Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

LUẬN VĂN: Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.13 MB, 81 trang )









LUẬN VĂN:

Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay











Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Định hướng XHCN là một vấn đề được Đảng ta chính thức nêu ra từ Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991). Suốt từ đó cho tới nay, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều cố gắng trong sự lãnh đạo và quản lý đất nước, nhằm bảo đảm định


hướng XHCN công cuộc đổi mới, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Với chủ trương đúng
đắn về sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nguyên nhân trực
tiếp nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Từ đó đã góp phần nhằm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời
kỳ CNH, HĐH đất nước.
Song, thực tiễn cũng cho thấy, sự phát triển nền kinh tế ở nước ta bên cạnh
những mặt tích cực như đã nêu, đồng thời đã bộc lộ những khuyết tật có nguy cơ chệch
hướng XHCN. Nguy cơ đó xuất phát từ những điều kiện khách quan và ngay cả trong
nhân tố chủ quan của nước ta. Để bảo đảm định hướng XHCN trong quá trình phát triển
nền kinh tế ở giai đoạn tiếp theo, đòi hỏi cần có sự nỗ lực; sự phát huy cao độ vai trò
nhân tố chủ quan của Đảng và Nhà nước ta. Vì đây là hai chủ thể quan trọng nhất nhằm
bảo đảm giữ vững định hướng XHCN quá trình phát triển nền kinh tế. Bởi vậy, việc
nghiên cứu "Nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay" có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn vừa cơ bản vừa cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" trong lịch sử đã
được các nhà triết học đề cập, nghiên cứu. Ngay trong các tác phẩm của mình các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đề cập nghiên cứu nhiều về vấn đề đó. Do vị
trí và ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, những năm gần đây ở nước ta nhiều nhà khoa
học đã nghiên cứu về "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách quan" đối với quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như các công trình nghiên cứu sau:
- "Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người mới ở
Việt Nam" Luận án PTS của Nguyễn Thế Kiệt; Hà Nội, 1988.

- "Quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong quá trình xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta" Luận án
Thạc sĩ của Chế Công Tâm, Hà Nội, 1993.
- "Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình

xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" Luận án PTS của
Dương Thị Liễu; Hà Nội, 1996.
- "Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Một số vấn đề về lý luận và thực
tiễn ở nước ta hiện nay" Luận án TS của Phạm Ngọc Minh, Hà Nội, 2000.
Bên cạnh những công trình chuyên khảo về vấn đề này, như đã nêu trên, các tạp
chí "Cộng sản", "Triết học", "Nghiên cứu Lý luận", "Thông tin Lý luận"… Cũng đã
xuất hiện nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu đề cập tới việc phát huy vai trò
nhân tố chủ quan như:
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc nước ta" của Dương Phú Hiệp, tạp chí Triết học số 2/1973.
- "Vị trí và vai trò của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của quy luật xã
hội" của Phạm Văn Đức, tạp chí Triết học số 3/1989.
- "Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố chủ quan trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội" của Trần Bảo, tạp chí Triết học số 3 tháng 9/1991.
- "Xu hướng và các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều
thành phần" của Nguyễn Chí Mỹ, tạp chí Cộng sản số 10/5/1997 v.v
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây rất có giá trị , các tác giả nghiên
cứu đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trong quá trình phát triển xã hội nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
nói riêng.
Tuy nhiên cho tới nay, vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu có tính
hệ thống vai trò nhân tố chủ quan với việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Vì vậy, tác giả luận văn mạnh dạn đi sâu vào tìm
hiểu nghiên cứu vấn đề này. Với mong muốn có những đóng góp nhất định về phương

diện lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng
nhân tố chủ quan, nhằm giữ vững định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Luận văn có mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong

việc bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
và đánh giá thực trạng của việc phát huy nhân tố chủ quan hiện nay, từ đó nêu ra một số
giải pháp nâng cao chất lượng nhân tố chủ quan.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Làm rõ nội dung khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều kiện khách
quan" và vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội nói chung và bảo đảm
định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta nói riêng.
Thứ hai: Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan, chỉ ra
những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao nhân tố chủ quản nhằm
bảo đảm định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước
ta hiện nay.
3.2. Giới hạn của luận văn
Luận văn chỉ tập trung đi vào phân tích và làm rõ vai trò nhân tố chủ quan của
Đảng và Nhà nước ta là hai chủ thể cơ bản và quan trọng nhất trong việc lãnh đạo, quản lý
và định hướng nền kinh tế phát triển theo hướng XHCN.
4. Cái mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng
XHCN sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan, nhất là ở
địa phương, cơ sở.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên lý, các nguyên tắc phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, kế thừa một cách hợp lý các công trình có liên quan.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã dùng các phương pháp nghiên
cứu khoa học như: Phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống và yếu tố v.v
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn trước tiên nhằm nâng cao nhận thức cho tác
giả. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu

và giảng dạy bộ môn triết học trong các trường chính trị tỉnh thành.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 2 chương 4 tiết.

Chương I
Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với việc
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta hiện nay

1.1. Nhân tố chủ quan và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội
1.1.1. Khái niệm: "Nhân tố chủ quan", "Điều kiện khách quan"
Khái niệm nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan được hình thành và phát
triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy, để làm sáng
tỏ nội dung của các khái niệm đó, đòi hỏi phải đề cập tới các khái niệm có liên quan tới
hoạt động của con người. Đó là những khái niệm: "chủ thể", "khách thể".
Khái niệm "chủ thể": trong hoạt động tác động và cải tạo thế giới khách quan,
con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh khách quan; đồng thời là chủ thể của hoạt động
cải tạo hoàn cảnh khách quan, từ đó hình thành nên khái niệm chủ thể. Đây là một khái
niệm đã được nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, các
nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về nội dung của khái
niệm này như:
Có người cho rằng: "Chủ thể" là con người (cá nhân hoặc nhóm ) tiến hành
hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn 59, tr. 92 .
Cũng có người hiểu: "chủ thể là con người có ý thức và ý chí, và đối lập với
khách thể bên ngoài" 60, tr. 192 .
Qua những quan niệm khác nhau trên đây cho thấy: tùy theo cấp độ xem xét,
chủ thể có thể là cả loài người, có thể là một nhóm, một giai cấp, một đảng phái Đang
thực hiện một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Kế thừa những cách hiểu trên, trong luận văn này chúng tôi quan niệm:

Chủ thể - đó là con người với những cấp độ tồn tại khác khác nhau (cá nhân,
nhóm, giai cấp) đã và đang thực hiện sự tác động đến khách thể.

