Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

SOME PARASITIC CRUSTACEANS OF WILD SEED AND POND CULTURED GROUPER IN KHANH HOA PROVINCE, VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 10 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<small> </small>

<b>MỘT SỐ GIÁP XÁC KÝ SINH Ở CÁ MÚ GIỐNG TỰ NHIÊN VÀ CÁ MÚ NI AO KHU VỰC TỈNH KHÁNH HỊA, VIỆT NAM </b>

<small>1</small>Võ Thế Dũng, <sup>3</sup>Glenn A. Bristow, <sup>2</sup>Nguyễn Hữu Dũng, <sup>1</sup>Võ Thị Dung

<i><small>1</small>Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Nha Trang <small>2</small>Trường Đại học Nha Trang </i>

<i><small>3</small>Trường Đại học Bergen, Na Uy </i>

<b><small>Tóm tắt </small></b> <small>176, 137, 33 và 28 là số lượng tương ứng của cá mú giống tự nhiên loài </small>

<i><small>E. coioides và E. bleekeri và của cá mú ni ao lồi E. coioides và E. bleekeri đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Mẫu cá sống được thu </small></i>

<small>gom trực tiếp từ ngư dân trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 </small>

<i><small>năm 2006. Kích cỡ cá giống tự nhiên của E. coioides dao động trong </small></i>

<small>khoảng 50 – 270 mm (trung bình là 124,1 ± 47,6 mm), của cá giống tự </small>

<i><small>nhiên loài E. bleekeri dao động trong khoảng 55-270 mm (trung bình là 139,8 ± 59,2 mm), của cá ni ao lồi E. coioides dao động trong </small></i>

<small>khoảng 85–500 mm (trung bình là 327,9 ± 110,1 mm), của cá ni ao </small>

<i><small>lồi E. bleekeri dao động trong khoảng 110–335 mm (trung bình là </small></i>

<small>227,9 ± 76,7 mm). Kết quả cho thấy cá mú giống tự nhiên và cá mú </small>

<i><small>ni ao bị nhiễm với ít nhất 2 lồi thuộc giống Caligus, 1 loài thuộc giống Gnathia, 1 loài thuộc giống Rhexanella, 1 loài thuộc giống Ergasilus, ấu trùng ở nhớt da và ấu trùng ở mang. Đây là báo cáo đầu </small></i>

<small>tiên ở Việt Nam về một số loài giáp xác ký sinh. Trong tất cả các phép </small>

<i><small>so sánh được thực hiện, chỉ có tỷ lệ nhiễm C. multispinosus của cá E. coioides và E. bleekeri giống tự nhiên khác nhau có ý nghĩa thống kê. </small></i>

<b>SOME PARASITIC CRUSTACEANS OF WILD SEED AND POND CULTURED GROUPER IN KHANH HOA PROVINCE, </b>

<b>VIET NAM </b>

<small>1</small>Vo The Dung, <sup>3</sup>Glenn A. Bristow, <sup>2</sup>Nguyen Huu Dung, <sup>1</sup>Vo Thi Dung

<i><small>1</small>Research Institute for Aquaculture No. 3, 33 Dang Tat St.</i><small>, </small>

<i>Nha Trang city, Vietnam </i>

<i><small>2</small>Nha Trang University, 02 Nguyen Dinh Chieu St., Nhatrang city, Vietnam <small>3</small>Bergen University, Norway </i>

<b><small>Abstract </small></b> <i><small>176, 137, 33 and 28 specimens of wild seed grouper of E. coioides, E. bleekeri, and pond cultured E. coioides and E. bleekeri, respectively, </small></i>

<small>were used in this research. Samples were collected alive from January </small>

<i><small>to December in 2006. Size of wild seed of E. coioides ranged from 280 mm (Mean = 124.1 ± 47.6 mm), that of E. bleekeri ranged from 55-270 mm (Mean = 139.8 ± 59.2 mm). Size of pond cultured E. coioides ranged from 85–500 mm (Mean = 327.9 ± 110.1mm), that of E. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><small>50-bleekeri ranged from 110–335 mm (Mean = 227.9 ± 76.7 mm). Results </small></i>

<small>showed that wild seed and pond cultured groupers were infected with at </small>

