Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tvth bài kiểm tra giữa kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.55 KB, 3 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

1

<b>BÀI LÀM </b>

<b>Câu 1: Chọn một trong hai câu chủ đề dưới đây để triển khai thành một đoạn văn </b>

sử dụng phương pháp lập luận phối hợp diễn dịch với quy nạp: a. Sách là người thầy vĩ đại của con người.

b. Yêu nước, chống ngoại xâm là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.

Dưới đây là một đoạn văn triển khai chủ đề “Yêu nước, chống ngoại xâm là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam” sử dụng phương pháp lập luận phối hợp diễn dịch với quy nạp:

Truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã được khắc sâu trong tâm thức của mỗi người dân từ hàng ngàn năm qua. Có thể nói, đây là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, góp phần tạo nên bản sắc dân tộc.

Lịch sử Việt Nam chứng kiến hàng loạt cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thời Bắc thuộc cho đến thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Mỗi cuộc kháng chiến đều thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm bảo vệ đất nước của người Việt. Điều này cho thấy, yêu nước, chống ngoại xâm khơng chỉ là một truyền thống mà cịn là một nghĩa vụ, một trách nhiệm của mỗi công dân.

Hơn nữa, truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm còn được thể hiện qua những hoạt động văn hóa, giáo dục. Trong các bài học lịch sử, thế hệ trẻ được dạy về những cuộc kháng chiến, những anh hùng dân tộc, những bài học quý giá từ lịch sử. Điều này giúp thế hệ trẻ nắm bắt và tiếp tục truyền thống quý báu này.

Vì vậy, qua quy nạp từ những ví dụ cụ thể, chúng ta có thể kết luận rằng yêu nước, chống ngoại xâm thực sự là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống này không chỉ giúp bảo vệ đất nước, mà cịn góp phần giáo dục thế hệ trẻ, tạo nên bản sắc dân tộc. Chúng ta nên tự hào và tiếp tục duy trì truyền thống này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>Vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân thì làm ngược lại cách đánh vần: Tuấn </i>

Thừa Sắc.

Tiếp theo, nhiều văn nghệ sĩ đã dùng cách nói ngược để tạo bút danh. Một vài họa sĩ đã nói ngược chữ cái trong tên riêng của mình: Ty thành Yt, Thọ thành Oth. Vài nhà thơ và nhạc sĩ đã nói ngược tên lót và tên riêng: Nguyễn Việt Bằng thành Bằng Việt, Nguyễn Hồng Xuân thành Xuân Hồng. Một số người viết văn đã nói ngược họ và tên riêng: Lê Đình Thạch thành Thạch Lê.

Tạo bút danh bằng cách nói lái được nhiều văn nghệ sĩ sử dụng. Có người nói lái họ và tên riêng: Trinh Đường cho Trương Đình. Người khác nói lái họ, tên riêng và giữ nguyên tên lót: Lữ Huy Nguyên do Nguyễn Huy Lư. Hoàng Ngọc Tuấn cũng nói lái như thế nhưng bỏ tên lót và một con chữ để khỏi sai chính tả: Huấn Tồn. Cịn Đặng Trần Thi, sau khi nói lái họ và tên riêng, bỏ một yếu tố láy và ghép tên láy với yếu tố láy còn lại: Thị Trần Đăng.

Một số người nói lái tên lót và tên riêng: Nguyễn Thứ Lễ thì bỏ họ: Thế Lữ, cịn Nguyễn Đức Thơng thì giữ họ: Nguyễn Thơng Trúc.

Một số người khác sau khi lấy bút danh thứ nhất, nói lái thành bút danh thứ hai. Nhà báo Vũ Tuất Việt lấy bút danh Hồng Ba, rồi nói lái thành Hà Bông. Nhà văn Trường Gia Triều (tức Trần Bạch Đằng) lấy bút danh Hưởng Triều, rồi nói lái thêm một từ chỉ họ: Nguyễn Hiểu Trường.

