Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Luận văn: NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 170 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––




TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG




NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ
ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN





L
L
U
U


N
N



V
V
Ă
Ă
N
N


T
T
H
H


C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


N
N
G
G
Ô
Ô

N
N


N
N
G
G















Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––





TRẦN THỊ PHƢƠNG HẰNG



NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH THÀNH PHỐ
ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01


L
L
U
U


N
N


V
V
Ă
Ă
N

N


T
T
H
H


C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


N
N
G
G
Ô
Ô
N
N


N

N
G
G







Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG






Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả đưa
ra trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công
trình nào.

Tác giả luận văn




Trần Thị Phƣơng Hằng




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Hà Quang Năng, người
đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy, cô giáo đã
tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, bạn bè và người thân, những người
đã cùng sẻ chia, giúp đỡ, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành
được luận văn này.
Điện Biên, tháng 09 năm 2009
Tác giả luận văn



Trần Thị Phƣơng Hằng














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
MỤC LỤC

Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu 2
3. Lịch sử vấn đề 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5
5. Phương pháp và tư liệu nghiên cứu 5
6. Cấu trúc luận văn 6
Chƣơng 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH
VÀ ĐỊA DANH HỌC 8
1.1. Khái niệm về địa danh 8
1.2. Phân loại địa danh 11
1.3. Đặc điểm của địa danh 12
1.4. Các phương diện nghiên cứu địa danh 14
1.5. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu liên quan đến địa danh và
địa danh học 15
1.5.1. Về địa lí 15
1.5.2. Về lịch sử 18

1.5.3. Về văn hóa 20
1.5.4. Về dân cư 21
1.5.5. Về ngôn ngữ 23
1.6. Kết quả thu thập và phân loại địa danh 24
1.6.1. Kết quả thu thập địa danh 24
1.6.2. Kết quả phân loại địa danh 25
1.7. Tiểu kết 26
Chƣơng 2: CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ
VÀ HUYỆN ĐIỆN BIÊN 28
2.1. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên 28
2.1.1. Vài nét về mô hình cấu trúc phức thể địa danh 28
2.1.2. Cấu trúc phức thể địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
2.2. Thành tố chung 32
2.2.1. Khái niệm thành tố chung 32
2.2.2. Thành tố chung trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên 33
2.3. Địa danh (tên riêng) 38
2.3.1. Khái niệm địa danh 38
2.3.2. Số lượng yếu tố trong địa danh 39
2.4. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên 44
2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn 45
2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức 46
2.5. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên 51
2.5.1. Khái niệm về phương thức định danh 51
2.5.2. Các phương thức định danh trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và

huyện Điện Biên 53
2.5.3. Tổng hợp kết quả 62
2.5.4. Nhận xét về các phương thức định danh trong địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên 63
2.6. Tiểu kết 65
Chƣơng 3: ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG ĐỊA
DANH THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HUYỆN ĐIÊN BIÊN 68
3.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa 68
3.1.1. Khái niệm văn hóa 68
3.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 69
3.1.3. Vài nét về văn hóa thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được
thể hiện qua các địa danh 72
3.2. Ý nghĩa của địa danh và hiện thực được phản ánh 74
3.3. Nghĩa của các yếu tố trong địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên được thể hiện qua nguồn gốc ngôn ngữ 79
3.3.1. Các yếu tố rõ ràng về nghĩa 80
3.3.2. Các yếu tố chưa rõ ràng về nghĩa 82
3.4. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí qua các yếu tố địa danh
của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên 83
3.4.1. Tính đa dạng của các loại hình đối tượng địa lí 83
3.4.2. Bức tranh địa hình mang tính cảnh quan rõ nét 84
3.5. Phân loại ý nghĩa của các yếu tố trong địa danh 87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
3.6. Các nhóm từ và tên gọi theo trường nghĩa 90
3.6.1. Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với những
đối tượng địa lí 90
3.6.2. Nhóm ý nghĩa phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm của con người 103
3.7. Một số địa danh gắn với đời sống, lịch sử, văn hóa ở thành phố Điện

Biên Phủ và huyện Điện Biên 107
3.7.1. Điện Biên Phủ 107
3.7.2. Thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất 115
3.7.3. Hồ U Va 121
3.7.4. Đồi A1 124
3.8. Tiểu kết 129
KẾT LUẬN 132
Những bài báo của tác giả có liên quan đến luận văn đã được công bố 135
Tài liệu tham khảo 136
Phụ lục 140

