Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Bài giảng hoạt Động của hệ thống tài chính việt nam bf15 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 48 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BÀI 1 </b>

<b>KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ </b>

<b>MỤC TIÊU BÀI HỌC </b>

Sau khi học xong bài này, người học sẽ:

- Nắm được những vấn đề cơ bản về hệ thống tài chính và thị trường tài chính.

- Nắm được đặc điểm của các định chế trong hệ thống tài chính.

- Nắm được các nhân tố tác động đến sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính và các định chế tài chính.

<b>TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu bắt buộc </b>

- Người học đọc chương 1 – Cuốn Hệ thống tài chính Việt Nam, Viện ĐH Mở Hà Nội, 2015 do TS.Nguyễn Trọng Tài chủ biên.

<b>Tài liệu tham khảo </b>

- Người học đọc các bài báo, tạp chí có liên quan đến chủ đề của bài học này.

<b>NỘI DUNG BÀI HỌC </b>

<b>1.1. Hệ thống tài chính và thị trường tài chính Các khái niệm </b>

Trước hết chúng ta cần tìm hiểu những khái niệm có liên quan đến hệ thống tài chính và thị trường tài chính

<b>Hệ thống tài chính </b>

Hệ thống tài chính bao gồm các cá nhân, các định chế tài chính có thể tác động đến hoặc tham gia vào quá trình giao dịch các tài sản tài chính trên thị trường (gồm các chứng khốn vốn và chứng khốn nợ), thơng qua đó, quyết định đến quá

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận chủ yếu sau đây: (i) Thị trường tài chính; (ii) Các định chế tài chính; (iii) Người tiêu dùng (người phát hành và đầu tư) các tài sản tài chính và hệ thống các cơng cụ tài chính. (Đại từ điển kinh tế thị trường. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách khoa. Hà Nội, 1998).

<i><b>Thị trường tài chính: Một cách tổng quát thì Thị trường tài chính là nơi </b></i>

<i>thực hiện việc phát hành và mua bán các cơng cụ tài chính, qua đó, giúp nguồn vốn trong nền kinh tế được di chuyển từ những nơi tạm thời thừa sang những nơi tạm thời thiếu vốn. Trên cơ sở sự điều tiết bằng và quan hệ cung – cầu thông qua </i>

cơ chế giá cả của vốn, thị trường tài chính cho phép nguồn vốn được di chuyển tới

<b>những nơi được sử dụng hiệu quả nhất. Đặc điểm của thị trường tài chính </b>

Tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của hệ thống tài chính và thị trường tài chính

<b>Về hàng hóa của thị trường: Là các cơng cụ tài chính được thể hiện dưới </b>

hình thức một hợp đồng đại diện quyền hưởng lợi hợp pháp của người sở hữu từ các tổ chức phát hành.

<b>Về giá cả của hàng hóa trên thị trường: Bị chi phối bởi quan hệ cung cầu. </b>

Đến lượt mình, quan hệ cung cầu của từng loại cơng cụ tài chính lại bị quyết định bởi đặc điểm và xu hướng kinh doanh của người phát hành ra các công cụ cũng như bởi các ảnh hưởng vĩ mô khác.

<b>Về các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính </b>

<i><b>Người tiết kiệm: Là chủ thể có nhu cầu về các cơng cụ tài chính hay là </b></i>

người cung cấp nguồn vốn dư thừa tạm thời cho thị trường. Họ có thể là các hộ gia đình, các doanh nghiệp hoặc Ngân sách Nhà nước có nguồn tiền tệ dư thừa tạm thời do đặc điểm tuần hoàn vốn quyết định.

<i><b>Người đầu tư: Là các chủ thể kinh tế có nhu cầu vốn để thực hiện các kế </b></i>

hoạch sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Họ đạt được nguồn vốn cần thiết thông

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

qua việc phát hành các cơng cụ tài chính đa dạng cho thị trường tài chính. Với cách thức đó, họ là người cung hàng hóa cho thị trường tài chính.

<i><b>Người môi giới: Là người cung cấp thông tin thị trường tài chính theo nhu </b></i>

cầu của khách hàng và là trung gian kết nối nhu cầu giữa người tiết kiệm và người đầu tư.

<i><b>Người kinh doanh chứng khoán: Là người kinh doanh cho tài khoản riêng </b></i>

của họ và không được thực hiện lệnh cho khách hàng

môi giới khi họ nhận thực hiện các lệnh của khách hàng mà người môi giới không thực hiện được ngay. Các chuyên gia có thể thực hiện giao dịch cho bản thân họ và qua đó thực hiện chức năng điều tiết thị trường khi các lệnh mua và bán không khớp nhau.

<i><b>Người đầu cơ: Là những người lợi dụng khả năng dự đoán xu hướng biến </b></i>

động của thị trường để kinh doanh kiếm lợi trên cơ sở chấp nhận rủi ro. Xu hướng giao dịch của họ thường ngược với xu hướng của người đầu tư.

<i><b>Người kinh doanh chênh lệch giá: Là những người nắm bắt thông tin </b></i>

chênh lệch giá để kinh doanh kiếm lời. Đây là loại kinh doanh khơng có rủi ro. Hoạt động thường xuyên của những người kinh doanh này làm cho giá các cơng cụ tài chính ln phản ánh đúng mức độ rủi ro của chúng.

<b>Chức năng của thị trường tài chính </b>

Thị trường tài chính có ba chức năng chính - <b>Chức năng dẫn vốn </b>

Thị trường tài chính dẫn vốn từ những người tạm thời thừa sang những người tạm thời thiếu. Qua đó, thị trường tài chính cung cấp liên tục nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, người tiêu dùng để hỗ trợ cho đầu tư và chi tiêu tiêu dùng trong nền kinh tế.

- <b>Chức năng tiết kiệm </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Với chức năng của mình thì thị trường tài chính sẽ kết nối giữa những người tiết kiệm và những người đầu tư. Người tiết kiệm có thể kiếm được thu nhập dưới hình thức tiền lãi, cổ tức, tiền lời của vốn…

- <b>Chức năng thanh khoản </b>

Thị trường tài chính tạo thuận lợi để bán những tài sản tài chính để thu về tiền mặt, do vậy nó làm cho các tài sản tài chính tăng tính “lỏng” của chúng.

