trên ngói là kết quả của một q trình cơng nghệ chế tạo cơng phu, phức
tạp địi hỏi tài năng, kỹ thuật điêu luyện cũng như óc thâm mỹ được diễn

tiến đa dạng theo mỗi thời đại khác nhau, phản ánh nhiều khía cạnh của
diễn biến kinh tế, chính trị và xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu trang

trí trên ngói khơng những góp phần tìm hiểu lịch sử nghệ thuật điêu khắc


Việt Nam mà cịn góp phần tìm hiểu lịch sử văn hố xã hội Việt Nam nói

chung và kinh đơ Thăng Long nói riêng.
1.3. Do tính cấp thiết của trang trí trên ngói như thế, được sự đồng ý

của Ban chủ nhiệm dự án khảo cơ học tại 18.Hồng Diệu, tác giả luận văn

da chon dé tai: "Trang tri trên ngói ở Hồng thành Thăng Long qua tư liệu

khai quật hồ D4 - D5 - D6 (khu D) địa điển 18 Hoàng Diệu - Hà Nội" làm

luận văn thạc sĩ cho mình. Trong tương lai, hệ thong vat ligu HTTL trong

đó có những thành phần trang trí trên ngói sẽ được trưng bày trong các bảo

tàng Thăng Long — Hà Nội, phục vụ tham quan du lịch. Vì vậy, việc thực

hiện dé tài này sẽ là cơ sở khoa học góp phân thiết thực vào việc trưng bày

trong các bảo tàng, phục vụ việc nghiên cứu, tham quan du lịch, góp phân
phát huy giá trị tác dụng của di tích khảo cổ học HTTL.
2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Hệ thống hoá các tư liệu và những kết quả nghiên cứu về trang trí

trên ngói ở các hồ D4 - D5 - Dó trên các phương diện loại hình, hoa văn và
kỹ thuật. Bước đầu dựa vào tư liệu địa tầng và so sánh với trang trí kiến
trúc ở các địa điểm khảo cỗ khác nhăm xác định đặc trưng và niên đại của

các loại hình trang trí trên ngói qua các thời kỳ lịch sử.


15

2.2. Thơng qua việc nghiên cứu trang trí trên ngói bước đầu tìm hiểu

đơi nét về nghiên cứu kiến trúc ở HTTL tại các các hố D4-D5-D6 (khu D)

tail8. Hoang Diéu qua các thời kỳ lịch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ thành phần trang trí trên ngói thu
được tại khu vực hồ D4 - D5 - Dó (khu D), địa điểm 18. Hoàng Diệu - Hà Nội.

3.2. Phạm vi nghiên cứu: những thành phần trang trí trên ngói ở các hồ
D4 - D5 - D6 (khu D) và trong những chừng mực nhất định có so sánh với

trang trí trên ngói ở khu vực I8. Hồng Diệu và một số địa điểm khác như:
11.Lê Hồng Phong, Hậu Lâu, Bắc Môn, Đoan Môn, 62 - 64 Trần Phú...

thuộc kinh thành Thăng Long lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

4.1. Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp khảo cô học truyền thống:

khai quật, đo, vẽ, chụp ảnh, dập, miêu tả, thống kê, so sánh... đặc biệt phương

pháp so sánh được vận dụng triệt đề trong luận văn.
4.2. Kết hợp với những phương pháp nghiên cứu liên ngành như: lịch

sử mỹ thuật, lịch sử kiến trúc nhằm góp phần tìm hiểu trang trí kiến trúc tại

các hố D4-D5-Dó trong bối cảnh chung của trang trí kiến trúc Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử.

4.3. Nguồn tư liệu chính của luận văn được thu thập qua kết quả khai
quật và chỉnh lý trang trí trên ngói ở các hỗ D4-D5-D6 khu di tích HTTL tại
18.Hồng Diệu. Ngồi ra luận văn cịn chú ý sử dụng các nguồn tư liệu trang

trí trên ngói đã được phát hiện tại địa điểm khác ở Hà Nội, Hà Tây, Nam
Định, Thái Bình, Thanh Hố, Bắc Ninh... Các cơng trình nghiên cứu, bài viết,

thơng báo khoa học và các ấn phâm của các nhà nghiên cứu ở trong và ngồi
nước có liên quan đến vấn đề trang trí trên ngói.
5. Kết quả và đóng góp của luận văn

16

5.1. Luận văn bước đầu tập hợp và hệ thống hoá kết quả nghiên cứu về

trang trí trên ngói ở hồ D4-D5 -D6 (khu D) trên các phương diện loại hình,
hoa văn, kỹ thuật, đặc trưng và niên đại.