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐD ĐHTN : Địa danh địa hình thiên nhiên
ĐD ĐVDC : Địa danh đơn vị dân cư
ĐD CTNT : Địa danh công trình nhân tạo
ĐBP : Thành phố Điện Biên Phủ
ĐB : Huyện Điện Biên
P : Phường
X : Xã
YT : Yếu tố




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Kết quả thu thập địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên 25
Bảng 2.1. Mô hình cấu trúc phức thể địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên 31
Bảng 2.2. Kết quả thống kê cấu tạo các thành tố chung 34
Bảng 2.3. Thống kê sự phân bố của các thành tố chung khi chuyển hóa
thành các yếu tố trong địa danh 38
Bảng 2.4. Thống kê địa danh theo số lượng các yếu tố 40
Bảng 2.5. Thống kê địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
theo kiểu cấu tạo 44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
1.1. Địa danh là một bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt
nói riêng. Nghiên cứu địa danh một vùng cung cấp cho ta những cơ sở để tìm hiểu
những cơ chế định danh của một sự vật, hiện tượng. Mỗi ngôn ngữ có cách định
danh riêng.
1.2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hoá, cư dân của một vùng
nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tích của lịch sử, văn hoá, phong tục, tập
quán cư dân của một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên cứu văn hóa,
lịch sử của vùng đất ấy.
1.3. Địa danh có những nguyên tắc riêng trong cấu tạo, trong cách gọi tên, có
thể một địa danh có nhiều tên gọi khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau. Nghiên cứu địa danh giúp nghiên cứu lịch sử một vùng đất, giúp khám phá sự
ảnh hưởng và tác động của những nhân tố bên ngoài vào cách đặt tên địa danh: đất
nước học, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử tộc người… Trong hoàn cảnh một vùng đất
có nhiều dân tộc nối tiếp nhau sinh sống, địa danh có nhiều dấu tích từ vựng của các
ngôn ngữ. Mỗi địa danh được hình thành trong một hoàn cảnh văn hoá, lịch sử nhất
định và còn lưu dấu mãi về sau. Nhiều địa danh thường mang tên người, cây cỏ,
cầm thú, sự vật, địa hình thiên nhiên…
1.4. Điện Biên nói chung, thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên nói
riêng là một trong những mảnh đất giàu ý nghĩa lịch sử. Khảo sát địa danh thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên giúp chúng ta nghiên cứu một chặng đường
lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta; giúp chúng ta học tập, giữ gìn truyền
thống văn hoá dân tộc, đồng thời góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội và mở rộng phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên. Với những lý do nêu trên,
chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên” làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên và đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá của
một số địa danh thuộc hai địa bàn này.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Xác định những cơ sở lí luận liên quan đến việc nghiên cứu địa danh và địa
danh học.
Nội dung của luận văn, chúng tôi tập trung vào các mặt sau:
- Nghiên cứu những đặc điểm về phương diện cấu tạo của các địa danh địa
hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ
và huyện Điện Biên.
- Tìm hiểu về phương thức định danh các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị
dân cư và công trình nhân tạo của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên đồng
thời qua đó bước đầu tìm hiểu về nội dung ngữ nghĩa địa danh.
- Ở một chừng mực nhất định tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hoá
và lịch sử trong những địa danh nổi tiếng của thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Vấn đề nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. Ở Trung
Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32 - 39 sau Công nguyên), Ban Cố đã ghi chép hơn
4000 địa danh, trong đó một số đã được giải thích rõ nguồn gốc và ý nghĩa.
Ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học được chính thức ra đời vào
cuối thế kỷ XIX. Năm 1872, J.J. Êgi (Thuỵ Sĩ) viết “Địa danh học” và năm 1903,
J.W. Nagl (người Áo) cũng cho ra đời tác phẩm “Địa danh học”. Thời kỳ đầu, các
tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh.
Từ thế kỷ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh, J.
Gilliron đã viết “Átlát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa danh theo hướng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