<b>Vai trò của thị trường tài chính </b>

Thị trường tài chính trong hệ thống tài chính có các vai trị cơ bản như sau: - <b>Thị trường tài chính góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế </b>

Thị trường tài chính tạo diều kiện huy động các nguồn lực trong xã hội để phục vụ cho việc sáng tạo ra của cải nhiều hơn cho đời sống con người, lôi cuốn các cá nhân trở thành những nhà đầu tư tận dụng các nguồn lực để sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ đời sống.

Thị trường tài chính cũng giúp bù đắp những khoản bội chi ngân sách Nhà nước, giúp Chính phủ có vốn để xây dựng các cơng trình hạ tầng bằng việc vay nợ trên thị trường tài chính thay vì phát hành thêm giấy bạc ngân hàng vào lưu thông và đây là cách để chống lạm phát nhưng vẫn có vốn phục vụ các nhu cầu chi của ngân sách.

- <b>Thị trường tài chính tạo mơi trường thuận lợi để dung hịa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế trên thị trường </b>

Thông qua hoạt động đấu giá tập trung giữa các nguồn cung và nguồn cầu, cơ chế thị trường sẽ hình thành giá cả tốt nhất, có lợi cho cả người bán và người mua, bảo đảm sự công bằng trên thị trường. Các hành vi chụp giật trong trao đổi hầu như không thể tồn tại lâu dài trên thị trường tài chính, các cá nhân hay cộng đồng chỉ có thể tìm thấy sự phát triển tốt nhất cho chính mình trong sự hỗ trợ để các cá nhân hay cộng đồng khác cùng phát triển. Chính vì thế, người ta xem thị

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

trường tài chính là nơi tạo mơi trường thuận lợi để dung hịa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế khác trên thị trường.

- <b>Thị trường tài chính tạo cơng cụ kích thích tính hiệu quả của các doanh nghiệp </b>

Tự bản thân cơ chế giao dịch của thị trường tài chính chọn ra những doanh nghiệp hoặc dự án có triển vọng để tài trợ. Những doanh nghiệp hay dự án có triẻn vọng có thể nhận được thêm vốn với chi phí rẻ hơn. Ngược lại, những doanh nghiệp yếu kém hay dự án thiếu khả thi sẽ khó thu hút vốn hoặc sẽ phải trả chi phí vốn đắt đỏ hơn. Nói tóm lại, các doanh nghiệp hay dự án muốn huy động được vốn và duy trì hoạt động thơng qua thị trường tài chính sẽ phải tính tốn sao cho sản xuất kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả cao.

- <b>Thị trường tài chính tạo thuận lợi cho các giao dịch tài chính </b>

Thị trường tài chính là kênh dẫn vốn từ những chủ thể thặng dư tiết kiệm sang các chủ thể thiếu vốn, thị trường tài chính sẽ là nơi tốt nhất để kết nối các chủ thể này. Với công nghệ thông tin ngày càng hiện đại thì sự kết nối này ngày càng thuận lợi hơn và chi phí vốn ngày càng giảm đi.

<b>Phân loại thị trường tài chính </b>

Sau đây là các cách phân loại thị trường tài chính dựa trên một số các tiêu chí khác nhau

<b>- Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn </b>

<i>1. Thị trường tiền tệ </i>

Là nơi trao đổi mua bán ngắn hạn các cơng cụ tài chính (bao gồm các cơng cụ tài chính ngắn hạn và các cơng cụ tài chính dài hạn nhưng thời hạn còn lại ngắn hoặc được mua bán trong thời gian ngắn.

Nếu nhìn từ góc độ của người đi vay thì thị trường tiền tệ có chức năng bù đắp chênh lệc giữa cung và cầu vốn khả dụng. Đây là thị trường rất quan trọng

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

trong viẹc tài trợ các nhu cầu về vốn lưu động cho các doanh nghiệp cũng như tài trợ thama hụt ngân sách tạm thời của Chính phủ.

<i>2. Thị trường vốn </i>

Là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn và do vậy nó thỏa mãn các nhu cầu về vốn cho các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, Chính phủ và các hộ gia đình.

Thị trường vốn gắn với hoạt động tiết kiệm và đầu tư, là cầu nối chuyển những khoản tiết kiệm của những chủ thể thặng dư sang những chủ thể bị thiếu hụt vốn đầu tư. Chính vai trị cầu nói này đã khẳng định vai trò của thị trường vốn trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào việc nâng cao mức sống của dân chúng.

<b>- Căn cứ theo phương thức luân chuyển vốn </b>

<i>1. Luân chuyển vốn trực tiếp </i>

Vốn được chuyển giao trực tiếp từ người tiết kiệm đến người đầu tư. Hình thức chuyển giao vốn này phần lớn thơng qua vai trị người môi giới. Người tiét kiệm sở hữu các công cụ tài chính do người đi vay phát hành và được hưởng cổ tức cũng như có thẻ sẽ phải chịu rủi ro từ các công cụ tài chính này (nếu là nắm giữ cổ phiếu) còn nếu như người tiết kiệm nắm giữ các trái phiếu thì sẽ được hưởng lãi coupon.

<i>2. Luân chuyển vốn gián tiếp </i>

Vốn được chuyển giao từ người tiết kiệm đến người đầu tư thông qua các trung gian tài chính được thể hiện dưới hình thức các khoản nợ thơng qua hành vi cho vay hoặc các chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, các hợp đồng hưu trí, giữ hộ tài sản có giá, lưu trữ thơng tin tài chính …

Hoạt động của các trung gian tài chính giúp khắc phục những hạn chế của luận chuyển vốn trực tiếp đó là: (i) Phải trả phí cao cho việc thu thập và xử lý thông tin cũng như việc kiểm tra giám sát hoạt động của người vay vốn (bởi chi phí cao nên các nhà đầu tư cá nhân thường bỏ qua giai đoạn thu thập và xử lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thơng tin hoặc nhờ vào kết quả phân tích thị trường của người khác, đièu này khién viẹc đầu tư trở nên kém hấp dẫn vì rủi ro tiềm ẩn cao); (ii) Sự hạn chế về tính lỏng của các tài sản tài chính được nắm giữ: Đơi khi việc nắm giữ các chứng khoán dài hạn do các công ty phát hành không hấp dẫn các nhà đầu tư cá nhân, vì họ mong muốn nắm giữ tiền mặt hoặc các công cụ có tính lỏng cao; (iii) Rủi ro trong quá trình đầu tư cao: chủ yếu là do biến động của giá chứng khoán trên thị trường khi người sở hữu nó thực hiện sự chuyển đổi các chứng khốn sang tiền mặt hoặc các cơng cụ tài chính khác.