5.2. Trên cơ sở tư liệu trang trí trên ngói bước đầu thử nhận diện về các

di tích kiến trúc hố D4-D5-D6 (khu D) ở HTTL.

6. Bố cục luận văn

Ngoài mở đầu (4 tr.) và kết luận (4 tr.), luận văn gồm có 4 chương:

Chương I. Tông quan tư liệu (22 tr.)

Chương 2. Hoa văn trang trí trên ngói ở các hỗ D4-D5-D6 (54 tr.)

Chương 3. Niên đại và đặc trưng trang trí trên ngói ở các hỗ D4-D5-D6 (20 tr.)

Chương 4. Những giá trị của trang trí trên ngói ở các hỗ D4-D5-D6 (11 tr.)

Trong luận văn cịn có các phần: Lời cam doan (1 tr.) , bảng chữ viết tắt (1 tr.),

các cơng trình của tác giả có liên quan đến luận van (1 tr.) , 92 tài liệu tham khảo (7

tr.), danh mục các bảng thống kê, minh hoa ( 10 tr.), 6 bảng biểu (2 tr.), 188 ban

dập (26 tr), 150 ảnh, 20 bản vẽ va l7 tr. bản so sánh (gồm bản dập, bản ảnh, bản

về).

17

Chương 1

Tổng quan tư liệu

1.1.Tổng quan những phát hiện và nghiên cứu về trang trí trên ngói ở khu

vực Thăng Long — Hà Nội
1.1.1.Những phát hiện và nghiên cứu trước năm 1954
Trước năm 1954, các phát hiện và nghiên cứu về trang trí trên ngói được biết

đến qua một số ghi chép và nghiên cứu của một số học giả của trường Viễn Đông
Bác cô Pháp (L'Ecole Franscaise d' Etrême Orient) (Ha N6i).


Theo các công bố của EFEO, có thể thấy bắt đầu từ năm 1900, trong khi
xây dựng sân Quần Ngựa ở phía Tây thành phố Hà Nội gần đường Hoàng Hoa
Thám ngày nay đã phát hiện một số lớn những mảnh ngói có trang trí [51]. Đây có
thé coi là mốc mở đầu cho lịch sử phát hiện và nghiên cứu về trang trí trên ngói ở
Thăng Long.

Tiếp theo đó, các phát hiện về trang trí trên ngói ở Thăng Long (Hà Nội) kéo

dài cho đến thập niên 40 của thế kỷ này.
Năm 1901, tại khu vực Quần Ngựa đã tìm thấy một lá đề lệch cao 38em

chạm hình rồng đầu ngâng cao, mồm ngậm ngọc, bờm uốn lượn nhiều dải, thân

thon đài uốn lượn hình sin [8].
Năm 1926, ở làng n Lãng đã tìm thấy 2 chiếc khn có hình dáng giống

nhau, kích thước 2lcm x 18cm và 29 cm x 18.5em. Trên một mặt khuôn chạm tỉa

một đải lá có cuống, bên trong có nhiều dải xoắn kiểu dây lá hình sin. Đây có thé là

một trong những khn để tạo các mào trang trí gắn ghép các tượng đầu rồng, đầu
phượng lớn. [8]

Năm 1928, ở Quần Ngựa, tiếp tục tìm thấy đầu ngói ống men xanh in nổi
hình rồng trong hai vịng trịn đường kính 12,5cm, lá đề lệch in nổi hình rồng...[S].

Tính đến năm 1917, tổng số những mảnh đất nung sưu tầm được lên tới
3171 mảnh, trong đó có nhiều thành phần trang trí trên ngói. [51, tr. 4].


Khoảng những năm 1922 - 1925, khu vực Ngọc Hà, Kim Mã cũng tìm thấy
một số đầu ngói ống băng đất nung trang trí hoa sen, cánh sen được tạo bằng

những đường chỉ nỗi gồm nhiều lớp cánh [8].

Năm 1928, ở Cầu Giấy và năm 1938, ở Kim Mã đã phát hiện một số mảnh

ngói ống in trang trí nổi hình người. Những mảnh ngói này có xương gốm trắng,
phủ men xanh lục phía ngồi. Hình trang trí in nỗi trên mặt của ngói ống có nhiều

mẫu hình khác nhau: hình Phật ngồi toa thiền, hình người cầu nguyện...[§].