<i><small>least 2 species of Caligus, 1 species of Gnathia, 1 species of Rhexanella, 1 species of Ergasilus, 1 type of skin caligus larvae , and 1 </small></i>

<small>type of gill caligus larvae. This is the first report in Viet Nam for some crustacean species identified to the species level. In all comparisons, </small>

<i><small>only prevalence of wild E. coioides and E. bleekeri infected with C. multispinosus was statistically different. </small></i>

<b>I. ĐẶT VẤN ĐỀ </b>

Ở Việt Nam, bệnh cá do ký sinh trùng gây ra đã được chú ý trong giai đoạn 1960 đến 1990 (Đỗ Thị Hòa và cs., 2004). Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây cũng tập trung nhiều vào các loài ký sinh trùng thuộc khu vực nước ngọt. Ký sinh trùng nói chung và giáp xác ký sinh nói riêng ở cá nước lợ - mặn chưa được chú ý nhiều. Trong số những lồi cá nước lợ-mặn được ni ở nước ta, cá mú là nhóm cá được ni phổ biến nhất và cũng là nhóm cá có giá trị thương mại và giá trị dinh dưỡng cao nhất. Thời gian gần đây cá mú nuôi bị bệnh chết khá nhiều, nhưng vẫn chưa có biện pháp phịng trị hữu hiệu. Việc nghiên cứu bệnh còn hết sức lẻ tẻ, bệnh do ký sinh trùng gây ra còn bị xem nhẹ. Gần đây có một số cơng trình nghiên cứu về ký sinh trùng được cơng bố ví dụ Võ Thế Dũng và cs. (2005) về khu hệ ký sinh trùng của cá mú, Võ Thế Dũng và cs. (2007a) về sán đơn chủ ký sinh ở cá mú nuôi ao lồng và nuôi ao, Võ Thế Dũng và cs. (2007b) về sán đơn chủ ký sinh ở cá mú giống tự nhiên. Giáp xác là đối tượng phân bố rất rộng, chúng có mặt khắp nơi trong tất cả các thủy vực từ ngọt đến lợ và mặn. Chúng có thể gây bệnh, làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá nuôi và cá tự nhiên.

Nghiên cứu này tập trung vào thành phần và tỷ lệ cảm nhiễm của các loài giáp xác ký sinh ở cá giống tự nhiên và cá ni ao của 2 lồi cá mú đen

<i>(Epinephelus coioides Hamilton, 1822) và cá mú mè (Epinephelus bleekeri </i>

Vaillant, 1877). Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho cơng tác phịng và trị bệnh do giáp xác gây ra trên cá mú giống khi đưa và nuôi và cá mú nuôi ở Việt Nam.

<b>II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>

Mẫu là cá mú giống tự nhiên và cá ni ao cịn sống được thu từ các khu vực khác nhau tỉnh Khánh Hịa. Mỗi lần thu khơng q 20 mẫu đối với cá tự nhiên và 15 mẫu đối với cá nuôi, không thu cùng lúc cá tự nhiên và cá nuôi. Dùng các thùng xốp khác nhau có đựng nước biển lọc sạch và sục khí liên tục để vận chuyển sống các lồi cá khác nhau, sau đó các lồi cá khác nhau được nhốt

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small> </small>

Những mẫu không kịp nghiên cứu được đem cố định bằng formol 4 %. Mẫu nghiên cứu thuộc 2 lồi cá mú thường gặp nhất tại Khánh Hịa là cá mú đen

<i>(Epinephelus coioides Hamilton, 1822) và cá mú mè (E. bleekeri Vaillant, </i>

1877). Phân loại cá dựa vào sách phân loại cá mú (Heemstra và Randall, 1993). Cá được thu trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2006 đến tháng 12 năm 2006. Số lượng vật và kích thước cá đã phân tích đượpc trình bày trong Bảng 1.