Với khái niệm chúng tôi đã nêu trên, cho thấy: Con người là chủ thể, đó là con
người thực tiễn, con người hành động, đặc trưng cơ bản nhất là có năng lực hoạt động
sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xã hội). Nét biểu hiện về năng lực sáng tạo
của chủ thể đó là việc lựa chọn những hình thức và phương pháp tác động, xây dựng ý
chí và quyết tâm trong quá trình tác động vào khách thể, nhằm đạt được mục đích đề ra.
Đúng như trước đây Lê Nin đã từng viết: "Khái niệm ấy (bằng con người) là khuynh
hướng tự mình thực hiện mình, qua bản thân mình, một tích khách quan trong thế giới
khách và tự hoàn thiện (tự thực hiện) mình" 27, tr. 228.
Khái niệm "khách thể" và khái niệm "chủ thể" có mối liên hệ hữu cơ và liên
quan mật thiết với nhau. Với cách hiểu nội dung khái niệm "chủ thể" như đã nêu trên.
Chúng tôi quan niệm về khách thể, đó là:
Khách thể là tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo

Với cách hiểu và quan niệm như vậy, theo chúng tôi: Khách thể phải được xác
định tùy thuộc vào chủ thể tương ứng với nó và do vậy khách thể không phải là toàn bộ
hiện thực khách quan, nó chỉ là một bộ phận của hiện thực khách quan (là các sự vật hiện
tượng, quá trình ), các bộ phận đó chịu sự tác động của chủ thể xác định. Nói cách khác,
tùy từng cấp độ xác định về chủ thể để chúng ta xác định khách thể. Do hiện thực khách
quan hết sức phong phú, từ đó khách thể là những bộ phận của nó cũng rất đa dạng. Có
khách thể là những hiện tượng, quá trình thuộc giới tự nhiên; có khách thể là những hiện
tượng, quá trình thuộc về lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, những quan hệ kinh tế,
những quan hệ chính trị - xã hội, kể cả những quan hệ tư tưởng cũng là những khách thể
của những chủ thể tương ứng 35.
Khách thể và chủ thể có liên quan mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau. Không
thể nói tới một khách thể cụ thể, nếu không nói tới một chủ thể xác định. Bởi vì, chủ thể
và khách thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại với tư cách là chủ
thể và khách thể khi lấy nhau làm tiền đề. Khách thể tồn tại bên ngoài, không lệ thuộc

vào chủ thể song khách thể không đối lập trừu tượng với chủ thể. Vì nó chính là đối
tượng mà chủ thể luôn luôn hướng vào cải tạo bằng hoạt động có ý thức của mình.

Khi xem xét hoạt động của con người, người ta không chỉ nghiên cứu các khái
niệm chủ thể và khách thể; mà còn quan tâm tới khái niệm "nhân tố chủ quan" và "điều
kiện khách quan". Bởi vì các khái niệm điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan được
dùng để chỉ mối quan hệ giữa hoạt động có ý thức của con người và hoàn cảnh mà trong
đó con người hoạt động.
Khái niệm nhân tố chủ quan không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm chủ thể.
Hiện nay trên sách, báo, tạp chí nghiên cứu xuất hiện nhiều những quan niệm khác nhau
về khái niệm nhân tố chủ quan.
Chẳng hạn, trong khi nghiên cứu khái niệm "nhân tố chủ quan", có tác giả đồng
nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức của con người nói chung. "Nhân tố chủ
quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý thức của những con người, những giai
cấp, những chính đảng sáng tạo ra lịch sử " 36, tr. 18. Cũng có tác giả lại giới hạn và
đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người. Như vậy, nhóm quan
niệm nêu trên thường nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo của ý thức, tư tưởng, nhấn mạnh
vai trò của ý thức trong việc phản ánh điều kiện khách quan.
Những quan niệm trên đây có nhiều giá trị và tính hợp lý, vì đã chỉ ra vai trò của
ý thức, tính tự giác trong hoạt động của con người. Nhưng, nếu đồng nhất nhân tố chủ
quan với hoạt động có thức của con người; hoặc giới hạn nhân tố chủ quan với hoạt động
tự giác của con người, thì theo chúng tôi chưa thật đầy đủ và như vậy dễ dẫn đến tình
trạng "chủ quan hóa" hoạt động của con người. Bởi vì, hoạt động của con người không
chỉ thuần túy thuộc về nhân tố chủ quan mà còn bị chi phối và quy định của điều kiện
khách quan.
Ngoài những quan niệm nêu trên, còn có quan niệm đồng nhất nhân tố chủ quan
với ý thức của chủ thể hoạt động. Về quan niệm này, A.K.Uleđôp đã nhận xét và phê phán
một cách xác đáng, rằng:
Nhiều phẩm chất tư tưởng, tâm lý xã hội, đạo đức của các tập đoàn
xã hội, của các giai cấp và các tổ chức của nó, của các dân tộc là nằm trong

nội dung của nhân tố chủ quan, nhưng sẽ là sai lầm khi cho rằng toàn bộ ý
thức xã hội cũng nằm trong đó. Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói

chung (cũng hệt như là sự hoạt động), mà là các ý thức đã trở thành sự chỉ
đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Nói cách khác là ý thức đã
biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể 61, tr.
69.
Như vậy, theo A.K.Uleđôp nhân tố chủ quan chỉ bao gồm những bộ phận ý thức
của chủ thể tham gia vào quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể.
Theo chúng tôi, nói tới "nhân tố chủ quan", trước hết chúng ta cần đề cập tới
đặc trưng cơ bản của nó là "tính tích cực, tính sáng tạo" của chủ thể hoạt động. Bởi lẽ,
các nguyên lý triết học Mác xít chỉ ra rằng, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh
nhưng đồng thời là chủ thể của hoàn cảnh đó. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung
nhất, đối diện với giới tự nhiên chúng ta có khái niệm con người. Khi đặt con người (có
thể là cả loài người, hoặc một bộ phận, một cá nhân trong trạng thái đang tích cực hoạt
động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo nó theo mục đích nhất định, lúc đó
chúng ta có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khách thể. Còn khi xem xét con
người - chủ thể tích cực hoạt động trong một hoạt động xác định, với đầy đủ các mặt,
các yếu tố, mối quan hệ Tức khi xem xét con người - chủ thể đó với tất cả các nhân tố
tạo thành tính tích cực của chủ thể - các nhân tố vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện
của mọi hoạt động tích cực, sáng tạo của chủ thể chúng ta có khái niệm nhân tố chủ
quan và đối lập với nó là điều kiện khách quan [43, tr. 58].
Như vậy, "vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù người ta tiếp cận việc giải
quyết nó về mặt nào và ở bình diện nào đi nữa cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua
sự phân tích đặc trưng về chất của những chủ thể lịch sử" 61, tr. 67. Nhưng điều đáng
lưu ý, không phải là bản thân các chủ thể lịch sử đó đóng vai trò nhân tố chủ quan, mà
những thuộc tính, những phẩm chất, những trạng thái của chủ thể biểu hiện trong hoạt
động đóng vai trò nhân tố chủ quan. Những thuộc tính, phẩm chất của chủ thể là nhân tố
chủ quan, là những yếu tố cần thiết để tạo ra khả năng tích cực, sáng tạo của chủ thể.
Biểu hiện sức mạnh sáng tạo đó của chủ thể phải được thể hiện thông qua hành động