phát triển địa lí học. Năm 1926, A. Dauzat (người Pháp) đã viết “Nguồn gốc và sự
phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hoá địa lí học để nghiên cứu các lớp
niên đại của địa danh.
Từ sau năm 1960 đã có hàng loạt công trình nghiên cứu về lĩnh vực này được
ra đời. Chẳng hạn, A.V. Superanxkaja trong cuốn “Địa danh là gì?” (1985) và
E.M. Murzaev với “Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học” (1964) đã
cùng quan tâm đến vấn đề khuynh hướng nghiên cứu chung. Tác giả Iu.A. Kapenco
(1964) lại nghiên cứu địa danh học về mặt đồng đại, N.V. Podonxkaja trong phân
tích, lí giải địa danh mang những thông tin gì cũng đã góp thêm những ý kiến cho
sự nghiên cứu địa danh đi sâu vào bản chất bên trong của đối tượng.
Những công trình nghiên cứu địa danh ở các quốc gia khác nhau đã góp phần
minh chứng sự phong phú, đa dạng của địa danh cũng như những vấn đề nghiên cứu
trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, Ch. Rostaing (1965) với “Les noms de lieux” đã nêu
ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tìm ra các hình thức cổ của các từ cấu
tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thì phải dựa trên kiến thức ngữ
âm học địa phương. Đây là một chuyên khảo bổ sung thêm cho vấn đề mà A.I.
Popov đã đưa ra trước đó.
3.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu “Tiền
Hán thư”, “Địa lí chí”, “Hậu Hán thư”, “Tấn thư” trong thời Bắc thuộc có đề cập
đến địa danh Việt Nam. Các tài liệu này đều do người Hán viết, phục vụ trực tiếp
cho cuộc xâm lược nước ta. Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm của các nhà
nghiên cứu Việt Nam như vào khoảng thế kỉ XV có tác phẩm “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi, khoảng thế kỉ XVIII có tác phẩm “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn.
Tuy không nhiều nhưng những công trình này đã góp phần quan trọng vào việc
nghiên cứu địa danh Việt Nam.
Vấn đề nghiên cứu địa danh Việt Nam có được những bước tiến đáng kể hơn
là từ những năm 1960 trở đi. Hoàng Thị Châu với “Mối quan hệ về ngôn ngữ cổ đại
ở Đông Nam Á qua một vài tên sông” (1964) được xem như là người cắm cột mốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
đầu tiên trong nghiên cứu địa danh dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Lê Trung Hoa với
“Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh” (1991) đã đưa những vấn đề lý thuyết làm cơ
sở cho sự phân tích và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc, ý nghĩa… của
thành phố Hồ Chí Minh. Đến 1996, Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS “Những
đặc điểm chính địa danh Hải Phòng” đã bổ sung thêm những vấn đề lý thuyết mà
Lê Trung Hoa đã đưa ra trước đó. Tiếp sau là luận án tiến sĩ của Từ Thu Mai với
“Nghiên cứu địa danh Quảng Trị” (2004), Phan Xuân Đạm với “Địa danh Nghệ
An” (2005)… Một loạt các luận văn thạc sĩ khảo sát địa danh ở nhiều địa phương đã
được công bố. Những công trình này đều có những đóng góp đáng trân trọng khi
tiếp cận vấn đề địa danh học dưới cách nhìn ngôn ngữ học.
Ngoài ra còn một số công trình ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay như các
công trình của Trần Thanh Tân, Đinh Xuân Vịnh… Các công trình này đều nghiên cứu
một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu, tính lý thuyết chưa cao.
3.3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên
Địa danh Điện Biên nói chung, địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện
Điện Biên nói riêng là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu. Hiện mới chỉ có tác phẩm “Sông núi Điện Biên” (2000) của Trần Lê
Văn là tác phẩm ghi lại những câu chuyện về một vài vùng đất ở Điện Biên mà tác
giả có dịp đặt chân đến. Và rải rác trong một số cuốn sách hay bài báo có đề cập đến
một vài địa danh nổi tiếng trong tỉnh, chẳng hạn bài báo “Thành Bản Phủ” (1991)
của Đỗ Văn Ninh trong tạp chí Khảo cổ học, tác phẩm “Di tích lịch sử và văn hóa
Điện Biên Phủ” (2008) của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, hay tác
phẩm “Địa danh và những vấn đề lịch sử - văn hóa của các dân tộc nhóm ngôn ngữ
Tày - Thái Việt Nam” (2009) của Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ V.
Nhìn chung các khuynh hướng nghiên cứu địa danh ở Việt Nam rất phong
phú, đa dạng. Chính sự phong phú, đa dạng ấy đã giúp chúng ta nhìn nhận địa danh
ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về địa danh theo
góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trước chúng tôi đã có một số công trình luận án tìm hiểu địa danh TP Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và các vùng
khác. Với địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên, từ trước tới nay
hầu như chưa được khảo sát và nghiên cứu. Đây là công trình đầu tiên khảo sát, tìm
hiểu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống địa danh ở địa bàn này về các phương
diện cấu tạo, nguồn gốc, đặc điểm phương thức định danh và ý nghĩa các địa danh
địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo. Bên cạnh đó luận văn
cũng chỉ ra một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh trong mối quan hệ
với địa lí, lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn về địa danh
có thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa
Điện Biên, góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch của địa phương.
Đồng thời kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích
trong việc giảng dạy lịch sử địa phương, trong giáo dục truyền thống, giữ gìn, phát
huy những giá trị lịch sử, văn hoá của địa phương.
5. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, công việc đầu tiên là phải thu thập tư
liệu, bổ sung và chỉnh lí các thông tin, thông số của địa danh. Mặt khác phải tra cứu
các tài liệu về lịch sử, địa lí, truyền thống văn hóa của thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên. Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra, điền dã, khảo sát thực tế, thu thập tất cả các địa danh
trên hai địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp giúp chúng tôi tập hợp và phân
loại các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên trên cơ sở thu thập địa danh qua các
nguồn khác nhau.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để phản ánh những đặc