BTLS Việt Nam còn trưng bày một viên ngói bị trên lưng gắn một tượng

quan võ băng đất nung, đầu đội mũ, khuôn mặt khoẻ mạnh [8].

Có thê thấy vùng Ngọc Hà, Kim Mã, Quần Ngựa... (tức là khu vực Hà Nội

từ khu trung tâm Ba Đình trở về phía Tây đến khoảng khu vực Quần Ngựa), việc
xây dựng những cơng trình kiến trúc ở đây trong những thập kỷ đầu thế kỷ trước
thường tìm thấy đồ đất nung trang trí hình rồng, phượng, hoa lá...Đó chủ yếu là
những bộ phận kiến trúc và trang trí kiến trúc mang phong cách Lý - Trần. Một bộ
phận các di vật đó hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại BTLS Việt Nam, một
số khác đã được người Pháp đưa về nước hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng

Guimé của Pháp [16].

Năm 1952, Parmentier H. và Mercier R. đã hệ thống tất cả những phát hiện
lẻ tẻ của người Pháp từ năm 1900 đến năm 1917 thành cơng trình nghiên cứu


“Những thành phân kiến trúc cỗ ở miễn Bắc Viét Nam” (Eléments anciene d'

architecture au Nord Vietnam). Đây là cơng trình tương đơi chun sâu về các
thành phần kiến trúc cổ ở miền Bắc Việt Nam mà chủ yếu là ở khu vực thành
Thăng Long. Trong cơng trình đó, các ơng đã chú ý ít nhiều đến ngói và trang trí
trên ngói. Cơng trình đã phân loại tương đối rõ về các loại ngói theo loại hình,

cách lợp, chât liệu và màu sắc. Hoa văn trang trí được nhắc đên theo các chủ đê,

cách thức trang trí và chức năng của chúng trong bộ mái kiến trúc. Các hoa văn
như hoa sen, hình rồng, hình mặt người....được trang trí trên đầu ngói ống. Đầu
ngói âm đương được gọi là nhitng “Vat hình tam giác”. Trang trí hình lá đề gọi là
“những tắm bịt đầu mái” với với các hoa văn trang trí hình rồng, phượng. Tượng
uyên ương cũng được mô tả. Chất liệu của những loại ngói trang trí được đề cập
đến với ba màu sắc đỏ, xám và trắng. Màu men được nói đến là màu men vàng.
Trang trí trên đầu ngói ống và đầu ngói âm dương được mơ tả là hai bộ phận tách
rời sau đó gắn lại với phần thân ngói. Kỹ thuật tạo những thành phần trang trí này
được nói đến là cắt gọt trực tiếp và dùng khn. Đầu ngói ống và một số hình lá
đề được tạo bằng khuôn. Những thành phần kiến trúc và trang trí kiến trúc được hệ
thống trong cơng trình nghiên cứu này được xếp vào niên đại từ khoảng đầu thế kỷ

11 đến cuối thế kỷ 15 [51]. Có thể nói, đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu tương
đối hệ thống và chi tiết về các loại hình ngói và các thành phần trang trí trên ngói.

Tuy nhiên, cơng trình cũng cịn có nhiều điểm thiếu sót. Trang trí hình lá đề

khơng nói rõ là lá đề lệch hay lá đề cân. Số lượng tư liệu thu được là rất lớn

nhưng hai ông không đưa ra được số lượng của mỗi loại hình ấy là bao nhiêu, kích
thước như thế nào. Trang trí trên ngói ở Thăng Long được diễn ra trong một q

trình lâu đài hàng nghìn năm, nhưng trong cơng trình này ta khơng thấy các tác giả

đề cập đến đặc trưng, niên đại và diễn biến của những thành phần trang trí trên

ngói.

Đến năm 2004, một số hiện vật tìm thấy trong thời kỳ này hiện đang lưu giữ

tại BTLS Việt Nam như đầu ngói hoa sen, lá đề trang trí hình rồng, tượng người
đặt trên ngói bị... được Nguyễn Đình Chiến giới thiệu trong bài “ Vật liệu kiến trúc
thời Lý - Trần tìm được trong khu vực thành Thăng Long lưu giữ tại BTLS Việt

Nam ” tại Hội thảo khoa học tồn quốc tơ chức vào tháng 8 nam 2004 vé giá trị của

khu di tich HTTL tai 18.Hoang Diéu [8].