- <b>Căn cứ theo phương thức tổ chức thị trường </b>

<i>1. Thị trường sơ cấp </i>

Là thị trường phát hành các công cụ tài chính. Nó được sử dụng bởi các doanh nghiệp, Chính phủ và các hộ gia đình để tăng vốn cho nhu cầu chi tiêu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.

<i>2. Thị trường thứ cấp </i>

Là nơi trao đổi các công cụ tài chính đã được phát hành tại thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp có mức độ giao dịch lớn hơn nhiều so với thị trường sơ cấp, tuy vậy, thị trường này khơng có tác dụng huy động thêm vốn, không hỗ trợ cho việc đầu tư mới như thị trường sơ cấp. Chức năng của thị trường thứ cấp là tăng thêm tính thanh khoản cho các công cụ tài chính đã được phát hành, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn, được ưa chuộng hơn và do đó, dễ phát hành hơn và dễ bán chúng ở thị trường sơ cấp. Với ý nghĩa này thì mức độ tích cực của thị trường tài chính sẽ có ảnh hưởng gián tiếp đến qui mô của thị trường sơ cấp và do đó đến qui mơ vốn đầu tư xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

đơn vị, cá nhân thiếu hụt vốn hoặc thực hiện đầu tư thông qua mua các chứng khoán trên TTCK. Thuộc loại này bao gồm các tổ chức sau đây:

- NHTM. Là tổ chức với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của công chúng dưới hình thức ký thác và sử dụng ký thác đó để cho vay và thực hiện các dịch vụ tài chính khác

- Tổ chức tiết kiệm. Là loại hình tổ chức nhận ký thác, thường được tổ chức dưới hình thức Hiệp hội tiết kiệm và cho vay hoặc NH tiết kiệm. Chúng hoạt động tương tự như NHTM, nhưng tập trung chủ yếu và các KH cá nhân hơn là KH cơng ty

- Hiệp hội tín dụng. Khác với NHTM và tổ chức tiết kiệm, Hiệp hội tín dụng là tổ chức phi lợi nhuận; chúng bị hạn chế hoạt động trong phạm vi thành viên của Hội, sử dụng nguồn vốn huy động từ các Hội viên sau đó chủ yếu cung cấp tín dụng cho các Hội viên trong Hiệp hội.

<i>2. Tổ chức không nhận ký thác (tổ chức tài chính phi NH). Đóng vai trị </i>

quan trọng trong hệ thống tài chính. Chúng khơng huy động vốn dưới hình thức ký thác, mà huy động thông qua các hình thức khác, như: Phát hành tín phiếu, cổ phiếu, trái phiếu. Các tổ chức không nhận ký thác bao gồm các loại hình sau đây:

<i><b>- Cơng ty tài chính (Financial Company). Phần lớn các công ty và tập </b></i>

đoàn kinh tế ở các nước khi đã phát triển hùng hậu thường hình thành cơng ty tài chính. Mục đích của cơng ty tài chính là hỗ trợ cơng ty mẹ hoặc tập đoàn trong việc chi phối các thành viên về nguồn vốn kinh doanh nói riêng và điều hịa tài chính nói chung.

- Cơng ty cho th tài chính. Cơng ty CTTC là một định chế tài chính phi NH có nội dung kinh doanh thường xuyên là CTTC. Nhưng CTTC ở đây không phải cho thuê vốn bằng tiền mà cho thuê vốn dưới hình thức tài sản (máy móc và các động sản). Thông thường thời hạn cho thuê tài sản bằng 60 - 70% thời gian hữu dụng của tài sản, nên về bản chất, CTTC là nghiệp vụ cấp tín dụng trung và dài hạn của cơng ty CTTC đối với doanh nghiệp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Công ty bảo hiểm (Insurance company) rủi ro bất khả kháng là phạm trù gắn liền với quá trình hoạt động kinh tế - xã hội của các pháp nhân, thể nhân. Nhằm hạn chế và khắc phục rủi ro, mô hình cơng ty bảo hiểm ra đời. Hoạt động của cơng ty bảo hiểm trên ngun tắc thu phí bảo hiểm thường xuyên hoặc định kỳ của những người tự nguyện tham gia bảo hiểm và chi trả bảo hiểm đột xuất khi thuộc trách nhiệm phải bảo hiểm của mình. Lúc này cơng ty bảo hiểm chưa đủ gọi là các trung gian tài chính. Dần dà, do huy động được phí bảo hiểm với khối lượng lớn, nhưng tiền đền bù bảo hiểm chỉ ở mức độ, các công ty bảo hiểm đã tìm cách sinh lợi số tiền dư thừa này bằng cách cho vay, đầu tư vào chứng khoán. Như vậy, với cách này, công ty bảo hiểm đã trở thành một định chế tài chính phi NH.

- Quỹ đầu tư (Investment Fund). Đây là một định chế tài chính với hoạt động chủ yếu là nhận tiền của các nhà đầu tư nhỏ và thay mặt họ đem tiền đó đi đầu tư. Các nhà đầu tư nhỏ không chỉ là dân chúng, mà bất kỳ doanh nghiệp và tổ chức nào khác. Do đặc điểm góp vốn như vậy nên quỹ đầu tư được coi như công ty đầu tư cổ phần. Sau khi phát hành cổ phần bán cho cổ đơng để hình thành vốn hoạt động, quỹ đầu tư tiến hành dùng vốn của mình để đầu tư dài hạn thơng qua mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh và đầu tư vào các chứng khoán khác với mục đích lợi nhuận. Nhưng cổ đơng của quỹ đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phiếu, trái phiếu mua bán hàng ngày mà họ hưởng phần lợi tức chia sẻ do một quá trình đầu tư, mua bán chứng khoán của quỹ đầu tư đưa lại.

