Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Bài giảng kinh tế môi trường ba03 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 76 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BÀI 1: NHỮNG KHÁI NIỆM BAN ĐẦU VỀ KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG </b>

<b>Mục tiêu chung </b>

Sau học xong bài này, anh/chị nắm được sự ra đời tất yếu khách quan của khoa học Kinh tế môi trường, và đối tượng nghiên cứu của kinh tế môi trường, đồng thời thấy được ý nghĩa thực tiễn của môn học trong việc giải quyết những vấn đề môi trường nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế.

<b>Mục tiêu cụ thể: Sau khi học xong, sinh viên sẽ nắm được: </b>

- Sự ra đời của kinh tế môi trường gắn liền với lịch sử phát triển của các mô hình kinh tế.

- Hoạt động của chu trình kinh tế diễn ra như thế nào? - Vai trò của hệ thống môi trường đối với con người.

- Muốn nền kinh tế bền vững phải tuân theo những nguyên tắc nào?

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

[1] Lê Thạc Cán (2011), Kinh tế môi trường, Viện Đại học Mở Hà Nội, NXB Lao động.

[2] Rkerry Turner, David Pearce & Ian Batemam – Kinh tế môi trường [3] David Begg, Stanley Fisher (2008), Kinh tế học tập I, NXB Giáo dục.

[4] Nghị định 80/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường [5] Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001 – 2010

<b>1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ MÔI TRƯỜNG </b>

Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu sự hình thành và phát triển của kinh tế môi trường, nó gắn liền với lịch sử phát triển của các mô hình kinh tế như thế nào? Sau khi học xong mục này, chúng ta sẽ nắm được:

- Các mô hình kinh tế đã xuất hiện như thế nào và nội dung cơ bản của các mô hình kinh tế đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

thay đổi sâu sắc; đó là tài nguyên ngày càng trở nên khan hiếm, chất lượng môi trường thay đổi ngày càng xấu đi, thiệt hại đối với xã hội càng to lớn.

Kinh tế học là ngành khoa học ra đời từ lâu và đạt được những thành tựu nghiên cứu, ứng dụng to lớn. Có thể nói, cuộc sống của con người trên hành tinh này có được những bước tiến vượt bậc và hiện đại như ngày nay là nhờ vào những phát kiến có tính quyết định của ngành kinh tế này. Trong quá trình nghiên cứu, chính những nhà kinh tế đã sớm chỉ ra rằng, song song với phát triển kinh tế phải chú trọng tới bảo vệ môi trường. Hiện nay, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiều vấn đề môi trường không nằm trong lĩnh vực nghiên cứu của một ngành khoa học cụ thể nào, mà nó có quan hệ với rất nhiều ngành khác, kể cả khoa học tự nhiên và xã hội. Suy thoái chất lượng môi trường sống và suy giảm, suy thoái tài nguyên với cường độ cao đang là những vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy, đã hình thành một ngành kinh tế mới nghiên cứu những vấn đề này là Khoa học môi trường.

Kinh tế môi trường được xem là phụ ngành giữa kinh tế học và khoa học môi trường. Nó sử dụng các nguyên lý, công cụ kinh tế để nghiên cứu các vấn đề môi trường và ngược lại, trong nghiên cứu, tính toán kinh tế phải tính đến các vấn đề môi trường. Kinh tế môi trường ra đời chưa lâu, nhưng nó được phôi thai và thể hiện trong quá trình phát triển của kinh tế học. Lịch sử phát triển kinh tế môi trường gắn liền với một số học thuyết và mô hình kinh tế sau:

<b>1.1.1. Mô hình kinh tế cổ điển </b>

Mô hình kinh tế cổ điển là một mô hình ra đời rất lâu và để lại một gia sản tư tưởng lớn mà cho đến nay nhiều vấn đề đặt ra vẫn còn đang được nghiên cứu, tranh luận. Trong mô hình này, sức mạnh của kinh tế thị trường được sử dụng để khuyển khích tăng trưởng và đổi mới kinh tế. Những người theo mô hình này lại thể hiện sự bi quan về triển vọng phát triển kinh tế trong tương lai. Theo họ, sự phát triển kinh tế như là một pha tạm thời giữa các vị trí cân bằng mà vị trí cuối cùng biểu thị sự hoang tàn, không thể thay đổi được.

Adam Smith (1723 – 1770) một trong những nhà khoa học tiêu biểu cho trường phái kinh tế này đã đưa ra học thuyết về bàn tay vô hình. Theo ông, thị trường là nơi tốt nhất để thẩm định hàng hóa xã hội. Thị trường tác động đến lợi ích xã hội, đến hành vi cá nhân đối với lợi ích chung, như là có bàn tay vô hình điều khiển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

trong nền kinh tế thị trường, lúc đầu tốc độ phát triển sẽ rất nhanh, nhưng về sau, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm do cạn kiệt tài nguyên, do tăng dân số nhanh. Vì vậy, họ có cái nhìn bi quan về sự phát triển kinh tế trong tương lai.

Trong một mô hình phức tạp hơn, Ricardo cũng cho rằng mức tăng trưởng kinh tế giảm dần trong tương lai xa là do sự khạn hiếm tài nguyên tài nguyên.

Sở dĩ có những cái nhìn bi quan như trên là do trong các mô hình này chưa tính đến sự đổi mới công nghệ. Vì vậy, tổng sản phẩm hàng hóa của một ngành nào đó được coi là có giới hạn.

<b>1.1.2. Mô hình kinh tế Mác – xít </b>

Karl Marx (1819 – 1883) là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Ông cho rằng, tiến triển là quá trình phát triển tự nhiên, là cái có thể thay thế môi trường tự nhiên. Khi đó, tự nhiên được con người tác động thông qua khoa học, kỹ thuật để biến giá trị vốn có của nó trở thành giá trị sử dụng.

Theo phân tích của Karl Marx, hệ thống kinh tế tư bản hiện đại còn thiếu sự thử thách về tái sản xuất và như vậy sẽ không bền vững. Một trong những nguyên nhân của tính không bền vững này là sự suy giảm môi trường. Những vấn đề về quyền lực kinh tế, bóc lột và các quá trình khác diễn ra trong xã hội có giai cấp là nguồn gốc của sự tranh chấp môi trường. Đây là điều không thể tránh khỏi và là một trong số các nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.

Theo nhận định của Karl Marx, một mặt các nhà tư bản cạnh tranh nhau tìm ra biện pháp tiết kiệm lao động, tăng năng suất lao động, tăng tổng giá trị thặng dư; mặt khác, chính những đổi mới công nghệ, kỹ thuật cũng sẽ đưa đến những mất mát đối với môi trường về lâu dài như tăng cường các chất thải độc hại vào môi trường, sự tồn lưu và tác động lâu dài của chất thải lên cuộc sống con người và các hệ sinh thái. Ơ nhiễm mơi trường, suy giảm chất lượng môi trường sẽ gây ra những hậu quả không lường trước được, đặc biệt gây nên nhiều loại bênh nguy hiểm và tử vong.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Mô hình kinh tế tân cổ điển ra đời vào khoảng năm 1870. Trong mô hình này, lý thuyết về giá trị lao động được phát triển thêm và giá trị hàng hóa không chỉ được coi là thước đo của lao động mà còn là thước đo mức khan hiếm hàng hóa. Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng tìm ra những định luật chi phối các hoạt động kinh tế. Trong đó, vai trò của cá nhân được đề cao, con người được coi là trên hết. Cá nhân được đánh giá thông qua khả năng hoạt động nhằm thỏa mãn ý muốn, sở thích của mình và ngay cả sự mưu cầu có tính ích kỷ cũng được coi như là nâng cao phúc lợi xã hội. Giá trị kinh tế của hàng hóa thị trường, lợi ích môi trường (không được định giá) và cả sự thông cảm với thế hệ tương lai đều được xác định theo lợi nhuận cá nhân thu được.

Mục tiêu chuẩn chỉ ước muốn xã hội đã được lập là tiêu chuẩn Pareto. Tiêu chuẩn tối ưu Pareto cho biết không thể làm cho một ai đó tốt lên mà không làm cho một người khác xấu đi.

Các nhà kinh tế nhân văn cho rằng, sở thích không phải ở dạng tĩnh, độc lập và được xác định bằng các nguồn gốc phát sinh, mà nó phụ thuộc lẫn nhau và có thể thay đổi theo thời gian. Do đó, ý muốn, nhu cầu không thể phân tích tách rời nhau. Trong số các nhu cầu, mức chất lượng môi trường xét nhiều hơn đến lợi ích công cộng. Quan điểm của họ không nhằm chỉ tiêu kinh tế thị trường mà nhằm kiềm chế và bổ sung để đạt mức cao hơn.