Cách xáo chữ để tạo bút danh cũng được nhiều văn nghệ sĩ ưa thích. Hạ sĩ Bùi Xuân Phái xáo trộn các chữ cái trong tên riêng và bỏ dấu thành Hi Pa. Nhà văn Nguyễn Tuân thì xáo trộn tên riêng thành ba tiếng: Ân Ngũ Tuyên. Nhà thơ Nguyễn Văn Hàm cũng xáo trộn họ và tên riêng, không dùng đến tên lót: Ngũ Hà Miên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

3 Nhà văn Trần Khánh Giư đảo lộn tên lót và tên riêng, khơng dùng họ: Khái Hưng. Cịn nhà thơ Lê Văn Bái thay đổi các vị trí các chữ cái của họ và tên riêng, bỏ các dấu và viết liền, rồi thêm một chữ Pháp viết tắt vào trước cho ra vẻ “Tây”: J. Leiba.

<i>Sau cùng, nhiều người cho rằng nhà văn Thái Đức Tuấn đã viết tắt câu: “Tôi chẳng yêu ai” thành bút danh Tchya la Tây Xia (Xia do từ Pháp chier, nghĩa là “đi </i>

tiêu”). Còn một họa sĩ khác lấy bút danh Ngym. Có người nói rằng họa sĩ này đã rút gọn câu “Người yêu mợ”. Chưa rõ thực hư thế nào.

Chắc chắn còn nhiều bút danh sử dụng các cách chơi chữ. Nhưng hoặc vì tác giả các bút danh ấy chưa “bật mí” hoặc vì chúng tơi chưa biết đến nên chưa đề cập trong bài này.

<i>(Lê Trung Hoa - Chơi chữ trong bút danh) </i>

Dưới đây là đề cương tóm tắt bài báo “Chơi chữ trong bút danh” của tác giả Lê Trung Hoa:

<b>1. Giới thiệu về chơi chữ trong bút danh: Chơi chữ là một phương pháp sáng </b>

tạo đa dạng và thú vị trong việc đặt bút danh của văn nghệ sĩ Việt Nam.

<b>2. Cách tách tên riêng thành bút danh: Một số văn nghệ sĩ đã tách tên riêng </b>

của mình để tạo ra bút danh. Ví dụ, kí giả tên Chuyên đã lấy bút danh là Chu Uyên.

<b>3. Cách đánh vần tên riêng thành bút danh: Một số nhà thơ, nhà văn đã đánh </b>

vần tên riêng của mình để tạo ra bút danh. Ví dụ, nhà văn Nguyễn Đình đã tạo ra Đinh Thọ Huyền.

<b>4. Cách nói ngược để tạo bút danh: Nhiều văn nghệ sĩ đã dùng cách nói </b>

ngược để tạo ra bút danh. Ví dụ, họa sĩ Ty đã nói ngược chữ cái trong tên riêng của mình thành Yt.

<b>5. Cách nói lái để tạo bút danh: Nhiều văn nghệ sĩ đã dùng cách nói lái để tạo </b>

ra bút danh. Ví dụ, Trinh Đường là bút danh nói lái của Trương Đình.

<b>6. Cách xáo chữ để tạo bút danh: Nhiều văn nghệ sĩ đã dùng cách xáo chữ để </b>

tạo ra bút danh. Ví dụ, hạ sĩ Bùi Xuân Phái đã xáo trộn các chữ cái trong tên riêng và bỏ dấu thành Hi Pa.

<b>7. Cách viết tắt và rút gọn để tạo bút danh: Một số văn nghệ sĩ đã dùng cách </b>

viết tắt và rút gọn để tạo ra bút danh. Ví dụ, nhà văn Thái Đức Tuấn đã viết tắt câu: “Tôi chẳng yêu ai” thành bút danh Tchya la Tây Xia.

<b>8. Kết luận: Còn nhiều bút danh sử dụng các cách chơi chữ khác nhưng chưa </b>

được đề cập do tác giả chưa tiết lộ hoặc chưa được biết đến.

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×