- Quỹ tiết kiệm và cho vay. Quỹ tiết kiệm và cho vay được tổ chức dưới dạng Hiệp hội hoặc Hội. Nguồn vốn cho vay của quỹ chủ yếu là lượng tiền gửi của thành viên và một phần vay từ chính quyền địa phương và các tổ chức khác.

- Quỹ tín dụng (Credit Fund). Là loại hình sở hữu tập thể, các thành viên của quỹ tham gia góp vốn dưới hình thức cổ phần. Khi cần vốn họ được vay từ quỹ.

<b>1.3. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính và các định chế tài chính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Các nhân tố tác động đến sự phát triển của hệ thống thị trường tài chính tương đối đa dạng. Trong đó có thể được tổng hợp thành một số các nhân tố chủ yếu sau đây:

<i><b>Thứ nhất, môi trường kinh tế - xã hội </b></i>

Sự ra đời và hoạt động của chúng là nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như mức độ phát triển của nền kinh tế càng cao, dẫn tới sự đa dạng và gia tăng các nhu cầu về vốn trong nền kinh tế, khi đó địi hỏi các định chế tài chính phải có sự phát triển phù hợp thì mới có thể đáp ứng được những nhu cầu về các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế.

<i><b>Thứ hai, mức độ phát triển của hạ tầng cơ sở tài chính. </b></i>

Trong kinh doanh, hạ tầng cơ sở luôn là yếu tố chi phối hoạt động của các định chế trên thị trường. Với các định chế tài chinh thì địi hỏi về hạ tầng cơ sở tài chính càng cao do chúng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, một lĩnh vực có độ nhạy cảm cao và rủi ro tiềm ẩn lớn.

<i><b>Thứ ba, môi trường pháp lý </b></i>

Mơi trường pháp lý là nhân tố có tính quyết định trong kinh doanh của các định chế tài chính. Sở dĩ như vậy là bởi hoạt động kinh doanh của các định chế tài chính trên thị trường tài chính gắn liền với sự vận động của vốn tiền tệ, một loại hàng hóa có tính xã hội hóa và độ nhạy cảm rất cao. Có nghĩa là, hoạt động của các tổ chức này luôn phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao, và để phịng vệ rủi ro, thì môi trường pháp luật luôn phải được đề cao.

<i><b>Thứ tư, năng lực của các định chế tài chính </b></i>

Do hoạt động của các định chế tài chính liên quan đến loại hàng hóa đặc biệt có độ nhạy cảm cao là tiền tệ, hơn nữa, đối tượng KH của các tổ chức này rất đa dạng, từ các tổ chức đến dân cư, lại phân bố trên phạm vi mọi vùng miền, nên để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các định chế tài chính địi hỏi phải có năng lực tài chính lớn (nhất là các TCTD), mà cũng chỉ trên cơ sở một năng lực tài chính hùng hậu thì mới tạo niềm tin cho các khách hàng trong nền kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i><b>Thứ năm, chất lượng nguồn nhân lực </b></i>

Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu tố sống còn trong kinh doanh, đối với hoạt động kinh doanh của các định chế tài chính thì đây lại càng là nhân tố quan trọng. Như ta đã biết thì hoạt động của các định chế tài chính trong lĩnh vực đầy nhạy cảm, mức độ rủi ro tiềm ẩn rất cao. Để hạn chế rủi ro thì bên cạnh việc hồn thiện mơi trường pháp luật và qui trình hoạt động, thì các định chế này ln phải chú ý nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là yéu tố có tính quyết định nhằm bảo đảm an tồn hoạt động. Chất lượng nguồn nhân lực khơng chỉ thẻ hiện ở trình độ chun mơn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên, mà còn ở tư cách đạo đức, sự tận tâm với nghề.

<i><b>Thứ sáu, năng lực quản trị điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý. </b></i>

Do kinh doanh với các đối tượng KH đa dạng, với lĩnh vực và địa bàn kinh doanh lớn, nên đòi hỏi các định chế tài chính phải chú ý mở rộng phạm vi hoạt động cũng như lĩnh vực dịch vụ cung ứng. Nhưng cùng với việc mở rộng địa bàn kinh doanh và lĩnh vực cung ứng dịch vụ đòi hỏi các định chế này phải tăng cường năng lực quản trị điều hành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Sau khi học xong, người học sẽ:

chính Việt Nam.

tài chính Việt Nam.

<b>TÀI LIỆU HỌC TẬP Tài liệu bắt buộc </b>

- Người học đọc chương 2 – Cuốn Hệ thống tài chính Việt Nam, Viện ĐH Mở Hà Nội, 2015 do TS.Nguyễn Trọng Tài chủ biên.

<b>Tài liệu tham khảo </b>

- Người học đọc các bài báo, cơng trình nghiên cứu về hệ thống tài chính.

<b>NỘI DUNG BÀI HỌC </b>

<b>2.1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính Việt Nam </b>

Cương lĩnh phát triển kinh tế- xã hội của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong chính sách và thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam thơng qua chủ trương giải phóng năng lực sản xuất của xã hội và từng bước tạo lập nền tảng cho một nền kinh tế thị trường.

Thời điểm đánh dấu bước chuyển đổi theo xu hướng thị trường của hệ thống tài chính Việt Nam (mà hệ thống Ngân hàng giữa vai trò trung tâm) bắt đầu từ sự ra đời của

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Nghị định 53- HĐBT năm 1988 và sau đó là hai Pháp lệnh về ngân hàng năm 1990. Nền tảng pháp lý mới và mơi trường chính sách thuận lợi đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian này. Yêu cầu vốn cho phát triển kinh tế thời kỳ mới là động lực cho sự phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam về quy mơ, cơ cấu, các loại hình trung gian tài chính, sản phẩm tài chính cũng như phương thức giao dịch. Mức độ rủi ro và do đó yêu cầu giám sát ngày càng trở nên phức tạp. Căn cứ vào đó, sự phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam có thể được chia thành các giai đoạn sau:

<b>Giai đoạn Đặc điểm </b>

1990-2000 Chính sách đổi mới, mở cửa kinh tế của Việt Nam nhằm phát huy tốt

<b>nhất các nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Đặc điểm: </b>

+ Ng̀n vốn ngân hàng giữ vai trị chủ đạo trong thị trường tài chính nội địa.