<b>1.1.4. Kinh tế sau chiến tranh và vấn đề môi trường </b>

Trong những năm 60 của thế kỷ 20, ô nhiễm môi trường trở nên nghiêm trọng và phổ biến nhiều nơi. Nhận thức về môi trường được nâng cao trong một số ngành của xã hội công nghiệp, làm nảy sinh những ý tưởng môi trường mới, trong đó, có ý tưởng muốn dừng tăng trưởng kinh tế vì nó gây ô nhiễm. Sự kiện này buộc các nhà kinh tế phải xem xét lại ý tưởng kinh tế trung tâm và phải xem xét cả đến sự khan hiếm liên quan tới khả năng sử dụng. Từ năm 1970, nhiều quan điểm bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn thế giới có xu thế quy tụ lại. Kiến thức, kinh nghiệm nghiên cứu phong phú đã dần dần cho ra đời phụ ngành kinh tế môi trường với nhiều quan điểm khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Học thuyết kinh tế này có từ đầu thế kỷ XX. Các nhà kinh tế học thể chế chấp nhận học thuyết tiến triển, coi kinh tế như quá trình động lực học. Họ giải thích sự thay đổi kinh tế – xã hội dựa vào thuyết văn hóa quyết định. Văn hóa ở đây được coi là phức hệ của các ý tưởng, quan niệm và đức tin mà các cá thể hấp thụ được thông qua sự sắp đặt thể chế. Các vấn đề môi trường là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế trong nền kinh tế công nghiệp tiên tiến. Các nhà kinh tế học thể chế chấp nhận khái niệm về chi phí xã hội với ô nhiễm và nhấn mạnh cơ sở sinh thái của hệ kinh tế.

<b>1.1.6. Mô hình quản lý môi trường mang tính thị trường </b>

Theo lý thuyết của Coase (1960), quyền sở hữu tài nguyên có thể dùng như là chính sách kiểm soát ô nhiễm. Coase cho rằng, với một số giả thiết đã cho, giải pháp hiệu quả nhất để giải quyết thiệt hại môi trường là sự thỏa thuận giữa người gây ô nhiễm và người chịu ô nhiễm, người này có thể bù cho người kia theo quyền sở hữu, nghĩa là nếu người gây ô nhiễm có quyền thì người chịu ô nhiễm có thể đền bù để họ không gây ô nhiễm. Còn nếu người chịu ô nhiễm có quyền thì người gây ô nhiễm phải đền bù sự thiệt hại do ô nhiễm gây nên đối với người chịu ô nhiễm. Như vậy, trong nền kinh tế có quyền sở hữu được xác định rõ ràng và có thể chuyển nhượng thì cá nhân và công ty

<b>được khuyến khích sử dụng tài nguyên thiên nhiên với hiệu quả cao nhất. </b>

Ô nhiễm là không thể tránh khỏi trong quá trình sản xuất. Vấn đề là phải xác định được mức ô nhiễm có thể chấp nhận, tìm được biện pháp giảm thiểu thiệt hại do ô nhiễm gây ra và tìm kiếm công nghiệp sạch dùng trong tương lai. Giải quyết vấn đề này thông qua các công cụ kinh tế đang là vấn đề đặt ra cần giải quyết.

Những năm gần đây, nhiều biện pháp quản lý môi trường thông qua các công cụ kinh tế đã được áp dụng, song rất khó tìm được biện pháp có thể sử dụng được trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nói cách khác, phải căn cứ vào điều kiện cụ thể để tìm biện pháp quản lý thích hợp.

<b>1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỆ THÔNG KINH TẾ VÀ HỆ THỚNG MƠI TRƯỜNG </b>

Hoạt đợng của hệ thống kinh tế được hiểu là môi trường tài nguyên, bao gồm nhiều thành phần như khí quyển (môi trường không khí), thủy quyển (môi trường nước), thách quyển, sinh quyển,... có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Theo nghĩa rộng, hệ thống môi trường có tính đến tài nguyên. Như vậy, ngoài chức năng không gian sống, hệ thống môi trường còn 2 chức năng khác gắn liền với hệ thống kinh tế là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Chứa và đồng hóa chất thải của hệ kinh tế;

Chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn 2 chức năng của hệ thống môi trường, từ đó chỉ ra hướng phát triển kinh tế sao cho đạt hiệu quả cao nhưng vẫn duy trì, bảo vệ được môi trường.

<b>1.2.1. Hệ thống kinh tế môi trường </b>

Trong hệ thống kinh tế, hình thành dòng năng lượng đi từ tài nguyên đến sản xuất và tiêu thụ. Quá trình chuyển đổi năng lượng này luôn kèm theo xả thải. Ngay trong quá trình khai thác tài nguyên, con người chỉ sử dụng những vật liệu cần thiết,

<i>phần dư thừa đều để lại môi trường. Ví dụ: khi khai thác gỗ phục vụ sản xuất giấy, các </i>

phế thải như là, vở, cành nhỏ,... đều được để lại trong rừng.

<i>Quá trình hoạt động của hệ thống kinh tế có thể được biểu diễn như sau: </i>

<b>Hình 1.1. Sơ đồ hoạt động của hệ thống kinh tế </b>

Trong đó, tài nguyên (R) được khai thác từ hệ thống môi trường; đó là các loại nguyên, nhiên, vật liệu như gỗ, than đá, dầu mỏ,... Tài nguyên sau khi khai thác, được đưa vào quá trình sản xuất (P) tạo ra sản phẩm phục vụ con người, sản phẩm được phân phối lưu thông đến tận tay người tiêu dùng và tiếp đó là quá trình tiêu thụ (C) phục vụ cuộc sống con người. W là tổng lượng thải trong quá trình hoạt động của hệ thống. Wr: Lượng thải do khai thác tài nguyên; Wp: Lượng thải do quá trình sản xuất; Wc: Lượng thải do tiêu thụ sản phẩm

Hoạt động của hệ thống kinh tế tuân theo định luật thứ nhất nhiệt động học: năng lượng và vật chất không mất đi và không tự sinh ra, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Nghĩa là, tổng lượng các chất thải từ tất cả các quá trình trong hệ thống kinh tế chính bằng lượng tài nguyên được đưa vào sử dụng cho hệ thống.

Ta có thể biểu diễn bằng đẳng thức sau: R = W = Wr + Wp + Wc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>a) Môi trường là nơi chứa đựng chất thải </b></i>

Toàn bộ chất thải từ hoạt động của hệ thống kinh tế đều được đưa vào môi trường. Trong đó, một phần nhỏ (r) được con người sử dụng lại để bổ sung cho tài nguyên phục vụ hệ thống kinh tế.

Việc sử dụng các chất thải hoàn toàn phụ thuộc vào các loại chất thải và khả năng của con người, cụ thể là công nghệ tái sử dụng. Nếu chi phí để sử dụng lại chất thải ít hơn khai thác tài nguyên mới, con người sẽ sẵn sàng sử dụng lại; ngược lại, con người sẽ sử dụng nguồn tài nguyên mới. Nhưng xét về ý nghĩa môi trường, con người luôn cố gắng tìm mọi cách sử dụng lại các chất thải, cho dù hiệu quả kinh tế không lớn lắm. Với công nghiệp hiện đại, chất thải kim loại đã và đang được sử dụng lại với hiệu quả khá cao, rác thải hữu cơ được chế biến thành phân vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp, nước thải được xử lý để sử dụng lại,... Tuy nhiên, vẫn còn lượng lớn chất thải đổ ra môi trường. Song, môi trường có một khả năng đặc biệt, đó là quá trình đồng hóa các chất thải, biến chất thải độc hại thành các chất ít độc hại hoặc không độc hại. Chẳng hạn, nước thải chứa chất hưu cơ đổ ra sông, suối, ao, hồ,... sẽ được pha loãng, được các vi sinh vật phân hủy trong điều kiện kỵ khí hoặc thoáng khí nên chỉ trong thời gian ngắn, tính độc hại giảm đi nhiều. Vì vậy, một hồ nước lớn có thể chứa được một lượng nước thải nào đấy mà chất lượng nước hồ vẫn bảo đảm sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.

<i><b>b) Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cho hệ thống kinh tế </b></i>

Hệ thống kinh tế muốn hoạt động được phải có các nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào, chúng là các dạng tài nguyên lấy từ môi trường (R). Tài nguyên có thể là tài nguyên tái tạo được như rừng, đất,... hoặc tài nguyên không tái tạo được như khoáng sản, dầu, mỏ,... Tài nguyên tái tạo là loại tài nguyên mà sau khi thu hoạch, khai thác, vẫn có khả năng phục hồi. Ví dụ, sau khi chặt cây lớn, cây bé lại mọc lên, rừng được phục hồi; hoặc sau khi đánh bắt hợp lý, theo thời gian, sản lượng cá ở sông, hồ, biển sẽ tăng lên. Mức phục hồi tài nguyên phụ thuộc vào loại tài nguyên, điều kiện khí hậu, địa lý, mức độ và phương thức khai thác cùng nhiều điều kiện khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Không gian sống của con người biểu hiện qua chất lượng cuộc sống. Khi không gian đó không đầy đủ cho yêu cầu của cuộc sống, chất lượng của cuộc sống bị đe dọa. Từ môi trường, con người khai thác tài nguyên để sản xuất ra các sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống của mình. Ngoài ra, môi trường còn đem lại cho con người các giá trị tinh thần: cảnh quan, thoải mái về tinh thần, nâng cao thẩm mỹ,... môi trường đã đem lại cho con người nguồn phúc lợi.