thực tiễn cải tạo các khách thể xác định. Tổng hợp toàn bộ những nội dung đó tạo thành
khái niệm nhân tố chủ quan. Nhấn mạnh điều đó tác giả V.N Lavrineko cho rằng:

Nhân tố chủ quan trong quá trình lịch sử là những khả năng khác
nhau của con người mà bằng sự tác động của mình, đã đem lại sự biến đối
trong những mặt nhất định của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất cấu
thành nhân tố chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh thần của con
người, những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất,
kinh nghiệm xã hội, trình độ văn hóa và đồng thời là những phẩm chất ý chí
của họ: Tính tổ chức trong hoạt động của con người có một ý nghĩa to lớn
35, tr. 20.
Từ những nội dung phân tích trên đây cho thấy, giữa nhân tố chủ quan và chủ
thể có sự thống nhất, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự thống nhất giữa khái niệm
"chủ thể" và "nhân tố chủ quan" được thể hiện ở chỗ: nhân tố chủ quan là thuộc về chủ
thể. Còn giữa các khái niệm này có sự khác nhau và tính độc lập tương đối, vì nhân tố
chủ quan, là khái niệm để chỉ những yếu tố, đặc trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể,
được chủ thể huy động và trực tiếp tạo ra năng lực, cũng như động lực của chủ thể
nhằm để biến đổi khách thể cụ thể. Với quan niệm như trên, chúng tôi hiểu: Nhân tố chủ
quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào một hoạt động cụ thể của
chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó.
Với quan niệm về khái niệm nhân tố chủ quan nêu trên, theo chúng tôi, cấu trúc
của nhân tố chủ quan, bao gồm các nhân tố sau đây:
Thứ nhất: ý thức của chủ thể là nhân tố cấu thành nội dung khái niệm nhân tố
chủ quan. Song điều đáng lưu ý ở đây, không phải toàn bộ ý thức nói chung của chủ thể
là nhân tố chủ quan. ý thức của chủ thể tồn tại với tư cách là yếu tố của nhân tố khách
quan là bộ phận ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và là phương châm của
hoạt động, nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi, của
hoạt động của chủ thể 35, tr. 19.
Thứ hai: Nói tới nhân tố chủ quan là nói tới hoạt động có ý thức của chủ thể
(con người cụ thể, của giai cấp, của chính đảng ) để sáng tạo ra lịch sử; là nói tới

những hoạt động thực tiễn của họ để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử nhất định. Do
đó, nhân tố chủ quan không chỉ thuần túy là ý thức của chủ thể mà còn bao gồm cả

bản thân quá trình hoạt động đó. Nhấn mạnh vai trò của hoạt động cải tạo thế giới của
con người với tư cách là chủ thể, Mác viết: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được
gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn" 32, tr. 187. Từ những nội dung trên đây, chúng tôi cho rằng, cấu thành nhân tố
chủ quan còn bao gồm cả quá trình hoạt động cải tạo thực tiễn của chủ thể đối với một
khách thể xác định.
Thứ ba: Sức mạnh hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử - xã hội là sự
thống nhất biện chứng giữa sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần. Do đó, thuộc về
nhân tố chủ quan còn bao gồm cả những phẩm chất, những trạng thái thuộc về năng
lực thể chất của chủ thể. Tức là, khi chủ thể được xem xét là con người cụ thể thì đó là
phẩm chất, thể lực. Còn khi chủ thể được xem xét với tính cách là một tổ chức, một
lực lượng xã hội thì điều đó được xem xét dưới góc độ là tính tổ chức; sự phối kết hợp
giữa những bộ phận cấu thành nên tổ chức hay lực lượng xã hội đó. Bởi vì, trong quá
trình lịch sử, các chủ thể lịch sử được xem xét tùy theo cấp độ đó là những con người
cá biệt với ý thức ý chí và khả năng hoạt động của họ ; mặt khác còn xem xét ở cấp
độ đó là những lực lượng xã hội (như giai cấp, đảng phái ).
Như chúng ta đều biết, bất cứ một chủ thể lịch sử - xã hội nào, cho dù ở các vị
trí và địa vị xã hội khác nhau, trong hoạt động và tồn tại đều gắn liền với một điều kiện
khách quan xác định cụ thể. Do vậy, trong mỗi hoạt động của chủ thể, các yếu tố hợp
thành điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều mặt. Như, các yếu
tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng có sẵn trong tự nhiên; các yếu tố vật chất tồn tại
dưới dạng xã hội. Những yếu tố có tính vật chất, cùng với các yếu tố tinh thần như tư
tưởng, tâm lý, tập quán đang tồn tại hiện thực trong xã hội hợp thành một hoàn cảnh
để chủ thể tồn tại và hoạt động - đó cũng là điều kiện khách quan.
Trong nghiên cứu, khi đề cập tới khái niệm điều kiện khách quan các nhà
nghiên cứu cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau và cũng đã đưa ra những quan
niệm về cơ bản thống nhất với nhau về khái niệm đó, chẳng hạn:


- Những điều kiện khách quan là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện
thực quy định và tác động lên mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý
chí của chủ thể hoạt động 4, tr. 19.
- Điều kiện khách quan là tổng thể các mặt, các nhân tố tạo nên một hoàn cảnh
hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể và tác động vào hoạt động của chủ thể
trong hoàn cảnh cụ thể đó 35, tr. 12.
- Điều kiện khách quan là những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại
bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động ở những thời điểm cụ thể nhất định và có
tham gia vào việc quy định kết quả hoạt động của chủ thể 36, tr. 16.
Kế thừa những quan niệm đó, chúng tôi hiểu: Điều kiện khách quan là tổng thể
các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ tồn tại ở bên ngoài chủ thể, độc lập với chủ thể,
hợp thành một hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên tác động, quy định hoạt động của
chủ thể trong mỗi hoạt động xác định.
Từ khái niệm điều kiện khách quan như chúng tôi đã nêu trên cho thấy: Điều
kiện khách quan đó là hoàn cảnh chủ thể tồn tại và hoạt động, nó quyết định hoạt động
của chủ thể. Bởi vì "Bất kỳ một hoạt động nào của chủ thể cũng có thể được thực hiện
khi có những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó đóng vai những tiền đề của hoạt
động" 61, tr. 71-72.
Xét về các yếu tố cấu thành điều kiện khách quan, trước hết phải nói đến những
điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, độc lập với chủ thể xác định và quy
định hoạt động của chủ thể đó. Nếu như các điều kiện vật chất bao giờ cũng là những
điều kiện khách quan xét trong mối tương quan chung với ý thức, song điều kiện khách
quan được xác định cụ thể lại không phải chỉ là những điều kiện vật chất mà còn bao
gồm cả những yếu tố thuộc lĩnh vực ý thức, tư tưởng. Những hiện tượng tinh thần, ý
thức tồn tại khách quan đối với một chủ thể cụ thể, ảnh hưởng đến hoạt động của chủ
thể, đó cũng là yếu tố cấu thành điều kiện khách quan.
Như vậy những yếu tố vật chất và tinh thần tư tưởng tồn tại khách quan với chủ
thể cụ thể, cấu thành hoàn cảnh và tác động đến hoạt động của chủ thế đó đều là những
bộ phận cấu thành điều kiện khách quan.


Nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
Theo quan điểm mác xít, nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan có quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó điều kiện khách quan là tính thứ nhất, nó quy định nhân tố chủ
quan. Vai trò này của điều kiện khách quan được thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: Hoạt động của chủ thể là quá trình thực hiện mục đích nhằm để thỏa
mãn nhu cầu. Vai trò quy định của điều kiện khách quan đối với nhân tố chủ quan thể
hiện ở chỗ, mục đích, mục tiêu chủ thể đặt ra phải xuất phát từ những điều kiện và khả
năng của hiện thực. Đối với con người nói chung, đối với một chủ thể xác định nói
riêng nào đó không phải là họ muốn làm gì, mà họ có thể làm gì. Do đó, chỉ những mục
tiêu nào của chủ thể xuất phát từ khả năng của hiện thực, của điều kiện khách quan thì
hoạt động của chủ thể mới có khả năng thành công. Khẳng định điều đó, Lênin đã từng
viết: "Thật ra, mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế
giới khách quan làm tiền đề" 27, tr. 201.
Hai là: Điều kiện khách quan quy định hoạt động thực tiễn của chủ thể. Tức là,
phương thức hoạt động thực tiễn của chủ thể nó bị quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh
khách quan. Nói về điều này, Mác viết:
Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà có
thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản
thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều kiện vật chất nhiệm vụ đó đã
có rồi, hay ít ra cũng đang ở qua trình hình thành 33, tr. 16.
Từ luận điểm của Mác cho thấy điều kiện khách quan là yếu tố chi phối và
quyết định đến phương tiện và phương pháp hành động của chủ thể.
Ba là: Điều kiện khách quan quy định sự phát triển của nhân tố chủ quan. Điều
đó cũng có nghĩa, tùy ở điều kiện khách quan mà đòi hỏi chủ thể hoạt động cải tạo điều
kiện đó phải có những phẩm chất tương ứng. Khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì
nhân tố chủ quan cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với sự đòi hỏi của điều kiện
khách quan mới.
Tuy bị điều kiện khách quan quy định, nhưng nhân tố chủ quan không phải thụ
động hoàn toàn, mà nó có tính tích cực; tính độc lập tương đối của nó. Vai trò tích cực


và sự tác động sáng tạo trở lại của nhân tố chủ quan đối với điều kiện khách quan, đó là:
Dựa trên năng lực nhận thức của mình, chủ thể xem xét, đánh giá điều kiện khách quan,
từ đó chủ thể đặt ra phương hướng, phương thức để thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài
ra, nhân tố chủ quan, bằng hoạt động thực tiễn, chủ thể đã cải tạo điều kiện, hoàn cảnh
khách quan; tạo ra những điều kiện khách quan thuận lợi cho hoạt động của mình. Thực
chất vai trò nhân tố chủ quan ở đây, là sự phát hiện ra những khả năng khách quan, trên
cơ sở những điều kiện, phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh khách quan để biến
đổi hoàn cảnh theo quy luật vận động vốn có của nó.
1.1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội
Lịch sử xã hội là lịch sử của con người, do con người. Hành động làm nên lịch
sử xã hội đầu tiên của con người, đó là con người tiến hành cải tạo thế giới tự nhiên
nhằm đáp ứng những nhu cầu của mình. Khẳng định điều đó, trước đây Lênin đã từng
chỉ ra: "Thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới
bằng hành động của mình" [28, tr. 229]. Chính bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con
người đã xác lập nên mối quan hệ khách quan giữa con người với con người trong việc
cải tạo tự nhiên, từ đó tạo ra các quan hệ xã hội của con người và tạo thành xã hội. Do
đó "xã hội với tính cách là hệ thống là tổng thể những hình thức hoạt động khác nhau
của con người, các quan hệ xã hội" [61, tr.106].
Xã hội ra đời không ngừng vận động và phát triển, quá trình phát triển đó bao
giờ cũng sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Trong sự tác động lẫn nhau giữa điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan bao giờ cũng giữa vai trò quyết định. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa, nhân tố chủ quan hoàn toàn thụ động và lệ thuộc vào
điều kiện khách quan mà nó có thể chuyển được các điều kiện khách quan thành nội
dung hoạt động tự do sáng tạo của mình. Chính vì vậy nhân tố chủ quan có vai trò to lớn
trong tiến trình phát triển của lịch sử [35, tr. 24]. Vai trò nhân tố chủ quan đối với quá
trình phát triển của xã hội biểu hiện ở chỗ, bằng hoạt động có ý thức; bằng tính tích cực
và tự giác của mình các chủ thể lịch sử nhận thức những điều kiện khách quan; quy luật