Tóm lại, những phát hiện trước năm 1954 tuy lẻ tẻ, ngẫu nhiên, nhưng tập
hợp lại có thể cho thấy đó là một khối lượng di vật khá lớn và phong phú có giá trị

phản ánh nhiều mặt lịch sử kiến trúc và trang trí kiến trúc ở Thăng Long. Tuy

nhiên, tất cả các phát hiện đó đều khơng xuất phát từ các cuộc khai quật khoa học

cho nên chúng ta không thê biết được diễn biến các di vật trong các lớp đất ra sao,
cũng khơng có hồ sơ khoa học dé chung ta có thể tiếp cận khối tư liệu này một
cách đầy đủ chỉ có cơng trình nghiên cứu tương đối đầy đủ của Parmentier H. và
Mercier R mà luận văn vừa đề cập trên đây. Tuy nhiên, công trình này cũng chỉ
cho phép nhìn nhận một cách tương đối tổng quan về các phát hiện về trang trí trên
ngói ở Thăng Long thời đó, chứ chưa giúp được nhiều điều cho việc nghiên cứu kỹ
lưỡng và chính xác về trang trí trên ngói qua các thời.


1.1.2.Những phát hiện và nghiên cứu sau năm 1954

Sau năm 1954, các cơng trình nghiên cứu ở khu vực Thăng Long ngảy càng
nhiều. Theo đó, các phát hiện về trang trí trên ngói cũng ngày một nhiều hơn.

Năm 1970 -1971, Khoa Sử - Đại học tông hợp Hà Nội khai quật ở sườn Tây

Nam núi Cung (làng Đại Yên — thuộc khu vực Ngọc Hà). Với diện tích khai quật

28m2 đã tìm thấy một số bộ phận trang trí trên ngói ống, điềm ngói...thuộc nhiều

thời đại [36].

Tháng 11 năm 1971 đến tháng 3 năm 1972, BTLS Việt Nam khai quật khu

Đồng Gạch và Đồng Giêng (Ba Đình - Hà Nội). Với diện tích 300m2 ngồi một số

các di vật thuộc các loại hình khác đã tìm thấy một số bộ phận trang trí trên ngói

như trang trí hình lá đề.... Những người khai quật cho rằng khu vực Đồng Gạch,

Đồng Giếng được xác định nằm trong khu vực Thăng Long thời Lý — Trần nhưng

không phải là khu vực trung tâm [36].

Năm 1975, Viện KCH, Khoa Sử - Đại học Tổng hợp Hà Nội tiến hành nghiên

cứu tại công trường 75.808 (khu vực Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh). Tại đây đã tìm
thấy một số mảnh đầu ngói ống trang tri hoa sen. [78].


Từ tháng 9 đến tháng 1] năm1978, Viện KCH, BTLS Việt Nam, Sở VHTT
Hà Nội đã hai lần đào thám sát và khai quật khu vực Quần Ngựa (Ba Đình - Hà

Nội) nhằm phục vụ cho việc giải phóng mặt bằng ở Cung Thiếu niên trung ương.

Tại khu vực đình Thái Tế đã đào 17 hố thám sát với diện tích 128m2 tìm thấy một

số bộ phận trang trí trên nóc mái như đầu rồng, thân rồng và trang trí gắn trên ngói
như tượng un ương ....Những hiện vật này khá đẹp và được so sánh với những

di vật đã tìm thấy trong các di tích thời Trần ở Thái Bình, Nam Định...[55, 56].

Qua bốn đợt thám sát và khai quật từ năm 1970 — 1978, có thể thấy tại khu
vực Quan Ngựa, những bộ phận trang trí trên ngói tìm thấy rất ít và cũng chỉ được

nhắc đến như những di vật khơng có trang trí. Các tài liệu công bố về các di vật
này cũng không được chú ý. Hoa văn trang trí, kích cỡ, chất liệu, màu sắc...cũng
như chức năng của chúng đều không được chú ý. Do đó, rất khó tiếp cận được
những tư liệu nảy.