<small>Bảng 1. Số lượng, kích thước (± S.D.) của cá mẫu (trong ngoặc đơn là giá trị nhỏ nhất và lớn nhất) </small>

<i><small>E. coioides E. bleekeri E. coioides E. bleekeri </small></i>

<small>Tổng số mẫu </small>

<small>Chiều dài (mm) </small>

<small>124,1 ± 47,6 (50 – 280) </small>

<small>139,8 ± 39,2 (55 – 270) </small>

<small>327,9 ± 110,1 (85 – 500) </small>

<small>227,9 ± 76,7 (110 – 335) </small>

<small>Khối lượng (gr) </small> <sub>(2,0 – 280,0) </sub><sup>35,5 ± 50,1 </sup> <sub>(1,6 – 250,0) </sub><sup>49,9 ± 60,7 </sup> <sub>(6,0 – 2000,0) </sub><sup>709,2 ± 448,0 </sup> <sub>(14,0 – 650,0) </sub><sup>216,8 ± 208,4 </sup>

Cân khối lượng cá bằng cân đồng hồ có độ chính xác đến 0,1 gam, đo chiều dài cá bằng thước đo có độ chính xác đến 1 mm trước khi đem nghiên cứu ký sinh trùng.

Quan sát kỹ bằng mắt thường để tìm giáp xác ký sinh có kích thước lớn trên cơ thể cá, nếu có thì tách chúng ra để nghiên cứu. Cạo nhớt da cho lên lam kính, thêm một ít nước biển để nhớt khơng bị khơ, đậy lamen lại, quan sát và tìm giáp xác ký sinh dưới kính hiển vi. Cắt rời từng phiến mang, các vây bỏ vào hộp lồng đựng nước biển lọc sạch, đem quan sát dưới kính soi nổi, khi tìm thấy giáp xác thì tách ra đưa lên lam kính, đem quan sát dưới kính hiển vi. Quan sát trong xoang miệng, xoang mang, hóc mũi để tìm giáp xác ký sinh trong đó. Các mẫu giáp xác được đem vẽ, chụp hình và đo các đặc điểm phân loại. Số còn lại đem cố định trong cồn 70 % hoặc formol 4 %.

Tỷ lệ nhiễm được tính và so sánh như sau: %

100(%)= ×

Trong đó: A là tỷ lệ nhiễm (%)

P là số cá có nhiễm giáp xác ký sinh đang được nghiên cứu n là số cá của loài đang được nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel và Epi-info. Khi so sánh sự

<i>khác nhau về tỷ lệ nhiễm giáp xác ký sinh trên 2 loài cá E. coioides và E. </i>

<i>bleekeri hay giữa cá tự nhiên và cá ni ao của cùng một lồi, dùng </i>

“Chi-square test with yates-corrected” nếu số cá thể bị nhiễm loại ký sinh trùng đó lớn hơn hoặc bằng 5, dùng “Fisher exact test two-tails” nếu số cá thể bị nhiễm loại ký sinh trùng đó ít hơn 5. Mức ý nghĩa α = 0,05. Không thực hiện việc so sánh tỷ lệ nhiễm một loại giáp xác ký sinh nào đó nếu một hoặc cả hai nhóm cá khơng nhiễm loại ký sinh trùng đó.

<b>III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU </b>

<b>1. Thành phần và tỷ lệ nhiễm các loài giáp xác </b>

<i>Có 6 lồi và 2 nhóm ấu trùng đã được tìm thấy trên cá E. coioides giống tự nhiên, chỉ có 3 lồi được tìm thấy ở cá E. bleekeri giống tự nhiên. Ở cá E. </i>

<i>coioides nuôi chỉ bắt gặp 3 lồi và 1 nhóm ấu trùng trên nhớt da, cá E. bleekeri </i>

nuôi chỉ bị nhiễm 1 lồi và 1 nhóm ấu trùng ở mang.

<i> Chỉ có lồi C. multispinosus được tìm thấy trên cả 2 loài cá và ở cả trên </i>

cá tự nhiên và cá nuôi ao với tỷ lệ nhiễm tương đối cao (khoảng 25 %) cả trên

<i>cá E. coioides giống tự nhiên và nuôi. Tỷ lệ nhiễm của cá E. bleekeri thấp hơn (0,7 % ở cá giống tự nhiên và 10,3 % ở cá ni). Bắt gặp lồi Caligus </i>

<i>epidemicus ký sinh ở cá tự nhiên các loài E. coioides, E. bleekeri và cá ni </i>