điểm cấu tạo và đặc trưng ngữ nghĩa của các yếu tố tên riêng trong phức thể địa danh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc
điểm tâm lí của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, nghiên cứu một số
địa danh để tìm hiểu xuất xứ, nguồn gốc của một số địa danh nổi tiếng trong thành
phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
5.2. Tư liệu nghiên cứu
Với mục đích phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh địa hình thiên
nhiên, đơn vị dân cư và công trình nhân tạo trong thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ những
nguồn sau:
- Dựa vào tư liệu điều tra điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung,
chỉnh lí các thông số, thông tin của từng địa danh.
- Dựa vào niên giám thống kê của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Dựa vào bản đồ các loại của thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
- Dựa vào một số các công trình nghiên cứu về văn hoá, lịch sử, tôn giáo,
kinh tế của địa phương.
- Dựa vào những tư liệu lưu giữ ở chính quyền địa phương. Đây là tư liệu
quan trọng nhất, có tính pháp lí để đảm bảo tính minh xác của những điều trình bày
trong luận văn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
ba chương:
Chƣơng 1. Những cơ sở lí thuyết liên quan đến địa danh và địa danh học
Chương này sẽ trình bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển
khai những chương mục tiếp theo. Bên cạnh đó, những vấn đề về địa lí, lịch sử, dân
cư, văn hóa và ngôn ngữ trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
cùng một số kết quả thu thập, phân loại các địa danh trên địa bàn cũng được trình
bày tóm tắt, làm cơ sở cho nội dung của luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Chƣơng 2. Đặc điểm cấu tạo của địa danh thành phố Điện Biên Phủ và
huyện Điện Biên
Chương này sẽ xác định cấu trúc phức thể địa danh của thành phố Điện Biên
Phủ và huyện Điện Biên gồm thành tố chung và tên riêng. Nội dung của chương sẽ
đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về cấu tạo của địa danh trong địa bàn và những
phương thức định danh những địa danh đó.
Chƣơng 3. Đặc trƣng ngôn ngữ - văn hoá trong địa danh thành phố Điện
Biên Phủ và huyện Điện Biên
Chương này sẽ đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên địa danh.
Qua đó xác định được lí do đặt tên của địa danh và xác lập được một hệ thống các
trường nghĩa và bộ phận nghĩa của các yếu tố cấu tạo. Đồng thời nội dung của
chương sẽ khai thác những ảnh hưởng của địa lí, lịch sử, dân cư, ngôn ngữ đối với
một số địa danh trong địa bàn. Qua đó thấy được nét riêng của địa danh thành phố
Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên được phản ánh như thế nào.
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH
VÀ ĐỊA DANH HỌC

1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐỊA DANH
Cuộc sống của con người gắn với những điểm địa lí khác nhau. Những điểm
địa lí này được gọi bằng những từ ngữ riêng. Đó là những tên gọi địa lí (địa danh).
Những tên gọi này tạo nên một hệ thống riêng và tồn tại trong vốn từ của các ngôn
ngữ khác nhau trên thế giới. Những tên gọi địa lí, địa danh ấy được thể hiện bằng
thuật ngữ toponima hay toponoma (có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp) với ý nghĩa “tên
gọi điểm địa lí”.
Cần phải hiểu đúng khái niệm địa danh theo phạm vi xuất hiện của nó. Nếu
hiểu đúng theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Thế nhưng, khái niệm này cần
phải hiểu rộng hơn vì đây chính là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học.
Cụ thể địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lí tồn tại trên trái đất. Nó
có thể là tên gọi của các đối tượng địa hình thiên nhiên. Đối tượng địa lí cư trú hay
là công trình do con người xây dựng, tạo lập nên.
Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được dùng để
đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lí. Vì thế, nó hoạt động và chịu sự tác động, chi phối
của các qui luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Hiện nay đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau về
địa danh. Nhà ngôn ngữ học Nga A.V. Superanskaja trong cuốn “Địa danh là gì?”
đã cho rằng: địa danh là những từ ngữ biểu thị tên gọi “những địa điểm, mục tiêu
địa lí”, “những địa điểm, mục tiêu địa lí đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo
với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất” [43, tr.13].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu địa danh học đã tiếp cận địa danh từ hai góc
độ khác nhau là nghiên cứu địa danh từ góc độ địa lí - văn hóa và nghiên cứu địa