khách quan của xã hội, từ đó điều chỉnh các điều kiện khách quan, vận dụng các quy
luật khách quan theo yêu cầu và mục đích của chủ thể [57, tr. 95].
Lịch sử đã chứng minh, sự kết hợp giữa điều kiện khách quan đã chín muồi và
nhân tố chủ quan được phát huy cao độ sẽ gây tác động mạnh mẽ, có ảnh hưởng to lớn
đến sự phát triển của xã hội, nhất là việc phát huy vai trò tích cực, tự giác, vai trò chủ
động sáng tạo của nhân tố chủ quan. Nhấn mạnh và khẳng định điều đó, trước đây khi
phân tích về điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội, V.I.Lênin
đã chỉ ra nhân tố chủ quan trở thành khâu quyết định để một cuộc cách mạng xã hội nổ
ra và đi đến thành công. Người đã viết:
Không phải tình thế cách mạng nào cũng làm nổ ra cách mạng, mà chỉ có
trong trường hợp là cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có
thêm một thay đổi chủ quan, tức là giai cấp cách mạng có khả năng phát động
hành động cách mạng có tính chất quần chúng khá mạnh mẽ đập tan (hoặc lật đổ)
chính phủ cũ, là chính phủ, ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng,
cũng sẽ không bao giờ "đổ" nếu không đẩy cho nó "ngã" [27, tr. 264].
Quan điểm trên đây của V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, để cách mạng nổ ra và đi đến
thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Đó là tính tự giác, sự giác
ngộ về tư tưởng, ý chí, nghị lực cách mạng của giai cấp làm cách mạng. Nếu thiếu sự
biến đổi, sự nỗ lực chủ quan thì cách mạng chỉ là một khả năng mà thôi.
Quá trình vận động, phát triển của xã hội luôn tuân theo những quy luật khách
quan vốn có của nó. Các quy luật khách quan không thể do bất kỳ người nào sáng tạo
ra. Nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của những điều kiện khách quan nhất định. Khi
các điều kiện khách quan mất đi, tiêu diệt đi, thì đồng thời các quy luật tương ứng cũng
mất hiệu lực, không còn tồn tại nữa. Điều đó hoàn toàn đúng với cả tự nhiên cũng như
trong thời sống xã hội. Bởi vì, tuy trong xã hội sự hình thành hay biến đổi của những
điều kiện khách quan trong đời sống xã hội do hoạt động của con người tạo ra, nhưng
quá trình hoạt động của con người là một quá trình khách quan. Nói cách khác, tùy theo
các điều kiện khách quan hiện đang tồn tại, con người bước vào những quan hệ tất yếu,

không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của họ; những quan hệ ấy biểu hiện các quy luật

khách quan của xã hội tương ứng với những điều kiện khách quan ấy. Ví dụ, trong đời
sống xã hội, trong điều kiện còn tồn tại một số người này có tư liệu sản xuất, còn một số
người khác thì hoàn toàn không có (hoặc có không đáng kể) và đồng thời được tự do về
mặt pháp luật, thì hai loại người ấy nhấn định có quan hệ với nhau với tính cách là nhà
tư bản và công nhân làm thuê. Do vậy, tất yếu quy luật giá trị thặng dư thực hiện trong
những quan hệ ấy.
Từ những nội dung trên đây chỉ ra, quy luật khách quan trong sự phát triển của
xã hội không phải hoàn toàn bất biến, nó sẽ bị thay đổi mức độ phát huy tác dụng của
nó khi điều kiện khách quan bị thay đổi. Vì vậy vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát
triển của xã hội là ở chỗ, nhân tố chủ quan biết vận dụng những điều kiện khách quan
này, để xóa bỏ điều kiện khách quan khách theo những quan hệ tất yếu, vốn có trong sự
phát triển của hiện thực khách quan. Từ đó làm mất hiệu lực của một quy luật khách
quan nhất định làm cho quy luật khách quan mới phát huy tác dụng. Tức là căn cứ vào
lợi ích của thực tiễn, chủ thể có thể đẩy mạnh, hoặc ngược lại kìm hãm tác dụng của
một quy luật nào đó hay của cả một loạt quy luật. Điều đó cũng có nghĩa, trong quá
trình hoạt động thực tiễn của các chủ thể lịch sử, bằng năng lực chủ quan của mình đã
nẩy ra những phương pháp nhấn định về việc sử dụng, áp dụng những quy luật khách
quan. Khi thay đổi những điều kiện khách quan, thì có thể hướng dẫn, thay đổi hoặc
ngăn ngừa sự phát huy tác dụng của các quy luật.
Sự vận động và phát triển của xã hội biểu hiện trên những nấc thang của nó,
tương xứng với mỗi nấc thang phát triển là một chế độ kinh tế - xã hội. Trong mỗi chế
kinh tế - xã hội cùng tồn tại và phát huy tác dụng của nhiều quy luật khách quan, trong
đó vai trò phát huy tác dụng của các quy luật khách quan đối với chế độ kinh tế - xã hội
đó không phải là ngang nhau. Ngoài ra, trong đời sống xã hội, quy luật xã hội bao giờ
cũng tác động lẫn nhau với quy luật tự nhiên. Quy luật của tự nhiên ảnh hưởng đến xã
hội thông qua tác dụng của chính quy luật xã hội. Như vậy, vai trò nhân tố chủ quan còn
được thể hiện ở chỗ, dựa trên năng lực nhận thức các quy luật khách quan (tự nhiên - xã
hội), các chủ thể điều chỉnh một cách tự giác sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật

khách quan, làm cho các quy luật phát huy tác dụng có lợi nhất đối với chủ thể. Nhân tố