Năm 1996, Viện KCH, Sở VHTT Hà Nội và BTLS Việt Nam khai quật

“chữa cháy” địa điểm I1.Lê Hồng Phong (Ba Đình - Hà Nội). Chỉ với diện tích

khai quật 30m2 đã tìm thấy 16 đầu ngói ống trang trí hoa sen hình trịn nỗi 8
cánh. Trang trí hình lá đề cân xứng với đề tài hình chim phượng. Tượng uyên ương
thân hình trịn, hai cánh x rộng, diều ưỡn, đầu ngắng cao hướng thăng về phía

trước, lơng vũ được m tỉa rất tỉ mi, tỉnh xảo. Kết quả nghiên cứu vật liệu địa điểm


này đã được công bồ trong tạp chí KCH số 3 nam 2000 va bai “Vat liệu xây dựng

tai dia diém 11.Lé Hong Phong (Ba Đình - Hà Nội) tại Hội nghị khoa học toàn

quốc về giá trị của khu di tích HTTL tại 18.Hồng Diệu tháng 8 nim 2004. Những
bộ phận trang trí trên ngói ở đây được những người khai quật xếp vào niên đại từ

thoi Ly [28, 30]. Đây là lần đầu tiên các nhà khảo cô học chú ý khá kỹ đến trang tri

trên ngói. Kỹ thuật gắn trên ngói cũng được nói đến.

Liên tiếp từ năm 1998 đến năm 1999, Viện KCH, Sở VHTT Hà Nội và Văn

phòng ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đã tổ chức thám sát và khai

quật bốn địa điểm thuộc khu vực trung tâm của nội thành Hà Nội.

Từ 16-11-1998 đến 16-2-1999, khai quật hai đợt địa điểm Hậu Lâu (cịn gọi
là Lầu Cơng Chúa) (Ba Đình - Hà Nội). Trong diện tích khai quật là 200m2 với 4
hồ thám sát và 2 hồ khai quật đã tìm thấy một khối lượng lớn những bộ phận trang

trí trên ngói gồm có 71 mảnh trang trí hình lá đề cân và lệch, 125 mảnh đầu ngói

ống trong đó có 76 mảnh đầu ngói hình trịn và 49 mảnh đầu ngói bán viên, 37
mảnh tượng uyên ương, 2 mảnh trang trí đầu ngói âm dương, đầu ngói bị trang trí
mặt “hỗ phù” và hoa văn hoa lá. Chủ đề trang trí rất phong phú: trang trí hoa văn
hoa lá cách điệu (hoa sen, hoa cúc), hoa văn động vật (hình rồng, phượng), hoa văn
lá đề sừng tê .... Ngói được phân thành hai loại có men và khơng men. Màu sắc có


các màu: xanh, vảng, đỏ và xám. Niên đại di tích thuộc các thời Lý, Trần,

Lê.[66].
Trang trí trên ngói ở Hậu Lâu cịn được đề cập đến trong khoá luận tốt

nghiệp của sinh viên chuyên ngành KCH với đề tài “Vật liệu kiến trúc ở di tích
Hậu Lâu (hồ II[5].

Tháng 10 năm 1999, khai quật hai địa điểm Đoan Mơn và Bắc Mơn (Ba

Đình - Hà Nội).

Tại địa điểm Đoan Mơn với diện tích 133,2m2. Tầng văn hoá gồm các lớp

Ly — Tran va Lê. Kết quả khai quật đã tìm thấy 6 đầu ngói ống trang trí hoa sen, 2

mảnh yếm ngói, 5 mảnh lá đề trang trí hoa văn hình rồng trên một và hai mặt, 15

mảnh lá đề trang trí hoa văn hình phượng trên một mặt, 1 mảnh lá đề trang trí hoa

văn hoa lá cách điệu. Các bộ phận trang trí này được thể hiện trên chất liệu đất

nung, xương gốm màu đỏ, xám và trắng [67].

Tại địa điểm Bắc Mơn diện tích hẹp hơn 60,40m2. Tầng văn hố từ thời

Trần đến thế kỷ 18. Đã tìm thấy: 18 mảnh đầu ngói trang trí hoa sen có màu đỏ,
khơng men và hoa cúc màu xám, 33 mảnh yếm ngói trang trí hoa lá cách điệu và

hình rồng với chất liệu có men và khơng men, xương gốm màu xám va trang, 1


mảnh lá đề trang trí hình phượng trên một mặt, 1 mảnh tượng uyên ương và ngói
mũi sen đầu nhọn có trang trí hoa văn “như ý” ở lưng ngói có màu đỏ xám [67].

Những bộ phận trang trí trên ngói ở hai địa điểm này có đặc điểm về chất
liệu, màu sắc, kích thước và hoa văn tương tự như những loại hình cùng loại ở các
địa điểm khác trong khu vực Thăng Long.