Ngày nay, với sự gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế ở mức độ cao nhằm tạo nhiều của cải, hàng hóa cho xã hội, tài nguyên bị khai thác nhiều hơn, chất thải sinh ra nhiều hơn, môi trường bị suy thoái. Bảo vệ môi trường đang là mục tiêu hết sức quan trọng trong thời đại hiện nay.

<b>1.3. NỀN KINH TẾ BỀN VỮNG </b>

Khái niệm phát triển bền vững do nhiều nhà khoa học đề xuất, được Ủy bản Môi trường và Phát triển chính thức đưa ra năm 1987. Theo đó “những thế hệ hiện tại cần đáp ứng nhu cầu của mình sao cho không phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

<b>1.3.1. Các nguyên tắc của nền kinh tế phát triển bền vững </b>

Để nền kinh tế phát triển bền vững, phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc 1: Mức khai thác và sử dụng tài nguyên tài tạo (h) phải luôn nhỏ

hơn mức tái tạo của tài nguyên (y), tức là h < y.

- Nguyên tắc 2: Luôn luôn duy trì lượng chất thải vào môi trường (W) nhỏ hơn khả năng hấp thụ (đờng hóa) của mơi trường (A), tức là W < A.

Thoạt nhìn 2 nguyên tắc này có vẻ đơn giản, dễ áp dụng nhưng trong thực tế, rất khó xác định mức tăng trưởng tài nguyên tái tạo và mức đồng hóa chất thải. Ngay cả khi quản lý, điều hành hệ kinh tế đáp ứng 2 nguyên tắc trên cũng gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, việc ước tính gần đúng mức tái tạo đối với mỗi loại tài nguyên như rừng, thủy sản, động, thực vật, đất,... đã giúp chúng ta có quy hoạch khai thác, nuôi dưỡng tài nguyên hợp lý hơn. Để nền kinh tế phát triển bền vững, vốn dự trữ tài nguyên thiên nhiên phải luôn được duy trì ổn định theo thời gian. Những điều cần ghi nhớ khi xem xét nền kinh tế bền vững sau đây:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

con người phải tìm tài nguyên thay thế (như trồng rừng) hoặc tìm công nghệ sử dụng các loại năng lượng được coi là vĩnh cửu (như năng lượng gió, mặt trời, thủy triều,...).

- Con người có thể kiểm soát được khả năng phục hồi tài nguyên tái tạo (y) và khả năng hấp thụ của môi trường (A). Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới, việc khai thác tài nguyên ở mức cao và không hợp lý đang làm giảm khả năng phục hồi. Tuy nhiên, nếu chúng ta quy hoạch, sử dụng tốt tài nguyên, áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến thì vẫn có thể nâng cao khả năng phục hồi tài nguyên. - Nâng cao trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên, ý thức quản lý môi

trường có thể nâng cao vai trò cung cấp tài nguyên thiên nhiên và khả năng hấp thụ của môi trường.

- Kiểm soát gia tăng dân số. Đây là yếu tố rất quan trọng, bởi vì việc tăng dân số, tăng mức sống, chắc chắn sẽ tác động đến môi trường ngày một cao hơn. Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ tăng dân số còn ở mức rất thấp, dân số ổn định, là dấu hiệu tốt, chứng tỏ ổn định dân số trên phạm vi toàn thế giới trong tương lai.

<b>1.3.2. Sự lựa chọn của chúng ta </b>

Nâng cao mức sống cho các cá nhân trong cộng đồng là mục tiêu của phát triển, nhưng nâng cao mức sống lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có vốn tài nguyên thiên nhiên và khả năng sử dụng tntnt. Vì vậy, muốn cho nền kinh tế phát triển bền vững, cốn tài nguyên thiên nhiên phải được duy trì ổn định theo thời gian ở mức nào đó. Xét khả năng nâng cao mức sống liên quan tới dự trữ tài nguyên thiên nhiên được dùng trong sản xuất, phát triển kinh tế. Có 2 khả năng có thể xảy ra với 2 giả thuyết có tính cực đoan sau:

<i>- Giả thuyết thứ nhất: Đối với nền kinh tế có mức dự trữ tài ngun (KN) thấp, </i>

ḿn tăng mức sống (SOL) phải tăng vốn tài nguyên. Lúc này, vốn tài nguyên và mức sống là 2 yếu tố hỗ trợ nhau. Rõ ràng, vừa nâng cao mức sống, vừa gia tăng vốn dự trữ tài nguyên chỉ có thể đạt được khi chúng ta sống tăng tiện, tiết kiệm. Nghĩa là, phải chấp nhận mức sống tăng chậm, cuộc sống còn khó khăn, dành vốn và nguồn lực để nuôi dưỡng tài nguyên. Những biện pháp như đóng cửa rừng (không khai thác), xác định hạn ngạch đánh bắt cá, giáo dục, tuyên truyền nếp sống tiết kiệm là những hoạt động theo hướng này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

bớt vốn dự trữ tài nguyên thiên nhiên. Ở một số nước, khi vốn dự trữ tài nguyên còn nhiều, việc nâng cao đời sống có thể thực hiện theo khả năng này. Chẳng hạn, ở các nước có dự trữ dầu mỏ lớn, trước mắt có thể khai thác tài nguyên để nâng cao đời sống, song, về lâu dài, chắc chắn họ phải chọn con đường phát triển khác – sử dụng các nguồn tài nguyên khác bền vững hơn.

Thực ra, trong suốt quá trình phát triển của mỗi quốc gia, không nhất thiết chỉ theo một giả thuyết mà còn tùy từng điều kiện cụ thể để chọn hướng phát triển hợp lý.

Dựa trên 2 giả thuyết trên, xét sơ đồ tổng quát 1.2. biểu thị mối quan hệ phức tạp giữa vốn dự trữ tài nguyên và chất lượng cuộc sống. Khi mức sống (SOL) dưới mức tương ứng với điểm W, tùy theo mức xuất phát mà chọn cách phát triển để đạt đến mức này. Chẳng hạn, nếu đất nước hiện đang ở tình trạng mức sống và trữ lượng tài nguyên thấp (ứng với điểm A hoặc B), nên chọn hướng phát triển theo giả thuyết 1 để đạt đến điểm W; nếu đất nước có mức trữ lượng tài nguyên cao (điểm Y), có thể chọn phát triển theo giả thuyết 2. Khi mức sống đã đạt được mức W, có 2 cách lựa chọn mơ hình phát triển:

<b>MƠ HÌNH HOÁN ĐẢO </b>

Ḿn nâng cao mức sớng (SOL) thì phải đánh đổi vốn dự trữ tài nguyên thiên nhiên (KN), tuân theo giả thuyết thứ 2. Nhưng sự thay thế này chỉ ở mức giới hạn, bởi vì ta thừa nhận K<small>min</small> là mức dự trữ vốn tài nguyên tối thiểu, nên tăng mức sống từ W sẽ theo đường WXZ.

<b>Hình 1.2. Mối quan hệ giữa vốn dự trữ và tài nguyên với chất lượng cuộc sống </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG </b>

Khi mức sống đạt ở mức SOL nào đó, có thể tăng mức sống bằng cách tăng hoặc giữ nguyên vốn dữ trữ tài nguyên ở mức KN*. Nếu xảy ra trường hợp giảm KN để nâng cao SOL cũng chỉ là tạm thời. Như vậy, theo mô hình phát triển bền vững, quan hệ giữa mức sống (SOL) và vốn dự trữ tài nguyên (KN) phải nằm trong miền góc vuông PWQ. Điểm W với mức sống SOL* và mức trữ lượng KN* có đặc điểm gì? Để trả lời câu hỏi này, ta xét khả năng phục hồi tài nguyên. Khi tài nguyên ở mức trữ lượng thấp, nếu có sự cố, tai biến hoặc rủi ro xảy ra làm giảm hơn nữa trữ lượng thì tài nguyên rất khó hồi phục. Nếu ở mức trữ lượng cao thì khi rủi ro xảy ra, tài nguyên vẫn có khả năng phục hồi nhanh.

<b>1.3.3. Khả năng duy trì vốn dự trữ tài nguyên thiên nhiên </b>

Sự thay thế tài nguyên thiên nhiên (KN) bằng tài nguyên nhân tạo (KM). Điều này chỉ có thể đạt được trong một chừng mực nào đó. Việc thay thế chỉ có ý nghĩa khi vốn tài nguyên nhân tạo (KM) có năng suất cao hơn so với vốn tài nguyên thiên nhiên (KN) được sử dụng để tạo ra vốn nhân tạo đó. Tài nguyên thiên nhiên ngoài chức năng kinh tế (cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu) còn có chức năng nâng đỡ cuộc sống như điều hóa khí hậu, ngăn lũ, lụt, duy trì các nguồn gien mà tài nguyên nhân tạo không thể làm được.

Tiến bộ công nghệ: có thể là một biện pháp giảm đầu vào tài nguyên thiên nhiên cho việc nâng cao cuộc sống (SOL). Tuy nhiên, cần phải đặt ra câu hỏi là tiến bộ công nghệ có kéo dài mãi không? Các công nghệ mới có chắc chắn gây ít ô nhiễm không?