+ Ng̀n vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) đóng vai trò quyết định tới tăng trưởng kinh tế.

+ Về cơ chế hình thành giá trên thị trường tài chính đã được tự do hơn

+ Về mức độ cạnh tranh trên các thị trường: tỷ lệ tập trung cao với vai trò chi phối của các NHTM Nhà nước

+ Mức độ liên kết giữa các lĩnh vực chứng khốn, ngân hàng, bảo hiểm cịn hạn chế nên rủi ro hệ thống chưa là mối đe dọa đối với hệ thống tài chính

2001-2007 Chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế mở, đánh dấu bằng các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các cam kết quốc tế về mở cửa nền kinh tế kèm theo lộ trình mở cửa thị trường tài

<b>chính và tự do hóa giao dịch vốn. Đặc điểm: </b>

+ Về quy mô, cơ cấu của TTTC: đã có đủ các bộ phận cấu thành thị trường cho các giao dịch vốn ngắn, trung và dài hạn, thị trường sơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>Giai đoạn Đặc điểm </b>

cấp và thị trường thứ cấp, tạo cơ chế đảm bảo tính thanh khoản và cơ chế tạo lập giá thị trường cho các cơng cụ tài chính.

+ Về chủ thể tham gia TTTC: thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia thị trường

+ Cơ chế hình thành giá trên TTTC: về cơ bản được thiết lập theo nguyên tắc thị trường nhưng vẫn chịu sự chi phối của cơ quan quản lý nhà nước

+ Về mức độ cạnh tranh: cao hơn giai đoạn trước do có sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính, nhà đầu tư nước ngoài

+ Về rủi ro trên các TTTC: cao hơn giai đoạn trước khi ranh giới giữa các dịch vụ tài chính bắt đầu bị xóa nhòa.

2008-nay TTTC Việt Nam biến động mạnh và bộc lộ rõ rệt những điểm yếu của thị trường cũng như các chính sách điều tiết và giám sát an toàn hệ thống bởi những ảnh hưởng toàn diện của khủng hoảng toàn cầu. Các cơ quan giám sát chuyên ngành được củng cố nhằm nâng cao vị thế và hiệu lực giám sát thông qua việc thay đổi mơ hình tổ chức (theo hướng thống nhất quyền lưc giám sát), hệ thống chỉ tiêu giám

<b>sát, tiêu chuẩn và thông tệ quốc tế. Đặc điểm: </b>

+ Cơ chế hình thành giá trên TTTC lúc này chịu ảnh hưởng nhiều bởi quyết định của cơ quan quản lý.

+ Chủ thể tham gia TTTC: giảm đi do hoạt động mua bán sáp nhập diễn ra nhiều hơn.

+ Mức độ rủi ro: các thừa nhận về thiệt hại tài chính xuất hiện nhưng mức độ rủi ro đã được kiểm soát.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>2.2. Thực trạng phát triển của các bộ phận của thị trường tài chính Việt Nam </b>

Các bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính Việt Nam bao gồm: thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối, thị trường các cơng cụ tài chính phái sinh, thị trường bảo hiểm. Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu về sự phát triển của từng loại thị trường này.

<b>Thị trường tiền tệ </b>

Thị trường tiền tệ là nơi mua và bán các giấy tờ có giá ngắn hạn (dưới một năm). Thơng qua đó, thị trường tiền tệ thực hiện chức năng hỗ trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, tài trợ ngắn hạn cho ngân sách nhà nước, đảm bảo thanh khoản cho các TCTD và là nơi để NHNNVN thực thi chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ bao gồm: thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm 1993), thị trường ngoại hối giữa các ngân hàng - ngoại tệ liên ngân hàng (chính thức đi vào hoạt động từ tháng l0/1994), thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc (bắt đầu vận hành từ năm 1995), nghiệp vụ thị trường mở (chính thức vận hành từ tháng 7/2000).

<b>Nhìn chung, thị trường tiền tệ đã có tương đối đầy đủ các thị trường cấu thành và các loại hàng hóa cơ bản trên thị trường. Hoạt động của nhiều thị trường ngày càng trở nên linh hoạt và tự do hơn với số lượng ngày càng tăng các thành viên tham gia. Hiệu quả điều hành CSTT của NHNN được tăng cường mặc dù vẫn có một số biện pháp hành chính được áp dụng trong các chính sách. </b>

<b>Khn khổ chính sách tiền tệ và các cơng cụ chính sách tiền tệ ngày càng trở nên rõ ràng và từng bước hoàn thiện, phù hợp với điều kiện cụ thể của thị trường. Việc điều hành chính sách tiền tệ đã được NHNN chuyển dần từ sử dụng các công cụ chính sách trực tiếp (như lãi suất và tỷ giá) sang các công cụ gián tiếp (như nghiệp vụ thị trường mở (năm 2000), tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc) một cách tương đối linh hoạt theo tín hiệu thị trường. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>Sự cải thiện từng bước của khung pháp lý thị trường tiền tệ tạo điều kiện nền tảng để hoạt động điều hành CSTT của NHNN ngày càng mang tính thị trường và dần tương thích với các chuẩn mực và thơng lệ quốc tế. </b>

<b>Thị trường chứng khốn </b>

<i><b>Qui mơ và tính thanh khoản của thị trường </b></i>

<b>Sau 10 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng công ty niêm yết, cơng ty chứng khốn, cơng ty quản lý quỹ và nhà đầu tư. Quy mơ, tính thanh khoản của thị trường được mở rộng. </b>

Thông qua thị trường chứng khốn, huy động l̀ng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Riêng 3 năm qua, tổng khối lượng huy động vốn qua TTCK phục vụ cho đầu tư phát triển là gần 200.000 tỷ đồng, luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tăng gần 2 lần từ mức 4,5 tỷ USD trong năm 2007 lên gần 9 tỷ USD trong năm 2009.