Tháng 4 năm 1999, Trung tâm văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử

Giám và Viện KCH thám sát địa điểm Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Ba Đình - Hà
Nội). Qua 6 hồ đào thám sát với diện tích 50m2, tại hồ 2, 4 và 6 đã tìm thấy lá đề

cân trang trí hình phượng, lá đề lệch trang trí hình rồng, đầu ngói ống trang trí hoa
văn hoa cúc và hoa sen, tượng uyên ương [12]. Số lượng di vật và vật liệu trang trí
kiến trúc không phong phú bằng địa điểm Hậu Lâu nhưng những hoạ tiết trang trí
thì cùng có diễn tiến tương tự.

C6 thé thay trong địa điểm ở khu vực Thăng Long, các bộ phận trang trí trên

ngói đều khá thống nhất về loại hình và hoa văn trang trí. Các cuộc khai quật này
đều được làm các thông báo kết quả khá đầy đủ. Các báo cáo đã đề cập đến các bộ
phận trang trí trên ngói trên các phương diện hoa văn trang trí, màu sắc và chức

năng.

Trang trí trên ngói cũng được chú ý hơn trong một số bài viết về vật liệu xây
dựng qua các thời ở Thăng Long. Sau nhiều năm chủ trì các cuộc khai quật và
nghiên cứu về Thăng Long, Tống Trung Tín và các cộng sự đã hệ thống bước đầu
những kết quả nghiên cứu tại ba địa điểm Đoan Môn, Bắc Môn và Hậu Lâu trong

bai “Hé thong vật liệu xây dựng ở kinh đô Thăng Long qua các đợt khai quật Đoan

Môn, Bắc Môn và Hậu Lâu” cơng bỗ trên tạp chí KCH số 4 năm 2000. Trong bài

viết, trang trí trên ngói đã được các tác giả tách riêng thành một phần đề trình bày.
Các bộ phận trang trí trên ngói được hệ thống theo từng loại hình và theo từng thời
kỳ. Trong mỗi loại hình đi sâu nghiên cứu về hoa văn trang trí. Từ việc mơ tả chỉ
tiết các loại hình, các tác giả rút ra những đặc trưng của từng thời. Thời Lý, loại
hình phong phú đường nét tỉnh xảo, tỉ mỉ thể hiện trình độ thâm mỹ cao. Thời Trần
vẫn tiếp thu của thời Lý nhưng đường nét đơn giản hơn, thưa hơn và độ uốn cong
vừa phải. Loại hình đầu ngói ống chưa tìm thấy trong thời Trần. Thời Lê sơ có

thêm một số loại hình mới, trang trí đơn giản hơn thời Trần. Thế kỷ 16-18, kích

thước ngói nhỏ hơn có thêm những hoa văn mới lạ [68]. Hệ thống các loại hình di

vật tại ba địa điểm trên cho thấy tính đồng nhất về mặt loại hình và hoa văn trang

trí giữa các khu vực thuộc phạm vi Thăng Long.
Năm 2002, Viện KCH và Sở VHTT Hà Nội mà trực tiếp là Ban Quản lý và

danh thắng Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà

Nội tiến hành điều tra và đào thám sát hai đợt tại địa điểm 62 - 64 Trần Phú (Ba

Đình - Hà Nộ)). Với diện tích 143,5m2 đã thu được 58.212 hiện vật liên quan đến

vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc có niên đại kéo dài từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 19

như: đầu ngói trang trí hoa sen, hoa cúc, yếm ngói trang trí hình rồng, hoa cúc,

mảnh đi phượng. Đặc biệt có mảnh tượng un ương khắc chữ Hán “Chảy
Tuyền Kinh” có nghĩa là đường nước chảy gợi ý tượng uyên ương này được đặt
trang trí ở nơi có đường nước chảy trên mái [14, 67].

Dé phục vụ việc xây dựng nhà DUONG HOANG VAN THY

Quốc hội và Hội trường Ba Đình ĐƯỜNG HOÀNG DIỆU

(mới), tir thang 12 nam 2002 đến
tháng 3 năm 2004, Viện KCH tiễn

hành khai quật địa điểm 18. Hồng

Diệu (Ba Đình - Hà Nội), với diện

tích khai quật hơn 19000m2, chia

làm 4 khu: khu A, khu B, khu C và DUONG BAC SON

khu D (sd. 1). Sơ đồ 1: khu vực khai quật 18. Hoàng Diệu (Nguồn 32)

Trong tâng văn hoá sâu từ Im đên trên 4m đã tìm thây một phức hệ di tích

kéo dài liên tục khoảng thế kỷ 7 đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Công cuộc chỉnh

lý đang bắt đầu. Chưa có con số thống kê cụ thể nhưng có thể nói các bộ phận

trang trí trên ngói chiếm số lượng khá lớn và cực kỳ phong phú.