Khả năng phát triển kéo dài: Trong công cuộc phát triển kinh tế, các nước nghèo phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn các nước giàu. Khả năng phát triển của các nước nghèo phụ thuộc vào việc duy trì dự trữ vốn tài nguyên. Vì vậy, khi gặp các biến cố về thiên tai, chiến tranh thì các nước nghèo khó quay lại con đường phát triển.

Công bằng giữa các thế hệ: xây dựng một tính đẹp cho các thế hệ tương lai. Một trong những lý do phải duy trì vốn tài nguyên thiên nhiên là đảm bảo tính công bằng trong sử dụng vốn tài nguyên thiên nhiên giữa các thế hệ. Một lý do nữa là chúng ta có thể tạo được vốn tài nguyên nhân tạo (KM) dễ dàng hơn nhiều so với việc tạo ra tài nguyên thiên nhiên (KN).

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nghĩa đối với sự sống của sinh vật, nếu con người muốn giảm vốn dự trữ tài nguyên thì vô hình chung đã làm mất đi nơi sinh sống cho sinh vật, đời sống sinh vật bị đe dọa.

Ý nghĩa của việc sử dụng quỹ vốn thiên nhiên – lợi ích và chi phí: Các nhà kinh tế học cho rằng, khi thay đổi vốn tài nguyên luôn luôn kéo theo cả chi phí và lợi ích. Nếu giảm quỹ tài nguyên thì bao giờ cũng nhằm một mục đích nào đấy, chẳng hạn việc phá rừng nhiệt đới là nhằm mục đích nông nghiệp. Như vậy, khi làm mất đi tài nguyên đều mang lại lợi ích cho sử dụng vùng đất đó. Hay là khi sử dụng đại dương hoặc khí quyển để làm nơi chứa đựng chất thải cũng nhằm mang lại nhiều lợi nhuận vì phải dùng các phương pháp xử lý khác tốn kém hơn. Việc phá hủy môi trường cũng gây ra những chi phí, vì rất nhiều người cùng sử dụng môi trường (để ngắm cảnh, giải trí, nghiên cứu khoa học,...).

<b>TÓM LƯỢC BÀI 1 </b>

Trong nội dung bài 1 này, chúng ta đã nghiên cứu được những nội dung sau đây: - Sự hình thành và phát triển của kinh tế môi trường gắn liền với lịch sử phát

triển các mô hình kinh tế, từ mô hình kinh tế cổ điển, mô hình Mác – xít, mô hình tân cổ điển và mô hình nhân văn, kinh tế sau chiến tranh và vấn đề môi trường, mô hình kinh tế thể chế cho đến mô hình quản lý môi trường mang tính thị trường.

- Chu trình hoạt động của hệ thống kinh tế và vai trò của hệ thống môi trường, trên cơ sở đó hiểu được mối quan hệ phụ thuộc giữa 2 hệ thống đó như thế nào. - Vì sao phải xây dựng nền kinh tế bền vững? Thế nào là một mơ hình nền kinh

tế bền vững?

<b>CÂU HỎI ƠN TẬP </b>

1. Trình bày sự ra đời tất yếu khách quan của khoa học kinh tế môi trường. 2. Hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường có mối quan hệ như thế nào? 3. Hãy trình bày các nguyên tắc của nền kinh tế phát triển bền vững.

<i><b> Chúc Anh/Chị học tập tớt! </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>BÀI 2: MƠI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN </b>

<b>Mục tiêu chung: </b>

Sau khi học xong bài này, người học sẽ nhận thức đầy đủ về môi trường sống con người và nhận thức đầy đủ về phát triển, trên cơ sở đó thấy được mối quan hệ giữa môi trường và phát triển là mỗi quan hệ mẫu thuẫn trong thể thống nhất.

<b>Mục tiêu cụ thể: sau khi học xong Bài 2, các học viên sẽ nắm được: </b>

- Mơi trường là gì?

- Mơi trường bao gồm những gì?

- Vai trị của mơi trường đối với con người như thế nào? - Phát triển là gì?

- Phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế là gì? - Các chỉ tiêu đánh giá phát triển?

- Mỗi quan hệ giữa môi trường và phát triển.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

[1] Lê Thạc Cán (2011), Kinh tế môi trường, Viện Đại học Mở Hà Nội, NXB Lao động.

[2] Rkerry Turner, David Pearce & Ian Batemam – Kinh tế môi trường [3] David Begg, Stanley Fisher (2008), Kinh tế học tập I, NXB Giáo dục.

[4] Nghị định 80/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường [5] Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001 – 2010

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>2.1. MÔI TRƯỜNG </b>

<b>2.1.1. Khái niệm môi trường </b>

<i>Theo điều 1 luật BCMT của Việt Nam (2005), môi trường bao gồm các yếu tố tự </i>

<i>nhiên và yếu tố nhân tạo có mối quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. </i>

Môi trường theo nghĩa rộng là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Khái niệm chung về môi trường như vậy được cụ thể hóa đối với từng đối tượng và từng mục đích nghiên cứu. Đối với cơ thể sống, môi trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của cơ thể. Đối với con người thì môi trường sống là tởng hợp những điều kiện vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế, xã hội, bao quanh có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của từng cá nhân và của những cộng đồng con người.

<i><b>Môi trường có 4 thành phần chính tác động qua lại lẫn nhau: </b></i>

- Môi trường tài nguyên bao gồm nước, không khí, đất đai, ánh sáng và các sinh vật.

- Môi trường kiến tạo gồm những cảnh quan được thay đổi do con người.

- Môi trường không gian gồm những yếu tố về địa điểm, khoảng cách, mật độ, phương hướng và sự thay đổi trong mơi trường.

- Mơi trường văn hóa – xã hội bao gồm các cá nhân và các nhóm, công nghệ, tôn giáo, các định chế, kinh tế học, thẩm mỹ học, dân số học và các hoạt động khác của con người.

<i><b>Môi trường là tất cả những gì xung quanh chúng ta, tạo điều kiện để chúng ta sống, hoạt động và phát triển. </b></i>

<i>Môi trường sống của con người thường được phân chia thành: </i>

<i>- Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh </i>

học, tồn tại ngoài ý muốn của con người nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là núi, sơng, biển cả, không khí, động thực vật, đất và nước,... môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây nhà cửa trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản phục vụ cho sản xuất và tiêu thụ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>- Môi trường xã hội: là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với con người. </i>

Đó là luật lệ, thể chế, cam kết, quy định ở các cấp khác nhau. Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.

<i>- Môi trường nhân tạo: bao gồm các yếu tố vật lý, sinh học, xã hội do con người </i>

tạo nên và chịu sự chi phối của con người, ví dụ như ánh sáng, tiếng ồn, sóng điện từ,...

Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên hoặc biến đổi theo làm thành những tiện nghi cho cuộc sống như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, các công viên,...

<b>2.1.2. Các thành phần cơ bản về môi trường </b>

<i><b>a) Thạch quyển </b></i>

Trái đất là một hành tinh nằm trong hệ Mặt trời. Hệ Mặt trời của trái đất là Thái Dương hệ, là một trong hàng triệu hệ thống tương tự thuộc một thiên hà có tên là ngân hà. Vỏ trái đất hay thạch quyển là một lớp vỏ cứng rất mỏng có cấu tạo hình thái rất phức tạp, có thành phần khơng đồng đều, có độ dày thay đổi theo vị trí địa lý khác nhau. Theo các nhà địa chất, vỏ trái đất được chia làm 2 kiểu: vỏ lục địa và vỏ đại dương. Vỏ đại dương có các thành phần chủ yếu là các đá giàu CaO, FeO, MgO, SiO<small>2</small> trải dài trên tất cả các đáy của các đại dương với chiều dày trung bình 8km.

Chúng ta đang sống trong một phần rất mỏng manh, có thành phần phức tạp và rất linh động của trái đất là vỏ trái đất. Cấu trúc trái đất và các quá trình hóa lý xảy ra trong lòng trái đất vẫn đang chứa đựng nhiều bí ẩn con người.

<i><b>b) Thủy quyển </b></i>

Toàn bộ nước trên trái đất tạo nên thủy quyển. Phần lớn lớp phủ nước trên trái đất là biển và đại dương. Hiện nạy, người ta chia thủy quyển làm 4 đại dương, 4 vùng biển và 1 vùng vịnh lớn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>Bảng 2. 1. Diện tích đại dương và các biển chính </b>

<b>Đại dương, biển Diện tích (triệu km<small>2</small>) Phần trăm (%) </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Từ khi trái đất được hình thành thì quá trình tổng hợp và phân hủy các chất bằng con đường hóa học diễn ra với tên gọi “vòng đại tuần hoàn địa chất”. Bản chất của vòng tuần hoàn này là một quá trình phong hóa đã dưới tác động của nước, không khí và nhiệt độ.

Quá trình tổng hợp chất được tiến hành bằng 2 phương thức: quang hợp và tổng hợp.

<i><b>d) Khí quyển </b></i>

Khí quyển là lớp vỏ ngoài của trái đất, với ranh giới là bề mặt thủy quyển, thạch quyển và ranh giới trên là khoảng không giữa các hành tinh. Khí quyển trái đất được hình thành do sự thoát hơi nước, các chất khí từ thủy quyển và thạch quyển.