<i>lồi E. coioides với tỷ lệ nhiễm tương đương nhau (Bảng 2). </i>

<i><small>coioides bleekeri </small><sup>E. </sup><small>coioides </small><sup>E. </sup><small>bleekeri </small><sup>E. </sup></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small> </small>

<i> Nhìn chung cá E. coioides có thành phần giáp xác ký sinh phong phú hơn cá E. bleekeri, và tỷ lệ nhiễm của E. coioides cũng thường cao hơn tỷ lệ nhiễm của cá E. bleekeri. </i>

<b>2. So sánh tỷ lệ nhiễm giáp xác </b>

<i>Chỉ có tỷ lệ cảm nhiễm Caligus multispinosus của cá tự nhiên E. coioides và E. </i>

<i>bleekeri khác nhau có ý nghĩa thống kê, cịn tỷ lệ cảm nhiễm các lồi và nhóm </i>

ký sinh trùng khác thì hoặc là khơng so sánh được hoặc là khác nhau khơng có ý nghĩa thống kê (Bảng 3).

<small>Bảng 3. So sánh tỷ lệ nhiễm giáp xác giữa 2 loài cá (- chỉ một loài cá nhiễm loại giáp xác ký sinh này, + cả 2 lồi đều khơng nhiễm loại giáp xác ký sinh này) </small>

<b><small>Tỷ lệ nhiễm Ký sinh trùng </small></b> <i><sub>Cá tự nhiên E. coioides </sub></i>

<i><small>và E. bleekeri </small><sup>Cá nuôi E. coioides </sup><small>và E. bleekeri </small></i>

<i> Chỉ có tỷ lệ nhiễm C. multispinosus của E. bleekeri tự nhiên và E. </i>

<i>bleekeri ni ao khác nhau có ý nghĩa thống kê. Cịn lại thì hoặc là khơng so </i>

sánh được do chỉ 1 nhóm hoặc cả 2 nhóm cá (nuôi ao và tự nhiên) đều không nhiễm cùng một loại giáp xác hoặc có nhiễm nhưng khác nhau khơng có ý nghĩa thống kê (Bảng 4).

<b>IV. THẢO LUẬN </b>

Đã có hơn 1.700 lồi thuộc copepode ký sinh trên cá được biết đến (Möller and

<i>Anders, 1986. Post, 1987), trong đó các lồi thuộc các giống Caligus và </i>

<i>Ergasilus là rất phổ biến. Tuy nhiên do kích thước cơ thể nhỏ, đặc điểm hình </i>

thái có sự biến đổi qua các giai đoạn phát triển, nên việc phân loại chúng gặp

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

nhiều khó khăn. Các tài liệu phân loại copepoda ký sinh hiện có chủ yếu tập trung vào các lồi thuộc khu vực ơn đới, cịn các lồi ở khu vực nhiệt đới vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. Cơng trình này cơng bố sự có mặt và tỷ lệ nhiễm của 4 giống giáp xác trên 2 lòai cá mú ni ở Khánh Hịa.

<small>Bảng 4. So sánh tỷ lệ nhiễm giáp xác giữa cá tự nhiên và cá nuôi ao (- chỉ cá tự nhiên hoặc cá ao nhiễm loại giáp xác ký sinh này, + cả cá tự nhiên và cá ao đều không nhiễm loại giáp xác ký sinh này) </small>

<i><b>1. Giống Caligus (Hình 1, 2) </b></i>

<i>Dung The Vo và cs.. (2008b) lần đầu tiên cơng bố tìm thấy 2 lồi C. </i>

<i>epidemicus Hewitt, 1971 và C. multispinosus Shen, 1957 ở Việt Nam. Võ Thế </i>

<i>Dũng và cộng sự (2005) công bố bắt gặp 2 loài Caligus sp1 và Caligus sp2 trên cá mú Epinephelus spp. ở Khánh Hịa. Nhiều khả năng 2 lồi Caligus sp1. và Caligus sp2. chính là C. epidemicus Hewitt, 1971 và C. multispinosus Shen, </i>

1957, tuy nhiên trong công trình đó các tác giả chưa phân loại được đến loài. Hầu hết các loài thuộc giống này đều sống trong mơi trường nước mặn-lợ, chỉ