danh từ góc độ ngôn ngữ học. Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ nhất, Nguyễn
Văn Âu cho rằng: “Địa danh là tên đất, tên sông, núi, làng mạc… hay là tên các địa
phương, các dân tộc” [5, tr.15].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Đại diện cho hướng nghiên cứu thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên
Trường, Từ Thu Mai, Phan Xuân Đạm.
Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng
làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành
chính, các vùng lãnh thổ” [26, tr.21].
Nguyễn Kiên Trường quan niệm: “Địa danh là tên riêng của các đối tượng
địa lí tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [48, tr. 16].
Từ Thu Mai đưa ra cách hiểu: “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của
các đối tượng địa lí có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [31, tr.21].
Phan Xuân Đạm cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để
đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12].
Như vậy, với mong muốn đi tìm một khái niệm với nguyên nghĩa của từ
toponomie, Nguyễn Văn Âu quan niệm địa danh chính là “tên gọi các địa phương
hay tên gọi địa lí”, theo đó “địa danh học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu
về tên địa lí của các địa phương”. Quan niệm này khá đơn giản, dễ hiểu, trùng với
cách hiểu thông thường của nhân dân, của từ điển ngữ văn giải thích, chẳng hạn
trong “Từ điển Hán Việt”, Đào Duy Anh giải thích: “địa danh là tên gọi các miền
đất”, “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên giải thích: địa danh là “tên đất,
tên làng”. Nguyễn Văn Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa danh học
“chuyên nghiên cứu về tên riêng”, ông “chú ý tới các từ chung”.
Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trình bày các vấn đề địa
danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tính lý thuyết, tính hệ thống
sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa danh là những
từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công
trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh

thổ” [26, tr.21]. Định nghĩa này thiên về việc chỉ ra ngoại diên của khái niệm, đồng
thời chỉ ra cách phân loại các địa danh. Do đó, khó có thể khuôn được hiện thực các
kiểu loại địa danh vốn đa dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn ngoại
diên của địa danh chỉ thuộc về những gì ở trên trái đất một cách hiển ngôn. Dựa trên
tiêu trí mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia địa danh thành từng loại
nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ, theo chức năng của
địa danh.
Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến những
vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai có điểm xuất
phát từ cách hiểu địa danh của A.V. Superanskaja.
Theo chúng tôi, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác nhau
nhưng các đối tượng địa lí bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với những cá thể
độc lập. Đầu tiên, người ta thường sử dụng các tên chung để định danh cho một đối
tượng cụ thể, được xác định. Nó chính là đơn vị định danh bậc hai trên cơ sở vốn từ
chung. Vì vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần phải chú ý đến những vấn đề
nội tại trong bản thân địa danh. Trước hết, mỗi địa danh đều phải có tính lí do, phải
xác định được nguyên nhân đặt tên đối tượng. Chức năng gọi tên và cá thể hóa, khu
biệt đối tượng là tiêu chí thứ hai. Tiêu chí thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải
là các đối tượng địa lí tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng
này có thể là đối tượng địa lí tự nhiên hay không tự nhiên.
Phan Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi trước.
Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức năng của địa
danh. Về cách phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả kế thừa cách phân
loại của Lê Trung Hoa.
Nhìn chung, trong các định nghĩa và phân loại, các tác giả đều thừa nhận
rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới cái tên gọi “địa danh” chỉ là
những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối tượng ngoài trái đất như Trạm