Thành phần khí quyển hiện nay của trái đất khá ổn định theo phương nằm ngang và phân dị theo phương thẳng đứng về mật độ. Khí quyển trái đất có cấu trúc phân lớp, với các tầng đặc trưng từ dưới lên trên như sau: tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung quyển, tầng nhiệt quyển và tầng ngoại quyển.

<b>2.1.3. Vai trị của mơi trường </b>

<i><b>a) Mơi trường là không gian sinh sống cho con người và sinh vật. </b></i>

Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi một người đều cần một không gian nhất định để phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở, nơi nghỉ, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, kho tàng, bến cảng,...

Yêu cầu không gian sống của con người thay đổi theo trình độ khoa học công nghệ. Trình độ phát triển càng cao thì nhu cầu về không gian sản xuất sẽ càng giảm. Gần đây, để cân nhắc tải lượng mà môi trường phải gánh chịu đã xuất hiện những chỉ thị cho tính bền vững liên quan đến không gian sống của con người như:

- Khoảng sử dụng môi trường là tổng các tài nguyên thiên nhiên có thể được sử dụng hoặc những ơ nhiễm có thể phát sinh để đảm bảo một môi trường lành mạnh cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

- Dấu chân sinh thái được phân tích dựa trên định lượng tỷ lệ giữa tải lượng của con người lên một vùng nhất định và khả năng của vùng để duy trì tại lượng đó mà khơng làm cạn kiệt các nguồn tài ngun thiên nhiên.

<i>Phân loại chức năng không gian sống của con người thành các dạng cụ thể sau: </i>

- Chức năng xây dựng: cung cấp mặt bằng và nền móng cho các đơ thị, khu cơng nghệ, kiến trúc hạ tầng và nông thôn.

- Chức năng vận tải: cung cấp mặt bằng, khoảng không gian và nền móng cho giao thơng đường thủy, đường bộ và đường không.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Chức năng sản xuất: cung cấp mặt bằng và phông tự nhiên cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

- Chức năng cung cấp năng lượng, thông tin.

- Chức năng giải trí của con người: cung cấp mặt bằng, nền móng và phơng tự nhiên cho việc giải trí ngoài trời của con người.

<i><b>b) Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con người. </b></i>

Tự nhiên là nguồn cung cấp mọi nguồn tài nguyên cần thiết. Nó cung cấp vật liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho hoạt động sinh sống, sản xuất và quản lý con người. Nhu cầu của con người về các nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và mức độ phức tạp theo trình độ phát triển của xã hội. Chức năng này của môi trường còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự nhiên gồm:

- Rừng tự nhiên: có chức năng cung cấp nước, bảo tồn đa dạng sinh học và độ phì của đất, nguồn gỗ vủi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh thái.

- Các thủy vực: có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng, nơi vui chơi giải trí và các nguồn tủy hải sản.

- Động thực vật: cung cấp lương thực và thực phẩm và các nguồn gen quý hiếm. - Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, gió và nước: để chúng ta hít thở, cây

cối ra hoa và kết trái.

- Các loại quặng, dầu mỏ: cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp,...

<i><b>c) Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất. </b></i>

Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn đào thải ra các chất thải vào môi trường. Tại đây, các chất thải dưới tác động của các vi sinh vật và các yếu tố môi trường khác sẽ bị phân hủy, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hóa phức tạp.

<b>2.2. PHÁT TRIỂN </b>

<b>2.2.1. Khái niệm về phát triển </b>

Phát triển là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng phát triển sản xuất, cải thiện quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. Phát triển là xu thế tự nhiên của mỗi cá nhân và của cộng đồng con người.

<i>Như vậy, phát triển gồm 2 nội dung: </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

- Phát triển kinh tế.

- Phát triển và cải thiện các vấn đề xã hội.

<b>2.2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế </b>

<i><b>a) Tăng trưởng kinh tế </b></i>

Tăng trưởng kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng.

Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn thuần về mặt số lượng; đây là sự biến đởi có ý nghĩa tích cực, mặc dù nó cũng giúp cho xã hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của công dân, của xã hội. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế của thời kì sau so với thời kì trước:

 Y<small>o</small>: Tổng sản lượng thời kì trước  Y<small>1</small>: Tởng sản lượng thời kì sau

 Mức tăng trưởng tuyệt đối : delta = Y<small>1</small> – Y<small>0</small>.  Mức Tăng trưởng tương đối: = Y<small>1</small>/ Y<small>0</small>.

Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mơ hình kinh tế sau:

<small></small> <b>Mơ hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất </b>

nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nơng phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mơ hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng.

<small></small> <b>Mơ hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực </b>

nông nghiệp và cơng nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

kinh tế. Tiêu biểu cho mơ hình hai khu vực là mơ hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima.

<small></small> <b>Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố </b>

K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.

<small></small> <b>Mơ hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất </b>

chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).

<small></small> <b>Mơ hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ </b>

công nghệ.

<small></small> <b>Mô hình Sung Sang Parknguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc </b>

gia cho đầu tư con người.

<small></small> <b>Mơ hình Tân cở điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết </b>

hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).

Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều khơng coi trọng vai trị của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mơ Keynes tiêu biểu là mơ hình Harrod-Domar. Mơ hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng tồn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng khơng cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).

Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cở điển xây dựng mơ hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái tồn dụng lao động. Mơ hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng.

<b>Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế </b>

Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.

<small></small> <i>Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và </i>

kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, cơng nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, ngun vật liệu hay cơng nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát

<i>triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "mợt lượng lớn tư bản </i>

<i>của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hời nhanh chóng sau năm 1945. Nếu khơng có sớ vớn nhân lực này thì sẽ khơng bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến." </i>

<small></small> <i>Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những </i>

tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trị quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như khơng có tài ngun thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, cơng nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.

<small></small> <i>Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người </i>

lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản khơng chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mơ nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thơng, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....

<small></small> <i>Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải </i>

là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là q trình khơng ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là q trình sản xuất có hiệu quả hơn. Cơng nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tịi, nghiên cứu; cơng nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.

<i><b>b) Phát triển kinh tế </b></i>

<i><b>Phát triển kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến </b></i>

đởi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế. Như vậy, đã có phát triển kinh tế là bao hàm nội dung của sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nó được tăng trưởng theo một cách vượt trội so sự đổi mới về khoa học công nghệ, do năng suất xã hội cao hơn hẳn và có cơ cấu kinh tế hợp lí và hiệu quả hơn hẳn. Do đó, khái niệm phát triển kinh tế bao gồm :

- Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.

- Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội là hai mặt vừa phụ thuộc lại vừa độc lập tương đối của lượng và chất.

- Sự phát triển là một quá trình tiến hóa theo thời gian do những nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước.

- Kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một q trình vận động khách quan, cịn mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến đổi kinh tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.

<i><b>c) Những quan điểm cơ bản về tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: </b></i>

<i><b>Quan niệm nhấn mạnh vào tăng trưởng: Quan điểm này cho rằng tăng thu nhập </b></i>

là quan trọng nhất, nó như đầu tàu, kéo theo việc giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy những nước theo quan điểm này đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, không ngừng tăng thu nhập. Song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản sau:

- Sự tăng trưởng kinh tế q mức nhanh chóng vì những động cơ có lợi ích cục bộ trước mắt đã dẫn đến sự khai thác bừa bãi không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế, khiến cho nguồn tài nguyên bị kiệt quệ và môi trường sinh thái bị phá huỷ nặng nề.

- Cùng với sự tăng trưởng là sự bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện, tạo ra những mâu thuẫn và xung đột găy gắt: Xung đột giữa khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp; xung đột giữa giai cấp chủ và thợ; gắn với nạn thất nghiệp tràn lan; xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế - xã hội, do q trình phát triển kinh tế khơng đều tạo nên.

- Tăng trưởng đưa lại những giá trị mới, song nó cũng phá huỷ và hạ thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp cần phải bảo tồn và phát huy như: nền giáo dục gia đình, các giá trị tinh thần, đạo đức, thuần phong mỹ tục, chuẩn mực của dân tộc. Đồng thời với việc làm giàu bằng bất cứ giá nào thì tội ác cũng phát triển; các băng đảng lũng đoạn, sản xuất hàng giả, buôn lậu chất ma tuý với qui mô quốc tế sẽ gia tăng.

- Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng còn đưa lại những diễn biến khó lường trước, cả mặt tốt và không tốt, nên đời sống kinh tế xã hội thường bị đảo lộn, mất ởn định, khó có thể lường trước được hậu quả.

<i><b>Quan điểm nhấn mạnh vào sự bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội: Sự phát </b></i>

triển kinh tế đựợc đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc về văn hóa, giáo dục, y tế của Nhà nước, hạn chế tối đa sự bất bình đẳng trong xã hội. Hạn chế của việc lựa chọn quan điểm này là nguồn lực hạn chế lại bị phân phối dàn trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao và việc phân phối đồng đều cũng không tạo ra được động lực thúc đẩy người lao động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i><b>Quan điểm phát triển toàn diện: Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm </b></i>

trên, vừa nhấn mạnh về số lượng vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Theo quan điểm này tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết.