<i>có lồi Caligus lacustris Steenstrup and Lütken, 1861 được phát hiện ký sinh ở cá nước ngọt gần vùng Bắc cực Kabata (1992), Bùi Quang Tề và cs. (1999) </i>

công bố đã bắt gặp lồi này ở cá Rơ Phi khu vực tỉnh Quảng Ninh. Năm 1991,

<i>Bùi Quang Tề và cs. công bố bắt gặp Caligus sp. ở cá Rô Phi nước ngọt khu </i>

vực đồng bằng Sông Cửu Long. Nguyễn Hữu Dũng (2001) công bố đã bắt gặp họ Caligidae ở cá mú khu vực Khánh Hòa. Như vậy, ở Việt Nam chưa có nhiều

<i>cơng bố về Caligus ký sinh ở cá nói chung và nước lợ - mặn nói riêng. Loài C. </i>

<i>epidemicus đã được bắt gặp ký sinh trên cá E. coioides ở Philippines (Ho và cs., 2004). Đây là một lồi có khả năng gây bệnh - dịch và gây chết cho cá nuôi </i>

<b><small>Tỷ lệ nhiễm </small></b>

<small>nhiên và nuôi ao </small> <i><sup>Cá E. bleekeri tự </sup><small>nhiên và nuôi ao </small></i>

<i><small>Caligus multispinosus Shen, </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small> </small>

<i><b>2. Giống Ergasilus (Hình 2) </b></i>

Giống ký sinh trùng này thường gặp ở cá, tuy nhiên hiểu biết về chúng cịn rất

<i>ít (Woo và cs., 2002). Khi ký sinh ở cá, chúng có thể làm giảm đáng kể tốc độ sinh trưởng của cá nuôi (Kabata, 1985). Ergasilus đã từng gây chết cá nuôi ở </i>

Philippines (ADB/NACA, 1991). Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ nhiễm bọn này

<i>rất thấp (chỉ khoảng 1,7 %), và cũng chỉ mới bắt gặp trên cá E. coioides tự </i>

nhiên mà không bắt gặp trên các đối tượng khác (Bảng 2). Ở Việt Nam, Võ

<i>Thế Dũng và cs. (2005) lần đầu tiên công bố bắt gặp một loài thuộc giống này ở giống cá mú Epinephelus, tuy nhiên trong cơng trình đó các tác giả đã khơng nói rõ đó là lồi cá mú nào, và bắt gặp Ergasilus sp. ở cá nuôi hay cá tự nhiên. Bùi Quang Tề và cs. (1991) khi nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt đồng bằng Sông Cửu Long đã bắt gặp các loài Ergasilus philippinensis, </i>

<i>Ergasilus thailandensis và Ergasilus sp. Trần Trọng Chơn (1999) khi nghiên </i>

cứu bệnh ký sinh trùng các loài cá nước ngọt ni ở một số tỉnh miền Nam đã

<i>gặp lồi Ergasilus anchoratus. </i>

<i><b>3. Giống Rhexanella (Hình 3) </b></i>

Đây là loài giáp xác chân đều thường ký sinh ở xoang mang, xoang miệng cá biển nuôi và cá tự nhiên. Tuy nhiên, đây là giai đoạn ấu trùng nên việc phân loại đến lồi là hết sức khó khăn. Trong nghiên cứu này chỉ bắt gặp trên cá mú

<i>đen (E. coioides) nuôi ao với tỷ lệ cảm nhiễm 3,1 % (Bảng 2). Koesharyani và </i>

<i>cs. (2001) công bố đã bắt gặp ký sinh trùng này ở cá mú nuôi ở Indonesia. </i>

<i><b>4. Giống Gnathia (Hình 4) </b></i>

Cũng là loài thuộc giáp xác chân đều, bắt gặp bọn này trên da cá mú tự nhiên của cả 2 loài cá nghiên cứu. Đây là báo cáo đầu tiên về giáp xác ký sinh này ở Việt Nam. Cũng giống như Rhexanella (Hình 5), chỉ bắt gặp ấu trùng của loài này nên việc phân loại đến loài gần như là không thể. Bảng 2 cho thấy bắt gặp

<i>loài này ở cá giống tự nhiên của cả E. coioides và E. bleekeri với tỷ lệ nhiễm </i>

tương ứng trên 2 loài cá này chỉ là 1,1 và 2,2 %. Chưa phát hiện được loài này ở cá ni, cũng có thể do tỷ lệ nhiễm thấp mà lượng mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu này chưa đủ lớn để phát hiện ra chúng.