<i><b>Chủ thể tham gia thị trường </b></i>

<i><b>Các công ty niêm yết. Trong giai đoạn đầu phát triển của TTCK Việt Nam, nguồn </b></i>

<b>cung cổ phiếu là một vấn đề rất khó giải quyết vì khơng nhiều cơng ty có đủ điều kiện và sẵn sàng niêm yết. Năm 2006, TTCK Việt Nam chuyển sang một thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng về quy mơ: Trong 12 tháng của năm 2006, có tới trên 100 cơng ty tham gia niêm yết trên 2 sàn HOSE và HNX. Năm 2007, làn sóng lên sàn của các CTCP đã thay đổi về chất với mục tiêu chính: lên sàn để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh. Năm 2008, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết không tránh khỏi những tác động tiêu cực. Hầu hết các công ty niêm yết đều phải thực hiện điều chỉnh giảm kế hoạch kinh doanh. Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết giảm sút nghiêm trọng hoặc bị lỗ với nhiều mức độ. Năm 2009, lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp niêm yết có mức tăng trưởng ấn tượng. Hầu hết các công ty công bố kết quả kinh doanh rất khả quan trong 9 tháng đầu năm 2009. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i><b>Các nhà đầu tư. Qua thời gian phát triển, các nhà đầu tư hiểu biết hơn về chứng </b></i>

<b>khoán và thị trường chứng khoán; các thành viên thị trường hoạt động có chất lượng hơn, chuyên nghiệp hơn; các doanh nghiệp có sự am hiểu về lợi ích của việc niêm yết trên TTCK và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Số lượng tài khoản của các nhà đầu tư đã có sự tăng trưởng nhanh chóng, kể cả tài khoản của các nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài. Sau 10 năm, nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam đã tích lũy nhiều kinh nghiệm và trở nên chuyên nghiệp hơn cùng với số các nhà đầu tư có tổ chức và cá nhân nhà đầu tư nước ngoài tăng lên. </b>

<b>Tuy vậy, vấn đề giám sát tài chính trong lĩnh vực chứng khốn cịn nhiều hạn chế như các quy định hiện hành về an tồn tài chính chưa đáp ứng hết yêu cầu, chưa đánh giá hết những rủi ro gắn với thực tiễn hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường và rủi ro hệ thống luôn tiềm ẩn chưa được phát hiện;... </b>

<b>Thị trường ngoại hối </b>

<b>Năm 1991 đánh dấu sự ra đời của thị trường ngoại hối có tổ chức tại Việt Nam với việc quyết định thành lập hai Trung tâm Giao dịch ngoại tệ tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội theo Quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16/8/1991 của NHNN. Sự ra đời và hoạt động của hai Trung tâm Giao dịch ngoại tệ đã tạo điều kiện để tỷ giá chính thức được xác định có căn cứ kinh tế hơn. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, hai Trung tâm đã bộc lộ một số yếu kém và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Trước bối cảnh đó, ngày 20/10/1994, NHNN đã quyết định thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (Quyết định số 203/QĐ-NH) thay thế cho hai Trung tâm Giao dịch ngoại tệ. </b>

<b>Bên cạnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hoạt động mua, bán ngoại tệ giữa các TCTD và khách hàng diễn ra khá sôi động. Tỷ giá mua, bán giữa các TCTD với khách hàng được dựa trên tỷ giá chính thức do NHNNVN cơng bố. NHNNVN cịn ban hành hàng loạt các quy định về quản lý ngoại hối. Tỷ lệ kết hối đã được giảm từ 80% năm 1998 xuống còn 30% năm 2001 và 0% năm 2003. Với các quy định này, hoạt động của </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>thị trường ngoại hối giữa TCTD và khách hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã có liên hệ chặt chẽ hơn. </b>

<b>Thị trường các công cụ tài chính phái sinh </b>

<b>Thời điểm đánh dấu sự hình thành của thị trường này là năm 1998 với Quy chế giao dịch hối đoái do NHNN ban hành. Kể từ đó, thị trường tiếp tục được phát triển với các sản phẩm tài chính phái sinh mới cùng với sự tham gia nhiều hơn của các nhà cung cấp. Trong 3 năm gần đây, thị trường này đã thêm nhiều sản phẩm mới với tính chất phức tạp hơn nhiều và chủ yếu được các NHTM nước ngoài cung cấp trên thị trường Việt Nam. Ví dụ điển hình là các sản phẩm như Giao dịch kỳ hạn (xuất hiện với tư cách là cơng cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999); Giao dịch hoán đổi (ra đời theo Quyết định số 430/QĐ-NHNN ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001) của thống đốc NHNN. </b>

<b>Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ xuất hiện ở Việt Nam và được các NHTM sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. </b>

<i><b>Theo Quyết định số 1133/QĐ-NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao </b></i>

<i><b>dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, </b></i>

<b>các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các NHTM với doanh nghiệp vay vốn tại NHTM; giữa NHTM với những doanh nghiệp vay vốn tại các TCTD khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NHTM trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các TCTD nước ngoài. </b>

<b>Trong khoảng gần ba năm trở lại đây, trên thị trường trái phiếu Việt Nam xuất hiện trái phiếu chuyển đổi và hiện nay đang được các doanh nghiệp lựa chọn phát hành thay vì phát hành cổ phiếu. Các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi hầu như chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>Đánh giá chung về thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam đó là thị trường cịn sơ khai, quy mơ giao dịch cịn nhỏ, các sản phẩm còn đơn điệu và chủ thể tham gia thị trường vẫn còn hạn chế. Những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị trường cần được hoàn thiện tại Việt Nam. Mặc dù vậy, rủi ro của thị trường đã phát sinh, các yêu cầu giám sát và quản lý một cách có hệ thống đối với thị trường này là vấn đề cần được xem xét và giải quyết sớm. </b>