<b>2.2.3. Đánh giá phát triển kinh tế </b>

<i><b>a) Các đại lượng đo lượng tăng trưởng kinh tế </b></i>

Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do nền kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP); thu nhập quốc dân sản xuất (NI) và thu nhập quốc dân sử dụng (NDI).

<b>Tổng sản phẩm trong nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP): </b>

GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Đại lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau:

<b>Về phương diện sản xuất: </b>

Tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước GDP = Giá trị tăng = Giá trị sản lượng - Chi phí các yếu tố trung gian

<b>Về phương diện tiêu dùng : </b>

GDP = C + I + G + (X - M) Trong đó:

C: Tiêu dùng các hộ gia đình

G: Các khoản chi tiêu của chính phủ

I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp (X - M): Xuất khẩu ròng trong năm

<b>Về phương diện thu nhập: </b>

GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.

GDP = C<small>p</small> + I<small>p</small> + T

<i>Trong đó: </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

C<small>p</small>: các khoản chi tiêu mà các hộ gia đình được quyền tiêu dùng I<small>p</small>: Các khoản mà doanh nghiệp tiết kiệm được dùng để đầu tư

GDP theo cách xác định trên đã thể hiện một thước đo cho sự tăng trưởng kinh tế do các hoạt động kinh tế trong nước tạo ra, khơng phân biệt sở hữu trong hay ngồi nước với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất của nền kinh tế một nước.

<b>Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): </b>

GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, khơng phân biệt sản xuất được thực hiện trong nước hay ngoài nước.

Như vậy, GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được.

GNP = GDP + Thu nhập tài sản rịng từ nước ngồi

Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự gia tăng thêm GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hoạt động kinh tế đem lại.

GNP thực tế là GNP được tính theo giá trị cố định nhằm phản ảnh đúng sản lượng gia tăng hàng năm loại trừ những sai lệch do sự biến động giá cả (lạm phát) tạo ra, khi tính GNP theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.

Hệ số giảm phát là tỷ lệ GNP danh nghĩa và GNP tực tế ở cùng một thời điểm. Dùng hệ số giảm phát để điều chỉnh GNP danh nghĩa ở thời điểm gốc, để xác định mức tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng qua các thời điểm.

<b>Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP): </b>

NNP là giá trị còn lại của GNP, sau khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố định (D<small>p</small>): NNP = GNP - D<small>p</small>

NNP phản ánh phần của cải thực sự mới được tạo ra hàng năm.

<b>Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): </b>

NDI là phần mà nhân dân nhận được và có thể tiêu dùng, là phần thu nhập ròng sau khi trừ đi thuế (trực thu và thuế gián thu) (Ti + Td) cộng với trợ cấp (S<small>d</small>):

NDI = NNP - (T<small>i </small>+ T<small>d</small>) + S<small>d</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển của nền kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phở biến nhất hiện nay, nhưng đó chỉ là những con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối trong phát triển kinh tế, vì bản thân các thước đo đó chưa thể phản ánh hết được các sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Chẳng hạn như các sản phẩm tự túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian nghỉ ngơi, sự tự do, thoải mái trong đời sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi trường thì được tính bằng cách nào.

<b>Thu nhập bình qn đầu người: </b>

Mỗi liên hệ GNP và dân số nói lên rằng muốn nâng cao phúc lợi vật chất cho nhân dân của một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế mà còn phải kìm hãm tốc độ tăng dân số. Do vậy, thu nhập bình quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nó vẫn chưa thể hiện mặt chất của sự tăng trưởng, như là sự tự do hạnh phúc của mọi người, sự văn minh của xã hội, tức là sự phát triển của xã hội.

<i><b>b) Các chỉ số phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội. </b></i>

<b>Các chỉ số xã hội của sự phát triển: </b>

Để nói lên sự tiến bộ của xã hội do tăng trưởng đưa lại, người ta thường dùng các chỉ số sau xoay quanh sự biến đởi của con người.

<b>T̉i thọ bình qn trong dân số: </b>

Sự tăng lên của t̉i thọ bình quân trong dân số ở một thời kỳ nhất định phản ánh một cách tởng hợp về tình hình sức khoẻ của dân cư trong một nước. Trong đó nó bao hàm sự văn minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và tinh thần được nâng cao. ở các nước kém phát triển đời sống thấp, thường có t̉i thọ bình qn dưới 50 t̉i, cịn các nứơc phát triển chỉ số đó đều trên 70 t̉i.

<b>Mức tăng dân số hàng năm: </b>

Đây là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu nhập bình quân đầu người. Xã hội loài người phát triển đã minh chứng rằng mức tăng dân số cao luôn luôn đi với sự nghèo đói và lạc hậu. Các nước phát triển đều có mức tăng dân số tự nhiên đều dưới 2% một năm, còn các nước kém phát triển đều ở mức trên 2% một năm .

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b>Số calo/người/ngày: </b>

Chỉ số này phản ánh các cung ứng các loại nhu cầu thiết yếu nhất đối với mọi người dân, về lương thực và thực phẩm hàng ngày được qui đởi thành calo. Nó cho thấy một nền kinh tế giải quyết được nhu cầu cơ bản như thế nào.

<b>Tỉ lệ người biết chữ trong dân số </b>

Cùng với chỉ số này, còn dùng chỉ số tỉ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi đi học, hay trình độ phở cập văn hố của người lao động trong dân số. Các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển và sự biến đổi về chất của xã hội. Xã hội hiện đại đã coi việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư hàng đầu cho phát triển kinh tế trong thời gian dài hạn. Tỉ lệ trẻ em đi học và người biết chữ cao, đồng nghĩa với sự văn minh xã hội, và nó thường đi đơi với nền kinh tế có mức tăng trưởng cao. Do vậy, nó là một chỉ số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia .

<i><b>c) Các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội </b></i>

- Ngoài các chỉ số nêu trên người ta còn dùng các chỉ số đánh giá sự phát triển xã hội ở mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ như: Số giường bệnh, số bệnh viện, bệnh viện an dưỡng, số bác sĩ, y sĩ bình quân cho một vạn dân. Về giáo dục và văn hóa có tởng số các nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, số lớp và số trường học, viện nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà bảo tàng, thư viện tính bình qn cho ngàn hoặc triệu dân.

- Sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm cũng là một tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của xã hội hiện đại. Người ta dùng đồ thị Lorenz và hệ số Gini để biểu thị.

<b>Hình 2.1. Đường cong Lorenz </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Để nghiên cứu mức chênh lệch trong phân phối thu nhập người ta thường chia dân số của một nước ra làm 10 nhóm người (gọi là 10 bậc), mỗi nhóm có 10% dân số; hoặc chia ra 5 nhóm (5 bậc ), mỗi nhóm 20% dân số từ thu nhập thấp nhất lên thu nhập cao nhất. Nếu như trong xã hội bình đẳng tuyệt đối thì cứ 20% dân số sẽ nhận được 20% thu nhập, có nghĩa là khơng có người giàu người nghèo. Cịn trong xã hội bất bình, đường cong Lorent sẽ cho ta biết rằng 20% dân số có thu nhập thấp nhất và 20% dân số có thu nhập cao nhất sẽ nhận được bao nhiêu % tởng thu nhập. Khi thu nhập của nhóm người nghèo giảm đi và thu nhập của nhóm người giàu tăng lên thì đường cong Lorent càng cách xa đường 45<small>0</small> và ngược lại.

Nếu phần diện tích được giới hạn bởi đường 45<small>0</small> và đường cong Lorent được kí hiệu là A và phần cịn lại của tam giác vuông được giới hạn bởi đường cong Lorent và 2 đường vng góc kí hiệu là B thì hệ số Gini được tính:

<i>Có thể thấy rằng: </i>

- Hệ số Gini nhận giá trị từ 0 tới 1

- Hệ số Gini = 0: Xã hội hoàn toàn bình đẳng - Hệ số Gini = 1: Xã hội hoàn toàn bất bình đẳng

Dựa vào những số liệu thu thập của Ngân hàng thế giới (WB) thì trong thực tế giá trị của hệ số Gini biến đối trong phạm vi hẹp hơn: Từ 0,2 đến 0,6. Theo nhận xét của WB thì những nước có thu nhập thấp, hệ số Gini biến động từ 0,3 đến 0,5; đối với những nước có thu nhập trung bình từ 0,4 đến 0,6 và đối với nước có thu nhập cao từ 0,2 đến 0,4.

Tuy nhiên hệ số Gini mới chỉ lượng hoá được mức độ bất bình đẳng về phân phối thu nhập, còn tiêu thức về sự độc lập hay phụ thuộc về kinh tế và chính trị của quốc gia, sự tự do dân chủ công dân, sự tiến bộ trong thể chế chính trị, xã hội... thì cũng chưa thể lượng hóa hết được .

<b>Các chỉ số về cơ cấu kinh tế </b>

Cơ cấu kinh tế của một nước, theo cách hiểu thông thường là tổng thể các mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố kinh tế và trong từng yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Với quan niệm này, phải hiểu cơ cấu không chỉ là qui định về số lượng, chất lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chính là quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống, còn các quan hệ về số lượng, tỷ lệ chỉ được xem như là các biểu hiện của các mối quan hệ mà thôi .