Ấu trùng ở nhớt da và ở mang, đều có tỷ lệ nhiễm khơng cao, có thể do

<i>một số ấu trùng đã được phân loại ra đến loài (C. epidemicus và C. </i>

<i>multispinosus). </i>

<i>Nhìn chung thành phần giáp xác ký sinh trên cá E. coioides phong phú hơn cá E. bleekeri. Võ Thế Dũng và cs. 2007a, 2007b cũng cho kết quả tương </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>tự khi nghiên cứu sán lá đơn chủ ký sinh trên cá mú. Như vậy, có thể nói cá E. </i>

<i>coioides nhạy cảm hơn với các loại ngoại ký sinh này. </i>

<i><small>Hình 1-5. Một số lồi giáp xác ký sinh thường gặp trong cá mú: Hình 1. Lồi Caligus multispinosus; Hình 2. Lồi Caligus epidemicus; Hình 3. Lồi Ergasilus sp.; Hình 4. Lồi Gnathia sp.; và Hình 5. Lồi Rhexanella sp. </small></i>

<b>V. KẾT LUẬN </b>

<i>- Cá mú giống tự nhiên và cá mú ni của 2 lồi E. coioides và E. </i>

<i>bleekeri bị nhiễm nhiều loài giáp xác ký sinh khác nhau. Trong đó, cá </i>

mú đen bị nhiễm nhiều loài hơn cá mú mè, tỷ lệ nhiễm của cá mú đen với các loài giáp xác ký sinh thường cao hơn tỷ lệ nhiễm của cá mú mè.

- Các loài <i>C. epidemicus, C. multispinosus và Gnathia sp. lần đầu tiên </i>

được công bố ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small> </small>

- <i>Chỉ bắt gặp loài C. multispinosus trên cả cá nuôi và cá tự nhiên của cả 2 lồi cá và có tỷ lệ nhiễm cao nhất ở cá tự nhiên và cá nuôi lồi E. </i>

<i>coioides và cá ni lồi E. bleekeri. </i>

- <i>Chỉ tìm thấy sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ cảm nhiễm C. </i>

<i>multispinosus trên cá E. coioides và E. bleekeri tự nhiên. </i>

<b> </b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

ADB/NACA, 1991. Fish health management in Asia-pacific. Report on a regional study and workshop on fish disease and fish health management. ADB Agriculture Department report series No.1, Network of Aquaculture Centres in Asia-pacific, Bangkok.

Arthur, J.R. and T.Q. Bui, 2006. Check list of the parasites of fishes of Viet Nam. FAO fisheries technical paper. Pp. 134.

Bùi Quang Tề, Đặng Thị Lụa, Nguyễn Văn Việt, 1999. Nghiên cứu ký sinh trùng cá rô phi (Oreochromis niloticus) đang cho đẻ ở miền Bắc Việt Nam. Tạp chí sinh học, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, số 21(2b). Trang 153-158.

Bùi Quang Tề, Phạm Thị Yên, Dương Thị Lang, Nguyễn Phúc Trường, 1991. Kết quả nghiên cứu khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt đồng bằng Sơng Cứu Long và các biện pháp phịng trị. Tạp chí Thuỷ sản năm 1991. Trang 314-335.

Đỗ Thị Hòa; Bùi Quang Tề; Nguyễn Hữu Dũng; Nguyễn Thị Muội, 2004. Bệnh học Thuỷ sản. Nhà xuất bản Nông Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh. 423 Trang.

Dung The Vo, D. Murrell, A. Dalsgaard, Glenn A. Bristow, Dung Huu Nguyen, Thanh Ngoc Bui and Dung Thi Vo, 2008a. Prevalence of zoonotic metacercariae in two species of grouper, Epinephelus coioides and Epinephelus bleekeri, and flathead mullet, Mugil cephalus, in Viet Nam. Korean Journal of Parasitology. Vol. 46. No. 2. p 77-82.