Bước đầu, đã có một số bài viết đề cập đến trang trí trên ngói ở khu vực này.


Trong bài “Hệ vật liệu xây dựng ở HTTL qua các thời tại địa điềm 18.Hồng

Diệu”, Tống Trung Tín đã sơ bộ giới thiệu một số hiện vật trang trí trên ngói [7I].

Lê Thị Liên và Ngô Thị Lan bước đầu nghiên cứu về vật liệu xây dựng trong đó

có trang trí trên ngói theo địa tầng ở hồ D5-D6 (khu D)[47].

Ngoài ra, một số bài viết khác về Thăng Long cũng đều nhắc đến vật liệu

trang trí trên ngói [15, 58, 70, 76]. Hai ân phẩm “Hoàng thành Thăng Long - phát
hiện khảo cổ học” do Hội Khoa học lịch sử xuất bản năm 2004 và “Hoàng thành

Thăng Long” do Viện Khảo cỗ học (Viện KHXH Việt Nam) xuất bản năm 2006

đã công bố những bức ảnh đẹp về một số bộ phận trang trí trên ngói có chú dẫn

niên đại [32, 72].

Tóm lại, sau năm 1954 khảo cô học Thăng Long đã đạt được nhiều thành tựu

mới. Đã tiến hành nhiều đợt thám sát và khai quật khảo cô học. Các bộ phận trang

trí trên ngói đã phát hiện nhiều hơn. Một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu chú ý đến

trang trí trên ngói. Tuy nhiên vẫn chưa có những cơng trình nghiên cứu sâu sắc và
đầy đủ về trang trí trên ngói ở Thăng Long. Vì vậy, diễn biến hoa văn trang trí qua
các thời kỳ hàng nghìn năm lịch sử vẫn chưa được làm rõ. Nghiên cứu trang trí
trên ngói nói riêng và nghiên cứu ngói nói chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu


cấp bách về tình hình nghiên cứu hiện nay của khảo cổ học lịch sử. Chính vì vậy,

việc phát lộ khu di tích HTTL tại 1§.Hồng Diệu đang mở ra những triển vọng to
lớn cho lĩnh vực nghiên cứu này. Hiện nay, dự án chỉnh lý địa điểm này đã và đang

được tiến hành và dự kiến kéo dài đến năm 2013. Trong khi chờ đợi cơng trình

khoa học này hồn chỉnh và cơng bố, luận văn được phép đề cập đến một số tư

liệu về trang trí trên ngói ở các hồ D4-D5-D6 (khu D).

1.2. Tình hình phát hiện ngói và trang trí trên ngói ở hố D4-D5-D6 (khu
D) khu di tích HT TL tại 1§8.Hồng Diệu

1.2.1.Vài nét về vị trí và địa tầng các hồ khai quật

a.. Vài nét về vị trí các hỗ D4-D5-Dó:

Phần trên luận văn đã đề cập đến cơng cuộc khai quật dia điểm 18.Hồng
Diệu. Qua nghiên cứu, giới khảo cô học và sử học Việt Nam bước đầu khẳng định

địa điểm 18.Hoàng Diệu nằm ở trung tâm của Hồng thành Thăng Long và ở phía
Tây của Điện Kính Thiên [46, 80]. Địa điểm này có tổng diện tích khoảng

48.000m2 cho đến tháng 3 năm 2004, Viện Khảo cô học đã khai quật được khoảng

19.000m2. Địa điểm chia làm 4 khu vực khai quật theo địa hình thực tế khai quật

va được đặt theo thứ tự từ Đông sang Tây là A, B, C, D @sđ. 7).