chủ quan biết vận dụng sự liên hệ lẫn nhau của các quy luật có thể tăng cường tác dụng
của mỗi quy luật bằng cách tạo ra những điều kiện khách quan làm cho sự thích ứng
phát huy tác dụng tổng hợp của các quy luật khách quan đó.
Sự vận động và phát triển của hiện thực xã hội luôn có rất nhiều khả năng xảy
ra. Những khả năng khách quan cho quá trình phát triển phụ thuộc vào những điều kiện
khách quan của nó, sở dĩ những điều kiện này hoặc những điều kiện khác tạo ra những
khả năng nhất định chính là do sự quy định của những quy luật khách quan tồn tại trong
đời sống xã hội. Nó biểu hiện mối liên hệ hợp quy luật giữa các điều kiện với những
hiện tượng mà khả năng của những hiện tượng này là do các điều kiện đó tạo ra. Do vậy
vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội chính là quá trình, các chủ thể lịch sử
lựa chọn và hiện thực hóa các khả năng phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử; phù
hợp với yêu cầu và lợi ích của mình. Muốn vậy, điều đặc biệt quan trọng là người ta
phải hiểu được khả năng khách quan này nay khả năng khách quan khác đến mức như
thế nào để sử dụng nó, người ta có muốn sử dụng nó không, ý chí và lòng quyết tâm
thực hiện nó như thế nào v.v Như vậy, trong việc thực hiện những khả năng phát triển
của xã hội, ngoài những điều kiện khách quan, cái có ý nghĩa to lớn là vai trò nhân tố
chủ quan, là yếu tố có ý thức, có mục đích khi sử dụng những điều kiện khách quan cần
thiết để biến khả năng thành hiện thực. Các chủ thể lịch sử bằng những phẩm chất vốn
có của mình - nhân tố chủ quan, tìm ra con đường, những biện pháp, phương tiện tối ưu
hiện thực hóa khả năng, thúc đẩy nhanh quá trình lịch sử. Nhấn mạnh điều đó, trước đây
cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết:
Trong hoàn cảnh lịch sử nhất định bao giờ cũng có thể có nhiều khả
năng tiến lên. Và sự vật tiến lên theo khả năng này hay khả năng khác còn
tùy thuộc vào ý định của con người. Cũng như để đạt được mục đích nhất
định, không phải chỉ có một con đường mà có thể có nhiều con đường, giống
như đi đến một điểm trung tâm, người ta có thể đi từ trên xuống, hoặc từ
dưới lên, từ tả qua hay từ hữu lại. Đi theo con đường nào, cái đó do con
người quyết định [8, tr. 116].

Vai trò nhân tố chủ quan đối với sự phát triển của xã hội đó là, trong tiến trình

hoạt động của mình, các chủ thể bảo đảm một cách tự giác và có mục đích cho các quy
luật khách quan, những khả năng khách quan phát huy tác dụng và được hiện thực hóa
theo một chiều hướng nhất định. Quá trình phát triển của xã hội phải xuất phát, dựa trên
những điều kiện khách quan, nhưng những điều kiện khách quan chỉ thực sự trở thành
nhân tố động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội khi có được sự phát huy vai trò to lớn
của nhân tố chủ quan.
1.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần và chế độ sở hữu chuyển qua kinh
tế nhiều thành phần và đa dạng sở hữu; Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển
quan cơ chế thị trường; Từ một nền kinh tế đóng cửa chuyển qua nền kinh tế mở cửa
với bên ngoài - Đó là sự chuyển hướng lớn lao, một sự thay đổi sâu sắc trong xây dựng
nền kinh tế ở nước ta. Nhưng toàn bộ sự chuyển hướng đó, không phải là chúng ta đã
thay đổi mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và thực hiện suốt
mấy thập kỷ qua. Sự thay đổi đó, chỉ là sự thay đổi về biện pháp; về bước đi để chúng ta
càng có khả năng sớm đến với mục tiêu XHCN.
1.2.1. Phát triển theo hướng XHCN - một khả năng khách quan của nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Cách mạng XHCN tháng Mười năm 1917 thành công đã mở ra một thời đại
mới: thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Ngày nay, tuy CNXH đang lâm vào một thời kỳ khủng hoảng, thoái trào, nhiều
mô hình CNXH hiện thực đã bị đổ vỡ. Nhưng không phải vì thế mà tính chất của thời
đại đã thay đổi. Khẳng định điều đó, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Đảng ta cho rằng: "Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội" [13, tr. 76].
Nền kinh tế còn nghèo so với thế giới và khu vực. Vì vậy, cũng phải thấy rằng,
chúng ta lựa chọn con đường phát triển của đất nước theo con đường XHCN trong dòng

chảy lịch sử tự nhiên, với những quy luật vốn có của nó, là sự lựa chọn đúng đắn, nhưng
hết sức khó khăn. Biện chứng của cuộc sống đã tạo ra một thời đại mới, với những khả

năng mới, để các nước lạc hậu có thể tiến lên CNXH nhưng đấy là con đường đồng
nghĩa với khó khăn, phức tạp.
Muốn quá độ lên CNXH, trước hết phải có lực lượng sản xuất phát triển. Đất
nước ta có thể quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là xu hướng và khả năng
khách quan của thời kỳ lịch sử hiện nay. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua những tiền
đề kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội cần thiết cho sự quá độ đó. Cái thiếu hụt lớn của
nước ta là lực lượng sản xuất chưa phát triển. Với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp
kém và phát triển không đồng đều chúng ta không thể thiết lập tràn lan quan hệ sản xuất
XHCN. Vì vậy đà phát triển lực lượng sản xuất, tạo tiền đề vật chất và thuận lợi cho
CNXH chúng ta phải thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Chỉ có phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần mới phù hợp với thực trạng trình độ thực tế của lực lượng sản xuất
ở nước ta; chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta mới có khả năng huy
động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật; mới có khả năng tạo thêm công ăn việc làm
và phát huy nguồn lao động dồi dào ở nước ta để đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản
xuất, tăng trưởng kinh tế [37, tr.35]. Như vậy, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là
nhu cầu khách quan và phù hợp với quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN đối
với nước ta. Đó là con đường để tạo ra tiền đề kinh tế kỹ thuật cần thiết cho sự quá độ
lên CNXH.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay là, nền kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường liệu có thể phát triển theo định hướng XHCN được hay không?
Đây không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề thực tiễn nóng bỏng. Thực tiễn hàng
ngày, hàng giờ đang đòi hỏi chúng ta phải lý giải và khẳng định được trên thực tế xu
hướng phát triển đó.
Nghiên cứu những điều kiện khách quan (trong và ngoài nước), cho đến nay
chúng ta có căn cứ khẳng định rằng định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta là một xu hướng khách quan, một khả năng khách quan có đầy triển vọng.