vũ trụ Hòa Bình, sao Hỏa… sẽ không được coi là địa danh. Điều này khác với quan
điểm của nhiều nhà khoa học nước ngoài.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi tán thành quan điểm của Phan Xuân Đạm
khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được định ra để đánh dấu vị trí,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn” [20, tr.12]. Luận văn này
sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các đối tượng địa lí thuộc địa danh địa
hình tự nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo trên địa bàn
thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
Hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có những
cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P. Smolichnaja và M.V.
Gorbanevskij cho rằng địa danh có bốn loại: Phương danh (tên các địa phương), sơn
danh (tên núi, gò, đồi…), thủy danh (tên các dòng chảy, ao ngòi, sông vũng), phố
danh (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà khoa học Nga A.V.
Superanskaja lại chia làm bảy loại: Phương danh, thủy danh, sơn danh, phố danh,
viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao thông trên đất, dưới đất, trên
nước, trên không).
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “Phân loại địa danh là sự phân
chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau, dựa trên những đặc tính cơ bản về
địa lí cũng như về ngôn ngữ và lịch sử” [5, tr.37]. Và ông đã chia địa danh Việt
Nam thành hai loại: Địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội với bảy kiểu:
Thủy danh, lâm danh, sơn danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia và
mười hai dạng: Sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông - trảng, làng -
xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc gia. Mỗi dạng lại có thể phân chia
thành các dạng sông, ngòi, suối… Cách phân loại này của tác giả nghiêng về tính
dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa vào chi tiết, thiếu tính khái quát, đối tượng nghiên
cứu và tên gọi đối tượng nghiên cứu chưa được làm rõ.
Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc địa danh. Cách phân

loại của ông dựa vào hai tiêu chí tính tự nhiên và không tự nhiên. Đây là cách phân
loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tính bao quát. Ông phân loại địa danh: Địa
danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành
chính, địa danh chỉ vùng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chí mà Lê Trung Hoa đưa ra
nhưng tiếp tục chia nhỏ một bước nữa. Ông chia đối tượng tự nhiên thành hai loại
nhỏ: Các đối tượng sơn hệ và các đối tượng thủy hệ; chia đối tượng nhân văn thành:
địa danh cư trú và địa danh chỉ công trình xây dựng. Địa danh cư trú bao gồm: đơn
vị cư trú tự nhiên, đơn vị hành chính, đường phố. Địa danh chỉ công trình xây dựng
bao gồm: Đơn vị hành chính, đường phố và các đối tượng khác. Bên cạnh đó,
Nguyễn Kiên Trường còn tiến hành phân loại theo nguyên ngữ địa danh, theo chức
năng giá trị của địa danh.
Từ Thu Mai cũng phân loại theo cách phân loại của Lê Trung Hoa và dùng
khái niệm “loại hình địa danh” làm tiêu chí phân loại. Theo Từ Thu Mai có ba loại
hình địa danh là địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh
công trình nhân tạo. Trong đó, ở mỗi loại hình địa danh lại gồm những tiểu loại địa
danh khác nhau.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước và theo mục
đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cũng tán đồng cách phân loại theo tiêu chí
“tự nhiên - không tự nhiên” của Lê Trung Hoa và Từ Thu Mai. Chúng tôi phân loại
địa danh thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên thành ba loại: địa danh địa
hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Trong đó
địa danh địa hình thiên nhiên gồm sơn danh, thủy danh và những vùng đất nhỏ phi
dân cư; địa danh đơn vị dân cư gồm các đơn vị dân cư cụ thể nằm trong cấp thành
phố, huyện; địa danh các công trình nhân tạo gồm địa danh các công trình nhân tạo
thuộc những hoạt động vật chất của con người và địa danh các công trình nhân tạo
thuộc những hoạt động tâm linh của con người. Trong mỗi tiểu loại lại gồm những
bộ phận nhỏ hơn, thuộc vào những loại hình địa danh đó.

1.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH
Xét về phương diện ngôn ngữ học, nhìn vào toàn bộ hệ thống địa danh một
vùng đất, có thể thấy rõ các đặc điểm sau đây:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
1.3.1. Địa danh là một hệ thống tên gọi đa dạng
Nếu so sánh với nhân danh và vật danh thì hệ thống địa danh vừa đa dạng
vừa phức tạp. Về loại hình địa danh, có những địa danh biểu thị địa hình tự nhiên
(núi, sông, biển, hồ…); có những địa danh biểu thị tên gọi của các đơn vị hành
chính, đơn vị dân cư do Nhà nước đặt ra (thành phố, thị xã, huyện, phường, phố…);
lại có những địa danh là tên gọi các công trình xây dựng trên bề mặt đất hay dưới
lòng đất (cầu, cống, đường, hầm, đê, đập…). Về cấu tạo, địa danh vừa có cấu tạo
đơn vừa có cấu tạo phức (vừa có từ vừa có cụm từ, vừa có danh từ vừa có danh
ngữ). Trong cấu tạo đơn, có địa danh đơn tiết, có địa danh đa tiết. Trong cấu tạo
phức, giữa các yếu tố trong địa danh có các mối quan hệ: Quan hệ đẳng lập, quan hệ
chính phụ và quan hệ chủ vị. Về nguồn gốc ngôn ngữ, có những địa danh có nguồn
gốc tiếng Việt (thuần Việt, Hán Việt), có những địa danh có nguồn gốc tiếng dân
tộc thiểu số và có cả những địa danh vay mượn từ tiếng nước ngoài.
1.3.2. Địa danh thƣờng diễn ra hiện tƣợng chuyển hóa
Chuyển hóa là lấy tên gọi một đối tượng địa lí này để gọi một đối tượng địa
lí khác. Hiện tượng này có thể xảy ra các trường hợp như:
- Chuyển hóa trong nội bộ từng loại địa danh. Chẳng hạn, trong nội bộ địa
danh đơn vị dân cư: bản Noong Bua  phường Noong Bua, mường Lói  xã
Mường Lói; trong nội bộ địa danh địa hình thiên nhiên: hồ U Va  núi U Va, núi
Phà Lén  dãy núi Phà Lén.
- Chuyển hóa giữa các loại địa danh. Chẳng hạn, chuyển hóa địa danh địa
hình thiên nhiên thành địa danh đơn vị dân cư: núi Pú Sung  bản Pú Sung; chuyển
hóa địa danh đơn vị dân cư thành địa danh công trình nhân tạo: bản Hua Pe  đồn
Hua Pe, thành Sam Mứn bản Sam Mứn.
- Chuyển hóa nhân danh thành địa danh. Chẳng hạn, Nguyễn Chí Thanh 