Thị trường bảo hiểm

<b>Sự ra đời Nghị định 100/NĐ-CP vào ngày 18/12/1993 của Chính phủ về Kinh doanh bảo hiểm đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình hình thành và phát triển TTBH ở nước ta. Theo đó, sự độc quyền của Nhà nước về bảo hiểm được chấm dứt cùng với ra đời của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. </b>

<i><b>Quy mô thị trường </b></i>

<b>Thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng cao so với tốc độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu bảo hiểm tăng từ 3.056 tỷ đồng năm 2001 lên 25.256 tỷ đồng năm 2009, với tốc độ tăng bình quân trên 27%/năm. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trên GDP từ 0,99% lên 1,95%/GDP năm 2009. Năm 2009, tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 25.510 tỷ đồng, trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ 13.661 tỷ đồng (tăng 24,78% so với năm 2008), doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 11.849 tỷ đồng (tăng 15% so với năm 2008), doanh thu hoạt động đầu tư đạt 6.506 tỷ đồng. </b>

<i><b>Sản phẩm bảo hiểm </b></i>

<b>Sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu xã hội. Hơn nữa, chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao. Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có trên 800 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ thuộc cả 3 lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, được cung cấp trên thị trường, đáp ứng nhu cầu phong phú của người tham gia bảo hiểm. Cơ cấu sản phẩm bảo hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn, kết hợp giữa bảo hiểm với tiết kiệm và đầu tư. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>Sự gia tăng về số lượng và quy mô của các công ty bảo hiểm từ khi có Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có tác động tích cực lên sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung, điều đó thể hiện qua việc: đầu tư trở lại nền kinh tế trở thành kênh huy động vốn đáng kể; đóng góp vào ổn định nền kinh tế- xã hội và đời sống người dân; nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo hiểm; thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước trong khuôn khổ hợp tác đa phương. </b>

Tuy vậy, thị trường bảo hiểm chứa đựng những bất cập liên quan định giá bảo hiểm, vấn đề sử dụng nguồn vốn huy động từ phí bảo hiểm, cơng cụ và phương thức cạnh tranh cũng như chất lượng và tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm. Bên cạnh đó, hệ thống giám sát an toàn hoạt động kinh doanh bảo hiểm cịn sơ sài và chưa theo thơng lệ quốc tế.

<b>2.3. Quá trình phát triển và thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính Việt Nam </b>

Hệ thống trung gian tài chính Việt Nam bao gồm: các TCTD, các tổ chức kinh doanh chứng khốn, các cơng ty bảo hiểm.

<b>Các Tổ chức tín dụng </b>

Tham gia các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính tại Việt Nam trước hết phải kể đến hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu với hai loại hình chính là các TCTD ngân hàng và TCTD phi ngân hàng.

<b>Các NHTM Nhà nước nắm giữ thị phần chủ yếu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, cung cấp 51% dư nợ tín dụng tồn hệ thống tính tới cuối năm 2009. Năm 2000, ước tính tỷ lệ tín dụng cho nền kinh tế đạt khoảng 40% GDP; đến đầu năm 2010 con số này đạt trên dưới 100% GDP. Mười năm gần đây, tăng trưởng tín dụng lại tăng khá mạnh, đạt mức trung bình trên 30%; cá biệt năm 2007 tăng trưởng tín dụng lên tới trên 50%. Trong đó, dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu (56,82% tổng dư nợ năm 2009, tăng 36,88% so với cuối năm 2008). Dư nợ tín dụng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<b>bằng ngoại tệ đạt 310.580,85 tỷ đồng, chiếm 16,31% tổng dư nợ và chiếm 78,82% vốn huy động bằng ngoại tệ, tăng 21,78% so với cuối năm 2008. </b>

Khả năng sinh lời là điều kiện để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các TCTD. Mặc dù những năm gần đây hoạt động của các tổ chức kinh tế Việt Nam có nhiều khó khăn gay gắt do sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, nhưng nhìn chung hoạt động của các TCTD vẫn đảm bảo mức sinh lời khá. Khả năng sinh lời được thể hiện qua các chỉ số ROE và ROA.

Thu nhập của các TCTD Việt Nam phần lớn là thu nhập từ lãi. Cơ cấu thu nhập như vậy vốn rủi ro, không đảm bảo sự phát triển bền vững cho các TCTD, do tín dụng là loại hình dịch vụ tiềm ẩn rủi ro cao, hơn nữa, nó phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh tế, khi nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh, các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhiều để kinh doanh sản xuất, tín dụng được mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy giảm, tiêu dùng, sản xuất trì trệ, tín dụng sẽ thu hẹp,

<b>làm sụt giảm đáng kể nguồn thu của TCTD. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán </b>

Các tổ chức kinh doanh chứng khoán bao gồm: các công ty chứng khốn; các NHTM có hoạt động liên quan tới kinh doanh chứng khốn; các cơng ty quản lý quỹ.

<i><b>Thứ nhất, các cơng ty chứng khốn </b></i>

<b>Nếu giai đoạn 2006-2007 được xem là thời kì bùng nổ mạnh mẽ của TTCK nói chung và CTCK nói riêng với sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng, quy mơ và loại hình nghiệp vụ của các CTCK thì từ giai đoạn cuối 2007 đến nay: TTCK có nhiều sự thay đổi, các CTCK chịu ảnh hưởng lớn do sự biến động của thị trường tài chính thế giới và trong nước. </b>

<b>Kết quả kinh doanh của một số CTCK đã niêm yết trên 2 sàn giao dịch chứng khoán HOSE và HNX cho thấy: (i) Tỷ lệ lợi nhuận gộp/doanh thu trung bình đạt rất cao 66.1%; (ii) Lợi nhuận ròng/doanh thu đạt 45,88%. Đây cũng là một tỷ lệ khá </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<b>dụng địn bẩy tài chính q lớn, hầu hết các CTCK đều tập trung vào đầu tư ngắn hạn, liên quan đến các hoạt động tự doanh; (iv) Hệ số EPS đạt mức độ vừa phải, nhưng nếu so với nhóm ngành bất động sản thì tỷ lệ này là khá thấp. </b>

Nhìn chung, các CTCK đều có các khoản đầu tư dài hạn ít hơn so với nguồn vốn dài hạn (vốn vay dài hạn và vốn chủ sở hữu), điều này cho thấy các cơng ty sử dụng vốn khá an tồn.