Sự phát triển kinh tế - xã hội còn biểu hiện trong biến đổi của các ngành, các lĩnh vực sản xuất và các khu vực xã hội theo các chỉ số sau:

<b>Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội: </b>

Chỉ số này phản ánh tỉ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ cơng nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong GDP, cịn tỉ lệ nơng nghiệp thì giảm tương đối.

<b>Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X - M) </b>

Tỉ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên.

<b>Chỉ số về tiết kiệm - đầu tư (I) </b>

Tỉ lệ tiết kiệm đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn về khả năng tăng trưởng nền kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Những nước có tỉ lệ đầu tư cao (từ 20% - 30% GNP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, tỉ lệ này còn phụ thuộc vào qui mô của GNP và tỉ lệ giành cho người tiêu dùng:

I = GNP - C + X - M

<b>Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị </b>

Sự biến đổi rõ nét ở bộ mặt xã hội của quá trình phát triển là mức độ thành thị hóa các khu vực trong nước. Chỉ số này được biểu hiện ở tỉ lệ lao động và dân cư sống ở thành thị trong tổng số lao động và dân số. Sự tăng lên của dân cư hoặc lao động và làm việc ở thành thị là một tiến bộ do cơng nghiệp hóa đưa lại, nó nói lên sự văn minh trong đời sống của nhân dân trong nước .

<b>Chỉ số về liên kết kinh tế </b>

Chỉ số này biểi hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế giữa các khu vực trong nước, sự chặt chẽ của mối liên hệ giữa các ngành và các khu vực trong nước. Sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá thông qua trao đổi các yếu tố đầu vào - đầu ra trong các ma trận liên ngành, liên vùng. Điều đó thể hiện sự tiến bộ của nền kinh tế trong nước bằng việc đáp ứng ngày càng nhiều yếu tố sản xuất do trong nước khai thác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Dựa trên các tiêu thức nêu trên mà liên hiệp quốc và Ngân hàng thế giới thường sắp xếp các nước có mức độ tiến bộ, phát triển khác nhau; trong đó quan trọng nhất vẫn là mức thu nhập tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong năm. Căn cứ vào đây người ta sắp xếp các nấc thang phát triển khác nhau giữa các nước.

<b>2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA MT VÀ PHÁT TRIỂN </b>

<b>2.3.1. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển </b>

Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người, phát triển là quá trình cải thiện điều kiện đó. Mơi trường và phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong phạm vi một quốc gia cũng như trên toàn thế giới luôn luôn tồn tại 2 hệ thống:

- Hệ thống môi trường - Hệ thống kinh tế, xã hội

Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ môi trường nhưng nếu sử dụng không hợp lý thì tài nguyên sẽ bị suy giảm, cạn kiệt. Ngoài ra hệ thống kinh tế còn thải ra môi trường nhiều loại chất thải độc hại làm suy giảm mơi trường. Điều đó quay lại tác động lên kinh tế khiến cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động một cách bình thường. Loài người đang cố gắng tìm cách giải quyết mâu thuẫn này, nghĩa là tìm con đường phát triển kinh tế xã hội mà vẫn duy trì được nguồn tài nguyên cho các thế hệ sau và bảo vệ môi trường.

<b>2.3.2. Phát triển bền vững </b>

Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Hay nói cách khác đó là sự phát triển hài hòa cả kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường ở các thế hệ nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống của con người.

<i>Nội dung phát triển bền vững: </i>

- Bền vững về kinh tế. - Bền vững về xã hội.

- Bền vững về tài nguyên và môi trường.

<i>Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững: </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Tháng 6/1992, những người đứng đầu của hơn 170 quốc gia trên thế giới đã họp hội nghị thượng đỉnh Rio de Janero (Brazil). Hội nghị có tầm quan trọng lịch sử này đã đưa ra những nhận định và khuyến cáo sau đây về niềm hy vọng của con người: ở khắp mọi nơi, cuộc sống con người đều phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, con người phải sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tồn tại phát triển và cải thiện cuộc sống của mình. Nhưng sự sử dụng đó phải duy trì được tính đa dạng và năng suất của tài nguyên thiên nhiên.

Bảo vệ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên là hai mặt quan trọng của quá trình phát triển cuộc sống con người. Muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ổn định và phát triển, con người phải bảo vệ, xây dựng và phát triển một nền kinh tế – môi trường bền vững. Muốn xây dựng môi trường kinh tế – sinh thái phát triển bền vững, chúng ta phải xây dựng một xã hội bền vững. Con người phải xây dựng và sống trong xã hội bền vững dựa trên 9 nguyên tắc sau đây:

<i>- Nguyên tắc 1: Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. Đây là nguyên </i>

tắc đạo đức, trách nhiệm phải quan tâm đến mọi người xung quanh, sự phát triển của nước này không làm tổn hại đến quyền lợi các nước khác, đến tương lai thế hệ mai sau.

<i>- Nguyên tắc 2: Cải thiện chất lượng cuộc sống con người. </i>

<i>- Nguyên tắc 3: Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất. Đa dạng sinh học tích </i>

lũy trong hệ thống tự nhiên của trái đất mà loài người chúng ta đều phải lệ thuộc vào nó. Hệ thống này là những quá trình sinh thái đảm bảo sự nuôi dưỡng và phát triển sự sống. Bảo vệ đa dạng sinh học có ý nghĩa là không chỉ bảo vệ tất cả các loài động vật, thực vật trên hành tinh này mà còn bảo vệ cả gen di truyền có trong mỗi loài.

<i>- Nguyên tắc 4: Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được. Đây là những </i>

tài nguyên hữu hạn, sẽ cạn dần theo thời gian, do đó phải hết sức tiết kiệm.

<i>- Nguyên tắc 5: Tôn trọng khả năng chịu đựng của trái đất. Trái đất nói chung hay </i>

hệ sinh thái nói riêng đều chỉ chịu đựng được trong một giới hạn. Sự bền vững không thể có được nếu mức độ dân số ngày càng tăng. Chúng ta phải tìm một giải pháp an toàn giữa toàn bộ tác động của con người với ranh giới mà ta ước lượng mơi trường trái đất có thể chịu đựng được.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<i>- Nguyên tắc 6: Thay đởi tập tục và thói quen đối xử không tôn trong thiên nhiên, </i>

nước nghèo thì tấn công vào thiên nhiên để tồn tại, còn các nước giàu thì tiêu dùng lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Mọi người trên hành tinh này không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác đều cần phải quan niệm đúng đắn giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên có trên trái đất và những tác động của con người đối với chúng.

<i>- Nguyên tắc 7: Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. Có như </i>

vậy mới gắn trách nhiệm và quyền lợi của các cộng đồng với môi trường mà họ đang sống.

<i>- Nguyên tắc 8: Tạo ra một quốc gia thống nhất thuận lợi cho việc phát triển và </i>

bảo vệ. Một xã hội bền vững phải kết hợp hài hòa giữa phát triển và bảo vệ môi trường, phải xây dựng được sự đồng tâm nhất trí và đạo đức cuộc sống bền vững trong các cộng đồng. Các chính quyền trung ương cũng như địa phương phải có cơ cấu thống nhất về quản lý mơi trường, bảo vệ các dạng tài nguyên.

<i>- Nguyên tắc 9: Xây dựng một khối liên minh toàn cầu. Bảo vệ môi trường là trách </i>

nhiệm của tất cả các quốc gia, các Chính phủ và mọi cá nhân. Môi trường khơng có biên giới, nó liên quan đến nhiều quốc gia, cho nên các quốc gia phải hợp tác với nhau trong các hiệp ước quốc tế để bảo vệ môi trường.

Trên cơ sở 9 nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững mà xây dựng các hành động thực hiện. Trong “chiến lược cho cuộc sống bền vững” đã nêu ra 132 hành động, trong đó cũng đề ra các hành động ưu tiên.

<b>2.3.3. Phát triển bền vững ở Việt Nam </b>

<i><b>a) Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam trong những năm vừa qua </b></i>

<i>- Thành tựu: </i>

<i>+ Về kinh tế: Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định. </i>

<i>+ Về xã hội: Đầu tư Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng cao, đặc biệt </i>

là xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, phòng chống tệ nạn xã hội.

<i>+ Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường: Nhiều chính sách quan </i>

trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã được xây dựng và thực hiện.

<i>- Tồn tại: </i>

<i>+ Về nhận thức: Quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện rõ rệt và nhất </i>

quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i>+ Về kinh tế: Đầu tư còn ít cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ </i>

môi trường. Sự tăng trưởng phát triển chủ yếu theo chiều rộng, trong khi đó nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt.

<i>+ Về xã hội: Sức ép dân số và việc làm gia tăng, tỷ lệ hộ nghèo cao, chất lượng </i>

nhân lực thấp, khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng tăng nhanh.

<i>+ Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường: Khai thác bừa bãi và </i>

sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ơ nhiễm và suy thối mơi trường.