đường Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Công Chất  đền Hoàng Công Chất.
1.3.3. Địa danh có phƣơng thức cấu tạo phong phú
Nghiên cứu các phương thức cấu tạo định danh, chúng tôi thấy địa danh
được tạo nên bởi rất nhiều phương thức khác nhau: vừa dựa vào đặc điểm bản thân
đối tượng để đặt tên như: núi Pha Sung (vách cao), suối Púng (vũng), bản Noong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Chứn (ao chì), bản Đồi Cao, thác Trắng; vừa dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với đối tượng như xã Nà Nhạn (ruộng nhạn), suối Hẹt (tê giác), núi Pú Co
Nghịu (núi cây bông gạo), đồn biên phòng Hua Pe (đầu suối Pe), bản Sam Mứn (ba
vạn); bên cạnh đó còn có phương thức ghép các yếu tố Hán Việt để đặt tên như: bản
Tân Quang, bản Thanh Bình, thôn Lập Thành, thôn Đoàn Kết; dùng số đếm, chữ cái
hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó để đặt tên như: tổ dân phố 1, thôn 24, đội C1, cầu
C4 và phương thức ghép giữa các yếu tố (tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc thiểu số)
với số đếm hoặc chữ cái như: bản Ten A, bản Gia Phú B, bản Pom Lót 10, thôn
Thanh Hồng 4, di tích Đồi A1, di tích Đồi E2.
1.4. CÁC PHƢƠNG DIỆN NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học rất rộng. Nói đến danh học, người ta
thường thiết lập một danh sách những khái niệm có liên quan như: Tên người/nhân
danh, tên các hành tinh, tên gọi các tổ chức chính trị - xã hội, tên các tộc người, tên
các nghiệp đoàn, tên các con đường, tên gọi các con sông, dòng suối, tên gọi các
con vật, tên gọi các đấng siêu nhiên, thần linh, tên gọi các quả đồi, ngọn núi, tên các
công trình xây dựng để ở, tên người gọi theo dòng bố, tên gọi theo dòng mẹ, tên
người gọi theo con cháu… Bộ môn khoa học nghiên cứu về tên gọi như vậy được
gọi là danh học. Các địa danh cũng chỉ là một trong nhiều đối tượng nghiên cứu của
khoa học được đặt trong thế phân biệt với nhân danh học. Đặt trong khung cảnh của
ngôn ngữ học, địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng học, vì đối tượng
nghiên cứu của địa danh học chính là các từ ngữ được sử dụng để đặt tên, gọi tên.
Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về nguồn gốc,
cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, sự lan tỏa, phân bố của địa danh. Người chuyên