<i><b>Thứ hai, các NHTM có hoạt động kinh doanh chứng khốn </b></i>

<b>Trên thị trường sơ cấp các NHTM cung cấp các hoạt động cơ bản như: hoạt động phát hành; hoạt động đầu tư; phân phối, bảo lãnh phát hành. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi </b>

<i><b>tham gia bảo lãnh phát hành. </b></i>

<b>Trên thị trường thứ cấp, các NHTM tham gia với tư cách tổ chức cung cấp dịch vụ thơng qua các CTCK của mình. Tại Việt Nam, việc tham gia </b>

<b>TTCK của các định chế tài chính trung gian hiện nay cịn rất khiêm tốn, trong khi đây là những định chế gần gũi và có khả năng tiếp cận với các hoạt động chứng khoán một cách rất hiệu quả. Hiện Việt Nam có khoảng vài chục NHTM và các định chế trung gian phi NHTM khác có khả năng thành lập CTCK theo kiểu công ty con trực thuộc làm nhiệm vụ kinh doanh chứng khốn và mơi giới chứng khốn. Ngồi vai trị bảo lãnh phát hành trên thị trường sơ cấp, các CTCK của NHTM còn tham gia vào cả thị trường thứ cấp thông qua các hoạt </b>

<i><b>động tự doanh và cung cấp các dịch vụ môi giới cổ phiếu và trái phiếu. </b></i>

<b>Ngoài việc lập ra CTCK của riêng mình nhằm tham gia trên thị trường thứ cấp, các NHTM cũng có thể thực hiện trực tiếp các nghiệp vụ như kinh doanh trái phiếu; sản phẩm phái sinh (ví dụ: hốn ddoorim kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai </b>

<i><b>đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường); cho vay chứng khoán; cho vay cầm </b></i>

<b>cố chứng khoán; cho vay kinh doanh chứng khoán thế chấp bằng chính chứng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b>khốn; cho vay chứng khoán ngày T (tức là sản phẩm cho vay hỗ trợ nguồn vốn bằng việc ứng trước tiền bán chứng khoán trong thời gian KH chờ nhận tiền bán cổ phiếu tại CTCK của NHTM). </b>

<i><b>Thứ ba, các công ty quản lý quỹ </b></i>

<b>Các quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1990. Trong nửa đầu những năm 1990, có 8 Quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với tổng lượng vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Những khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư cùng ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đơng Nam Á năm 1997 đã khiến nhiều quỹ rút lui. </b>

<b>Trong giai đoạn 2002- 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư khá trầm lắng. Tuy nhiên, giai đoạn 2006- 2007, đã xuất hiện khoảng 20 quỹ đầu tư mới được mở ra tại Việt Nam. Đồng thời, UBCKNN cũng đã cấp giấy phép hoạt động cho 17 công ty quản lý quỹ mới. </b>

<b>Số lượng các công ty quản lý quỹ tiếp tục gia tăng với con số 22 kể từ đầu năm 2008 đến nay. Tuy nhiên, số lượng các quỹ mới được hình thành lại rất ít do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới và sự khó khăn trong huy động vốn ở thị trường trong nước. </b>

Nhìn chung có thể thấy rằng NAV của các quỹ đều thể hiện mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lời. Những quỹ có khả năng đạt mức tăng NAV cao trong điều kiện thị trường tăng điểm lại có xu hướng giảm mạnh khi thị trường giảm điểm. Ngược lại, những quỹ đầu tư thận trọng trong điều kiện thị trường xấu thì hầu như khơng được hưởng lợi khi TTCK bùng nổ trở lại.

<b>Các công ty bảo hiểm </b>

<b>Phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định theo Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam. Vẫn có doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có số vốn chủ sở hữu nhỏ hơn cả vốn điều lệ. </b>

<b>Từ năm 2005 đến nay, TTBH Việt Nam được đánh giá là có bước phát triển nhanh </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<b>trong nước và 4 doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, 4 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. </b>

<b>Về sản phẩm: Đến nay, đã có gần 800 sản phẩm, bao gồm cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ (thuộc cả 3 lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự) được cung cấp trên thị trường, đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng bảo hiểm. Các dịch vụ mà môi giới bảo hiểm đưa ra thị trường cũng ngày càng đa dạng. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú ý tới nâng cao chất lượng sản phẩm như mở rộng phạm vi hoặc quyền lợi bảo hiểm của khách hàng, quan tâm tới việc đổi mới phương thức phục vụ, chăm sóc khách hàng, phát triển hệ thống công nghệ thông tin phục vụ hoạt động kinh doanh, chuẩn hóa các quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Các dịch vụ bổ sung như hỗ trợ, cứu trợ tai nạn… cũng đã bước đầu phát triển. </b>

<i><b>Về tình hình nhượng tái bảo hiểm ra nước ngoài: Từ năm 1993 trở về trước, Bảo Việt </b></i>

<b>phải chuyển tồn bộ phí tái bảo hiểm cho các Công ty tái bảo hiểm nước ngồi (đối với các dịch vụ có tái bảo hiểm). Từ năm 1995, sau khi Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE) ra đời, mức phí bảo hiểm giữ lại đầu tư trở lại nền kinh tế qua VINARE có tăng lên, song do hạn chế về vốn nên mức giữ lại của nghiệp vụ có tái bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trong những năm qua cịn rất thấp. </b>

Phí nhượng tái bảo hiểm trong thời gian vừa qua đối với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ là rất cao. Trong số 5 nghiệp vụ của các công ty bảo hiểm lấy số liệu, thấp nhất là bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu, tỷ lệ nhượng ra nước ngoài cũng đã là 44%; bảo hiểm hàng khơng năm 2008 phần phí chuyển nhượng ra nước ngoài lên tới 90%. Với thực trạng trên, hàng năm TTBH phi nhân thọ Việt Nam đã để hàng nghìn tỷ VND chảy ra nước ngồi, gây “thất thoát” một lượng vốn lớn cho nền kinh tế.

<i><b>Chúc Anh/ Chị học tập tốt! </b></i>

</div>

×