Trước hết những điều kiện khách quan quốc tế: Ngày nay với sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nó đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, với đặc điểm cơ bản so với thời kỳ trước đây đó là trí tuệ đóng vai trò là trung

tâm. Các thành tựu, các phát minh khoa học đã nhanh chóng được ứng dụng vào quá
trình sản xuất; vào quá trình đổi mới công nghệ. Do vậy, khoa học đã mở ra khả năng to
lớn cho phép con người, các quốc gia dân tộc, bằng ứng dụng những quy trình công
nghệ hiện đại, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nâng trình độ phát
triển quá trình sản xuất của xã hội lên một trình độ mới về chất.
Bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội thể hiện ở
chỗ, nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới bước vào một thời kỳ phát triển cao
chưa từng có, sự phát triển đó được thực hiện trên tất cả các yếu tố cấu thành lực lượng
sản xuất. Trong đó, nhất là yếu tố người lao động. Đội ngũ người lao động ngày nay đòi
hỏi phải có hàm lượng trí tuệ cao; có chuyên môn cơ bản. Sự chuyển hóa về chất của
lực lượng sản xuất kéo theo nó hàng loạt các chuyển biến khác về lao động sản xuất của
con người ngay cả trong sản xuất cũng như khâu tổ chức và quản lý nền sản xuất. Từ đó,
tạo ra những phương hướng, cách thức mới cho mọi quốc gia trong việc lựa chọn con
đường phát triển kinh tế của mình, nhất là việc lựa chọn cách thức khai thác các nguồn
lực cho phát triển kinh tế. Trong đó nguồn lực người lao động được xác định là một
trong các nguồn lực quan trọng.
Có thể nói, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, do đó mở
ra một thời cơ lớn cho các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) có thể sử dụng;
lợi dụng nó nhằm để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Vì, nếu biết tận dụng đúng đắn
những thành tựu của khoa học - công nghệ thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn có thể
chuyển từ nước lạc hậu trở thành nước công nghiệp phát triển, và như vậy rút ngắn được
khoảng cách so với các nước phát triển.
Chính những thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ mang lại và sự tác
động của nó đã thúc đẩy quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới. Xu thế hội nhập
vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia, dân tộc trở nên tất yếu khách quan. Bởi vậy,
ngay ở các nước tư bản phát triển, giai cấp tư sản đã có những bước điều chỉnh lớn về

quan hệ sản xuất cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của xu thế đó. Các công ty tư bản
mở rộng sự liên kết, đầu tư và đi kèm động thái sát nhập nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh. Từ đó thúc đẩy nhanh sự phát triển của quá trình chu chuyển vốn bằng con đường

đầu tư, làm cho quá trình sản xuất và dịch vụ mang tính chất quốc tế hóa. Nền kinh tế
thế giới hiện nay đã phá vỡ tính chất tự khép kín, biệt lập cả về sản xuất và dịch vụ ở
mỗi quốc gia cũng như từng khu vực. Quá trình đó đã làm cho thị trường trong từng
quốc gia; ở từng khu vực có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường ngoài nước cũng như
ngoài khu vực. Thị trường trong từng quốc gia có được những điều kiện khách quan để
nhanh chóng tiếp cận thị trường các quốc gia khác trên phạm vi quốc tế bằng cách mở
rộng hợp tác kinh tế đối ngoại và hoạt động ngoại thương.
Từ sự biến đổi của nền kinh tế thế giới, tạo ra tính thống nhất về thị trường thế
giới như đã nêu trên, ngoài ra xu thế toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới quá trình
phân công lao động và hợp tác quốc tế. Thực tiễn đã chỉ rõ, đây là yêu cầu tất yếu của
việc hội nhập để phát triển kinh tế, nó đang thực sự là nhân tố kích thích nền kinh tế của
mỗi quốc gia vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Điều đó đã tạo ra một điều kiện thuận
lợi, một cơ hội để mỗi quốc gia có thể phát huy triệt để các lợi thế của mình, tăng cường
tính độc lập và tính phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng, hợp tác cùng có lợi
giữa các nước với nhau. Toàn bộ những quá trình đó đã mở ra những mối quan hệ quốc
tế rộng lớn theo xu thế quan hệ đa phương. Thông qua các mối quan hệ quốc tế rộng
lớn, đó là những điều kiện thuận lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế, cho phép chúng ta có
thể tranh thủ những mặt tích cực, thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản
xuất, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu kinh tế.
Với những nội dung đã được đề cập và phân tích trên đây cho thấy, quá trình
chúng ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn những điều kiện
khách quan quốc tế. Mà trước hết là sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ; xu thế toàn cầu hóa về kinh tế. Nếu như chúng ta có được những chủ trương và
định hướng đúng đắn, lựa chọn được những lợi thế quốc tế bằng việc xây dựng những
chủ trương phù hợp thì khả năng đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là một thực tế. Và

như vậy việc định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo hướng XHCN là
một khả năng khách quan cho phép. Tuy vậy cũng phải thấy rằng cùng với những mặt
thuận lợi như đã phân tích, với điều kiện quốc tế hiện nay còn tiềm ẩn những khó khăn

trong quá trình định hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế của nước ta.
Khẳng định khả năng khách quan phát triển theo định hướng XHCN của nền
kinh tế nhiều thành phần còn bắt nguồn từ chính thực tiễn sau hơn 10 năm đổi mới ở
nước ta.
Trước thời kỳ đổi mới, do chưa nhận thức và quán triệt đầy đủ đặc điểm và
hoàn cảnh bao trùm của nước ta, đó là đi nên CNXH với một xuất phát điểm về kinh tế
còn thấp; từ một nước nông nghiệp lạc hậu chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN nên
chúng ta đã vấp phải những sai lầm lệch lạc, chủ quan. Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta
đã nóng vội xóa bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN, thiết lập ngay nền kinh tế XHCN
thuần nhất dưới hai hình thức kinh tế quốc doanh và tập thể. Điều đó thể hiện rõ nét
trong phong trào hợp tác hóa ở miền Bắc vào những năm 1958-1976 và trong cải tạo
công thương nghiệp ở miền Nam năm 1978. Từ đó, làm cho nền kinh tế ở nước ta
không những không phát triển mà còn bị suy thoái, nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế
của đất nước không được khai thác và phát huy.
Nhận thức ra những lệch lạc sai lầm trên đây, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Đó là một cuộc biến đổi sâu sắc trong tư duy
chính trị về CNXH của Đảng, là biểu hiện năng lực nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan quá trình phát triển của xã hội. Vì:
Một xã hội, ngay cả khi phát hiện được quy luật tự nhiên của sự
vận động của nó cũng không thể nào nhảy qua được các giai đoạn phát triển
tự nhiên hay dùng sắc lệnh xóa bỏ những giai đoạn đó, nhưng có thể rút
ngắn, làm dịu bớt những cơn đau đẻ [34, tr. 21].
Quán triệt quan điểm có tính nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đã chủ động xây
dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường theo
định hướng XHCN.