Khu D là khu vực khai quật giáp với SƠ ĐỎ HộT BẰNG cácnế KHAI QuậT KHú D

đường Độc Lập gần quảng trường Ba Đình. THUNG TÌM THỂ THABA BOÌNH)

Khu D bao gồm các hồ đánh số thứ tự từ DI - el. = e

đến D7, trong đó có các hố D4-D5-D6. Các tê" hồ

D4- D5-D6 liền khoảnh thuộc khu vực sân — a

SỐ : WW i

tennis của Câu lạc bộ thể thao Ba Đình số 1

đường Hồng Văn Thụ (quận Ba Đình - thành ——

phố Hà Nội). Sơ đồ 3. Sơ đồ mặt bằng khai quật khu D

Phía Bắc nằm sát khu bể bơi của Trung
.
tâm thê thao Ba Đình, phía Tây giáp cạnh

đường Độc Lập, phía Nam giáp khu vực Hội trường Ba Đình, phía Đông gần cạnh

hố D3 (sđ. 3).

Các hố này được khai quật từ ngày 1 tháng 8 năm 2003 và kết thúc vào ngày

30 tháng 2 năm 2004 với tổng diện tích là 2.223 m2 (Bắc Nam 39m x Đông Tây


57m) (a.1, 2). Luc đầu hố được mở với diện tích 1404 m2 (Bắc Nam là 27m x

Đơng Tây 52m) sau đó hố được mở rộng về bốn phía: phía Bắc 6m, phía Nam 6m,

phía Tây 2m và phía Đơng 3m (sđ.2). Các phần mở rộng này được ký hiệu theo các

hồ tương ứng. Hồ D4 mở rộng thêm về 3 phía: phía Đơng, phía Tây và phía Nam

bao gồm các hỗ D4Đ, D4T, D4N (sđ.4). Hỗ D5 mở rộng thêm về hai phía: phía

Nam và phía Bắc gồm hố D5N và D5B (sđ. 5). Hỗ D6 mở rộng thêm về 3 phía:

phía Nam, phía Tây và phía Bắc gồm hỗ D6N, DóT va D6B (sd. 6).
b. Vài nét về địa tẳng: Hỗ có diện tích rộng, khu vực khai quật có các di tích

kiến trúc xen lẫn những dòng chảy đã được san lấp nhiều lần, do vậy địa tầng

khơng ơn định và có sự khác biệt lớn giữa các khu vực nhất là phía Bắc và phía

Nam (a. 4, 5 ). Với độ sâu tr 1 đến hơn 4m, có rất nhiều dấu tích kiến trúc như:

các móng trụ, nền nhà, cơng thốt nước.... Sơ bộ có thể thấy đó là các vết tích kiến

trúc của các thời Đại La, Lý, Trần. Cùng đó là các loại di vật gồm đồ đất nung, gỗ,

kim loại...Đồ đất nung (gạch, ngói) là loại hình di vật chiếm số lượng nhiều nhất.
Dựa vào mặt cắt ở một số khu vực và quan sát trong quá trình khai quật chúng tơi
nhận thấy có các lớp đất sau:


Lớp đất mặt, 0m90 — 1m, có chỗ ăn sâu xuống 1m20, gồm các lớp gia cô
cho hai nền sân bê tông chồng lên nhau và nhiều lớp gạch, bê tông, nhựa đường và
đất đắp nhiều loại màu nâu tơi xốp lẫn nhiều mảnh gạch, ngói, sành sứ hiện đại.

Táng văn hố, gơm các lớp:

Lop 1: Dat dap mau x4m nâu, nâu hông chứa nhiêu mảnh gạch, ngói vụn,
sành sứ liên quan đến thời kỳ cuối Lê, Nguyễn trong đó có các loại ngói lót, ngói
bản mỏng, ngói mũi sen đâu vát.

Lớp 2: Đắt màu xám lẫn những lớp 4 o a

chồng chéo lẫn những hiện vật vỡ ở độ sâu Mặt cắt phía Nam hố D

2m đến 2m70. Lớp này có những loại hình
yếm ngói, đầu ngói hoa cúc màu xám liên
quan đến lớp thời Lê. Lớp này thể hiện rõ ở

khu vực phía Nam. (sổ. 7, a. 3, 4).

Lop 3: Đất nền sét đỏ, vàng tươi SỐ lần

đất nâu và đất nâu pha sét xám ở độ sâu từ — ——

2m70 đến 3m40. (a. 6, 8). Do bị xáo trộn
nặng nề nên hiện vật khó có thé tách biệt

được rõ ràng các hiện vật trong các lớp nền

này. Lớp này có rất nhiều mảnh trang trí trên


ngói thuộc thời Lý, Trần.

Mặt cắt lớp đất


×