<i><b>b) Những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc chính và hoạt động ưu tiên để phát triển bền vững ở Việt Nam </b></i>

<i>- Mục tiêu: </i>

Mục tiêu tổng quát trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010: “Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành cơ bản, vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao”.

<i>- Quan điểm phát triển trong Chiến lược trên được khẳng định: </i>

“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.

<i><b>c) Những nguyên tắc chính </b></i>

<i>- Thứ nhất, con người là trung tâm của sự phát triển bền vững. </i>

<i>- Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn phát triển sắp </i>

tới, bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm và năng lượng cho phát triển bền vững.

<i>- Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể </i>

tách rời của quá trình phát triển.

<i>- Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu </i>

của thế hệ tương lai và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.

<i>- Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho CNH – HĐH, phát </i>

triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>- Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của các cấp chính quyền, của các bộ, </i>

ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.

<i>- Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập </i>

kinh tế quốc tế.

<i>- Thứ tám, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường với đảm </i>

bảo quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.

<i><b>d) Những lĩnh vực hoạt động cần ưu tiên </b></i>

<i>- Về lĩnh vực kinh tế: </i>

+ Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.

+ Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường.

+ Thực hiện quá trình “cơng nghiệp hóa sạch” + Phát triển nơng thơn và nông thôn bền vững.

+ Phát triển bền vững và xây dựng cộng đồng địa phương phát triển bền vững.

<i>- Về lĩnh vực xã hội: </i>

+ Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm.

+ Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số và tình trạng thiếu việc làm.

+ Định hướng q trình đơ thị hóa và di dân nhằm phân phối hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương.

+ Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.

+ Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh môi trường.

<i>- Về lĩnh vực tài nguyên, môi trường:</i>

+ Sử dụng hợp lý, bền vững và chống suy thoại tài nguyên đất. + Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên khoáng sản. + Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững moi trường nước. + Bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, ven biển, hải đảo.

+ Bảo vệ và phát triển rừng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

+ Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp. + Quản lý chất rắn và chất thải nguy hại.

+ Bảo tồn đa dạng sinh học.

+ Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đởi khí hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.

<b>TÓM LƯỢC BÀI 2 </b>

<i>Trong nội dung bài 2, chúng ta cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây: </i>

Nhận thức được đúng về môi trường: Môi trường là gì? Các thành phần cơ bản của môi trường bao gồm những gì? Môi trường có vai trò như thế nào đối với con người. Chúng ta hiểu thế nào là phát triển? Phân biệt được giữa tăng trưởng và phát triển. Có những chỉ tiêu nào đánh giá phát triển?

Trên cơ sở nhận thức về môi trường và phát triển, qua phân tích mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, chúng ta có thể kết luận đó là mối quan hệ mâu thuẫn trong thể thống nhất. Con đường duy nhất để giải quyết mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững. Phát triển bền vững được xem là sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại.

<b>CÂU HỎI ƠN TẬP </b>

<b>1. Tại sao nói phát triển là quy luật của con người và của xã hội nói chung. </b>

2. Tại sao nói mối quan hệ giữa môi trường và phát triển là mối quan hệ mâu thuẫn

<b>trong thể thống nhất? Hãy giải thích. </b>

<b>3. Hãy nêu và phân tích các nội dung phát triển bền vững. </b>

<i><b>Chúc Anh/Chị học tập tốt! </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Sau khi nghiên cứu xong bài 3, học viên sẽ nắm được các kiến thức:

<b><small>- </small></b>Các biến đổi môi trường và nguyên nhân gây ra các biến đổi đó

<b><small>- </small></b>Hiện tượng ngoại ứng và ý nghĩa kinh tế

<b><small>- </small></b>Hiện tượng ngoại ứng tối ưu, ô nhiễm tối ưu và các xác định

<b><small>- </small></b>Các giải pháp điều chỉnh nhằm đạt được mức ô nhiễm tối ưu

<b><small>- </small></b>Sự cần thiết phải đo lường các tổn thất môi trường

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

[1] Lê Thạc Cán (2011), Kinh tế môi trường, Viện Đại học Mở Hà Nội, NXB Lao động.

[2] Rkerry Turner, David Pearce & Ian Batemam – Kinh tế môi trường [3] David Begg, Stanley Fisher (2008), Kinh tế học tập I, NXB Giáo dục.

[4] Nghị định 80/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường [5] Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001 – 2010

<b>3.1. CÁC BIẾN ĐỔI MÔI TRƯỜNG </b>

Theo Luật Bảo vệ Mơi trường năm 2005 thì hiện nay chúng ta chia các biến đổi môi trường thành 3 loại:

- Ơ nhiễm mơi trường. - Suy thối mơi trường. - Sự cố mơi trường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>3.1.1. Ơ nhiễm mơi trường </b>

Ơ nhiễm mơi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật (Luật Bảo vệ môi trường – 2005).

<i>Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường: </i>

- Hậu quả của hoạt động tự nhiên: núi lửa, thiên tai, bão lụt,…

- Các hoạt động của con người: khai thác tài nguyên, sản xuất – chế biến, lưu thông – tiêu dung các sản phẩm.

Phân loại ô nhiễm môi trường: ô nhiễm môi trường là hiện tượng xảy ra do nhiều tác nhân ở các thành phần mơi trường, vì vậy, tùy vào mục đích nghiên cứu mà có cách phân loại theo thành phần mơi trường, bao gồm: Ơ nhiễm mơi trường nước, Ơ nhiễm khơng khí, Ơ nhiễm mơi trường đất, Ơ nhiễm tiếng ồn.

<i>- Ơ nhiễm mơi trường nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước gây </i>

ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của con người và sinh vật. Khi sự thay đổi thành phần và tính chất của nước vượt quá một ngưỡng cho phép thì sự ơ nhiễm nước đã ở mức nguy hiểm và gây ra một số bệnh tật ở con người. Ơ nhiễm mơ trường nước bao gồm ô nhiễm môi trường nước mặt (ao hồ, sông suối, kênh rạch,…); ô nhiễm môi trường nguồn nước ngầm (nước dưới đất); ô nhiễm biển.

<i>- Ơ nhiễm khơng khí: là sự có mặt của chất lạ hoặc sự biến đổi quan trọng trong </i>

thành phần khơng khí, làm cho nó khơng sạch, bụi, có mùi khó chịu, làm giảm tầm nhìn,…

Tác nhân gây ra ô nhiễm không khí bao gồm: các loại ô xít như NO<small>x</small>, CO<small>2</small>, CO, SO<small>2</small>, H<small>2</small>S, các khí halogen gồm flo, clo, brôm, Iốt,…; các phần tử lơ lửng như hạt rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật, nitrat, sunfat, phân tử, các bon, muội than, khói,…; các loại hạt bụi nặng như bụi đá, bụi kim loại; các loại khí quang hóa như ơ zơn, NO<small>x</small>, êtylen,…; các khí thải có phóng xạ; nhiệt; tiếng ồn.

- Ơ nhiễm môi trường đất: thông thường HST đất luôn luôn ở trong trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, khi có mặt một số chất và hàm lượng của chúng vượt quá khả năng chịu tải của đất thì HST đất sẽ mất cân bằng và môi trường đất đã bị ô nhiễm. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất chủ yếu phát sinh từ chất thải công nghiệp, giao thông, chất thải sinh hoạt và đặc biệt là việc sử dụng chất phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật, các chất kích thích tăng trưởng.

- Ô nhiễm tiếng ồn: âm thanh trở nên ồn khi nó trở nên mạnh và gây khó chịu, đặc biệt khi nó gây chấn thương sinh lý hoặc tâm thần. Hầu hết tiếng ồn trong môi

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

trường có nguồn gốc nhân sinh như sự hoạt động của các phương tiện giao thông, máy móc trong hoạt động sinh hoạt sản xuất…

<b>3.1.2. Suy thối mơi trường </b>

<i>Khái niệm: suy thối mơi trường là sự làm suy giảm về chất lượng và số lượng của </i>

thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật (Luật Bảo vệ Môi trường 2005).

<i>Nguyên nhân: </i>

- Các hoạt động sản xuất: ví dụ khói bụi của các nhà máy xi măng thải quá nhiều do bộ phận lọc bụi khơng hoạt động gây nên suy thối mơi trường khơng khí. - Bão lụt

<b>3.1.3. Sự cố mơi trường </b>

<i>Khái niệm: Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt </i>

động của con người hoặc biến đổi bất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng. (Luật Bảo vệ Mơi trường 2005).

Ví dụ: nổ lò phản ứng hạt nhân hay do nổ đường ống dẫn khí dầu, khí đốt gây nên

<b>suy thối mơi trường nghiêm trọng. 3.2. HIỆN TƯỢNG NGOẠI ỨNG </b>

<b>3.2.1. Khái niệm và phân loại </b>

<i>Khái niệm: Ngoại ứng là hiện tượng xảy ra bên ngoài của một hoạt động, nhưng </i>

lại do hoạt động đó gây ra.

<i>Ví dụ: Hoạt động của nhà máy xi măng gây ra khói, bụi và các chất thải độc hại </i>

ảnh hưởng đến con người và sinh vật.

<b>Có hai loại ngoại ứng: ngoại ứng tích cực và ngoại ứng tiêu cực. Ngoại ứng tích cực </b>

</div>

×