Với đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và đã được Đảng ta đề ra từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) và tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện trong
các văn kiện tiếp theo, đã tạo thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế
nước ta thời gian qua.

Từ thực tiễn, nhất là thời kỳ thực hiện định hướng XHCN sự phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần ở nước ta (từ Đại hội VII tháng 6/1991 của Đảng) đến nay. Nền
kinh tế nước ta đã có bước phát triển vượt bậc. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
từng bước được phát triển, cơ chế thị trường ngày càng được hình thành rõ nét và phát
triển theo hướng văn minh hiện đại, luôn có sự quản lý và điều tiết của nhà nước.
Nước ta vốn là nước có nguồn lao động dồi dào, thực tiễn những năm qua, các
thành phần kinh tế đã thu hút được một tiềm năng lớn sức lao động xã hội dư thừa vào
quá trình sản xuất. Do vậy, kinh tế nhiều thành phần đã và đang đóng vai trò tích cực
vào việc giải quyết việc làm cho xã hội, tăng thu nhập và mức sống cho đội ngũ người
lao động ở nước ta. Từ đó, làm cho đời sống xã hội có bước phát triển và ổn định.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta, không
phải là vận động và phát triển theo hướng bất kỳ, mà theo định hướng XHCN. Do đó,
kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác luôn được Đảng ta xác định là nền tảng vật chất của
chế độ mới. Những năm qua, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là hai thành phần kinh
tế đang được phát triển mạnh, từng bước thể hiện vai trò nòng cốt và đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với kinh
tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, nên đã làm cho cơ cấu sở
hữu nhà nước được đổi mới, tạo ra động lực thúc đẩy việc sử dụng có hiệu quả tài sản
nhà nước và huy động vốn xã hội vào quá trình phát triển kinh tế; góp phần thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH. Chúng ta đã khắc phục tình trạng hoạt động tách biệt trong từng
thành phần kinh tế, "nhất là tình trạng cách bức giữa doanh nghiệp nhà nước với các
thành phần kinh tế khác" [1, tr. 33]. Đó là quá trình không ngừng hoàn thiện sự hợp tác
và đa dạng hóa các hình thức hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Thông qua đó kinh tế
Nhà nước từng bước thực hiện vai trò chủ đạo và điều tiết các thành phần kinh tế khác.

Như vậy, xét trên lĩnh vực kinh tế, thời gian qua ở nước ta đã có những bước
phát triển đáng kể, kinh tế tăng trưởng nhanh, lạm phát được đẩy lui mức độ đầu tư phát
triển cho quá trình sản xuất tăng đáng kể. Kinh tế nhà nước không ngừng được củng cố
theo hướng tuy có giảm về số lượng nhưng tăng tính hiệu quả trong cạnh tranh, bước
đầu thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất XHCN

tiếp tục được xác lập và củng cố. Quá trình đó được thực hiện trên cả ba phương diện.
Về sở hữu, một mặt chúng ta tiếp tục duy trì chế độ sở hữu công cộng với
những tư liệu sản xuất chủ yếu, trong đó nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Mặt khác,
chúng ta đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu cho phù hợp với trình độ phát
triển thực tế của lực lượng sản xuất, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Về quản lý, thông qua đổi mới chế độ quản lý đối với nền kinh tế nhiều thành
phần, trước hết là cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế nhà nước, chúng ta đã dần
dần tạo lập được cơ chế để người lao động thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát
quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia quyết định những vấn đề lớn của doanh nghiệp.
Cùng với đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, chúng ta đã tiến hành đổi mới kinh tế HTX.
Trên quan điểm "HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động
trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần đóng góp; mỗi xã
viên có quyền ngang nhau đối với công việc chung" [13, tr. 95]. Vì vậy, những năm qua
các doanh nghiệp nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã đã có sự vươn lên trong
nền kinh tế. Những đổi mới quản lý đó đã khắc phục được tình trạng: tha hóa về chế độ
sở hữu; tình trạng "cha chung không ai khóc" trước đây.
Về phân phối, quan hệ phân phối không ngừng được củng cố và đổi mới. Quá
trình phân phối có sự thay đổi lớn, đã kết hợp chặt chẽ giữa nhiều hình thức phân phối
làm cho quá trình phân phối ngày càng hợp lý, bảo đảm tính công bằng và tạo ra động
lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.
Bên cạnh tiền đề kinh tế khách quan như đã nêu trên, trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, một điều kiện khách quan rất cơ bản và có ý
nghĩa to lớn, tạo ra khả năng phát triển theo hướng XHCN ở nước ta đó là chúng ta có

một hệ thống chính trị vững chắc, đã được tôi luyện và thử thách trong đấu tranh cách
mạng luôn được quần chúng tin yêu. Quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
hệ thống chính trị ở nước ta tiếp tục được đổi mới cho phù hợp với kết cấu kinh tế - xã
hội; luôn giữ vững được sự ổn định về chính trị xã hội. Đó là cơ sở khách quan cho quá
trình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN.

Từ toàn bộ những lập luận trên đây, chúng ta có thể khẳng định, định hướng
XHCN, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là khả năng khách quan. Vấn đề đặt
ra là liệu có thể phát huy được vai trò nhân tố chủ quan, biến khả năng khách quan đó
trở thành hiện thực được hay không? Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
1.2.2. Vai trò nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm định hướng XHCN sự
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Sự lựa chọn và định hướng đất nước phát triển theo con đường XHCN là hợp
với quy luật khách quan của lịch sử; là sự lựa chọn có tính đến đầy đủ các điều kiện
khách quan trong nước và quốc tế của Đảng ta trong việc lãnh đạo đất nước. Tuy nhiên
cũng phải thấy rằng đây là sự nghiệp đầy khó khăn và phức tạp.
Định hướng XHCN sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là
một xu hướng khách quan, một khả năng khách quan. Nhưng xu hướng và khả năng đó
không thể tự phát biến thành hiện thực. Hay nói cách khác sự nghiệp định hướng đó đòi
hỏi sự nỗ lực rất cao vai trò của nhân tố chủ quan, của chủ thể. Đó là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân, của cả dân tộc. Do giới hạn và điều kiện nghiên cứu, luận văn chỉ tập
trung chủ yếu vào tìm hiểu vai trò định hướng chính trị trong phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước, hai chủ thể có vai trò quan trọng nhất bảo đảm định hướng XHCN
sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đảng Cộng sản - nhân tố cơ bản bảo đảm quá trình định hướng XHCN sự phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân làm chủ; có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất

×