Dung The Vo, Glenn A. Bristow, Dung Huu Nguyen, and Dung Thi Vo, 2008b. Parasitism of two species of Caligus (Copepoda: Caligidae) on wild and cultured grouper in Viet Nam. Journal of the Fisheries Society of Taiwan. Vol. 35. No. 1. p 1-9.

Dung The Vo, Glenn A. Bristow, Dung Huu Nguyen, Dung Thi Vo, Thanh Nhon Nguyen Nguyen. 2008c. Digenean trematode parasites of cultured grouper in Khanh Hoa Province, Viet Nam. Presentation at “Diseases in Asian Aquaculture Conference”. Taiwan, 22-26th June, 2008.

Ho, J.S., Kim IHoi, K. Nagasawa, E.R. Cruz-Lacierda, 2004. Sea lice (Copepod, Caligidae) parasitic on marine cultured and wild fishes of the

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Philippines. Journal of the Fisheries Society of Taiwan. Vol. 31. No.4. p 235-249.

Kabata, Z. 1985. Parasites and diseases of fish cultured in the tropics. Taylor & Francis, London and Philadelphia, 318 pp.

Kabata, Z. 1992. Copepods Parasitic on Fishes. In Synopses of the British Fauna (New series) (D.M. Kermack, R.S.K. Barnes and J.H. Crothers ed.). The Linnean Society of London. 264 pp.

Koesharyani, I., D. Roza, K. Mahardika, F. Johnny, Zafran and K. Yuasa, 2001. Manual for Fish disease diagnosis: Marine fish and crustacean diseases in Indonesia. Gondol Research Institute for Coastal Fisheries, Central Research Institute for Fisheries, Agency for Agricultural Research and Development and Japan International Cooperation Agency, 57 pp. Möller, H., and K. Anders, 1986. Diseases and Parasites of Marine Fishes. 365

pp.

Nguyen Huu Dung, 2001. Diseases of cultured grouper in Khanh Hoa Province, Viet Nam. In Report and proceedings of APEC FWG 02/2000 “Development of a Regional Research Programme on Grouper Virus Transmission and Vaccine Development,” Report of a workshop held in Bangkok, Thailand. 18-20 October 2000 (Bondad Reantaso, M.G., J. Humphrey, S. Kanchanakhan & S. Chinabut eds.). Asia Pacific Economic Coopration (APEC), Fish health section of The Asian Fisheries Society (FHS/AFS), Aquatic Animal Health Research Institute (AAHRI), and Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific (NACA), Bangkok, Thailand. P. 7.

Post, G. 1987. Textbook of Fish health. T.F.H. publication, Inc. 288 pp.

Trần Trọng Chơn, 1999. Bệnh ký sinh trùng cá nuôi ở Đồng Nai, Sơng Bé, Bình Dương, An Giang, và Thành Phố Hồ Chí Minh. Tạp Chí Nơng-Lâm Nghiệp. Số 11. Trang 97-100.

Võ Thế Dũng, G. A. Bristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung và Nguyễn Thị Thanh Thùy, 2005. Thành phần ký sinh trùng ở một số loài cá mú thuộc giống Epinephelus ở khu vực Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ biển, phụ trương 4 (T.5)/2005. Trang 247 – 254.

Võ Thế Dũng, G.A. Bristow, Nguyễn Hữu Dũng, Võ Thị Dung, Trần Thị Lý, Nguyễn Nguyễn Thành Nhơn, 2007b. Thành phần và mức độ nhiễm sán lá đơn chủ (Monogenea) ở cá mú giống tự nhiên tỉnh Khánh Hịa. Tạp chí Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đang in.

Võ Thế Dũng, Nguyễn Thị Xuân Thu, Võ Thị Dung, Nguyễn Hữu Dũng, G.A. Bristow, 2007a. Thành phần và tỷ lệ cảm nhiễm sán lá đơn chủ (Monogenea) trên cá mú nuôi lồng và ni ao ở Khánh Hịa. Tạp chí Thủy sản số 6/2007. Trang 29-31.

Woo, P.T.K., D.W. Bruno and L.H.S. Lim. 2002. Diseases and disorderes of finfish in cage culture. CABI publishing. 354 pp.

</div>

×