nghiên cứu về địa danh được gọi là nhà địa danh học.
Như vậy một nhà địa danh học thường phải làm, nghiên cứu giải quyết
những công việc chính sau đây:
- Tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của địa danh.
- Tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh.
- Tìm hiểu các mô hình địa danh, các phương thức quá trình tạo địa danh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
- Tìm hiểu sự nảy sinh, lan tỏa, sự phân bố của địa danh qua các không gian,
các khoảng thời gian khác nhau.
- Chuẩn hóa địa danh.
Trong những vấn đề lớn trên, người ta lại chia nhỏ thành nhiều vấn đề khác
nhau để nghiên cứu.
Về quan điểm tín hiệu học, địa danh có tính lí do. Vậy, vấn đề quan trọng là
cội nguyên, ngữ nghĩa của địa danh. Điều này, ta thường thấy trong định nghĩa địa
danh học: Là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc, ngữ nghĩa của địa danh.
Dựa trên hướng nghiên cứu, người ta chia ra các bộ phận nhỏ như: Ngôn ngữ
địa danh học, địa lí địa danh học, lịch sử địa danh học, đối chiếu địa danh học…
Ngôn ngữ địa danh học chú ý nhiều đến những diễn tiến về mặt ngôn ngữ của địa
danh, đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ của địa danh, ngữ nghĩa của địa danh, các mô hình
cấu tạo của địa danh…; địa lí địa danh học chú ý nhiều đến sự phân bố về địa danh,
sự liên quan giữa sự phân bố của địa danh đối với các vùng, các đối tượng không
gian địa lí…; lịch sử địa danh học chú ý nhiều đến các quá trình hình thành địa
danh, sự phát triển của địa danh, sự phân bố của địa danh có liên quan đến các tộc
người, đối chiếu địa danh học nghiêng về sự đối sánh để tìm ra những nét tương
đồng và dị biệt giữa hệ thống địa danh của tộc người này, dân tộc này, đất nước này
với tộc người khác, dân tộc khác, đất nước khác, tìm hiểu tính chất nhân học trong
địa danh.
Ngoài ra, người ta có thể chia địa danh thành địa danh học lý thuyết, địa
danh học mô tả.

1.5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC
1.5.1. Về địa lí
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên là hai địa bàn thuộc tỉnh Điện
Biên, một tỉnh biên giới ở phía Tây Bắc Tổ quốc. Thành phố Điện Biên Phủ nằm
trong vùng lòng chảo Mường Thanh, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông (tỉnh
Điện Biên), phía Tây, phía Nam, phía Bắc đều giáp huyện Điện Biên (tỉnh Điện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Biên); có diện tích tự nhiên là 6.009,05 ha. Còn huyện Điện Biên có vị trí: phía Bắc
giáp huyện Mường Chà và huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên), phía Đông giáp
huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên) và huyện Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), phía Tây
và phía Nam giáp Lào; có diện tích tự nhiên là 163.985 ha.
Cấu trúc địa hình thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên mang một số
đặc điểm nổi bật của địa hình toàn tỉnh: núi thấp dần và đổ dồn xuống các sông và
suối lớn, hoặc xen kẽ với các thung lũng sông, khe suối. Lọt vào giữa các dãy núi có
rất nhiều dải trũng bằng phẳng tạo thành những cánh đồng hẹp kéo dài. Các dãy núi
phía Tây là bộ phận kéo dài của hệ thống núi ở Bắc Lào, cùng hướng với dòng chảy
của các sông suối trong vùng này thường có hướng Bắc - Nam hoặc Tây Bắc -
Đông Nam. Ngoài ra còn có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi,
sườn tích, hang động castơ phân bố rộng khắp trên địa bàn nhưng diện tích nhỏ.
Thành phố Điện Biên Phủ nằm trong vùng lòng chảo, là vùng có địa hình
tương đối bằng phẳng, ít bị chia cắt, độ dốc nhỏ dưới 15 độ, độ cao hơn 400 m so
với mặt nước biển thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đặc biệt có thung lũng Mường Thanh với diện
tích trên 15.000 ha, là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của toàn tỉnh và toàn vùng
Tây Bắc (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc). Với khả năng sản xuất lương thực
dồi dào, cánh đồng Mường Thanh là vựa lúa của cả tỉnh Điện Biên.
Địa hình của huyện Điện Biên bao gồm một phần của vùng lòng chảo (gọi là
vùng thấp) và vùng núi cao (còn gọi là vùng ngoài). Vùng thấp (như đã nêu trên)

chiếm 21% diện tích toàn huyện, còn vùng núi cao chiếm 79% diện tích toàn huyện
với độ cao từ 1000 m trở lên trong đó đỉnh cao nhất là Pú Pha Sung. Địa hình đồi,
núi cao và đất dốc của huyện thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia
súc, phát triển thủy điện và xây dựng các hồ chứa nước phục vụ sinh hoạt, cung cấp
nước cho sản xuất nông nghiệp vùng lòng chảo.
Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên có các nhóm đất chính là:
nhóm đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất feralit mùn vàng đỏ trên núi, nhóm đất
thung lũng do sản phẩm dốc tụ, nhóm đất mùn vàng nhạt trên núi cao và núi đá,

×