Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD của học sinh ở THPT pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.39 KB, 119 trang )


1












LUẬN VĂN:
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD
của học sinh ở THPT








2

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là đào tạo con người


mới, phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước
cũng như phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
nước ta đã được cụ thể hoá trong luật giáo dục năm 2005 như sau:
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào công cuộc lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[21; 21].
ở cấp học phổ thông, môn GDCD là một trong những môn học cơ bản góp
phần tạo nên nội dung hạy học, giáo dục toàn diện nhân cách học sinh. Nhiệm vụ
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật cho học sinh được thực hiện ở tất
cả các môn học và được thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Nhưng
chỉ có môn GDCD mới có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức đó theo
một hệ thống xác định và toàn diện.
Song thực tế, nhiều nhà trường của chúng ta hiện nay xem môn học này như
một môn "phụ". Việc đánh giá học lực, ý thức, thái độ học tập của các em cũng chủ
yếu dựa trên kết quả của các môn tự nhiên, các môn chuyên, môn "chính" như văn,
toán, ngoại ngữ Vì sự coi nhẹ đó mà chất lượng học môn GDCD ở nhiều trường
không cao. Điều đó không chỉ thể hiện ở điểm số trong sổ điểm mà cả trong suy
nghĩ, tình cảm và hành động của các em học sinh. Có lẽ đây cũng là một trong
những nguyên nhân góp phần vào sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận không
nhỏ thanh niên học sinh hiện nay?

3

Thực trạng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân như: nội dung chương trình
GDCD ở phổ thông còn thiếu tính thời sự, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
phương tiện dạy học quá sơ sài, nghèo nàn không gây được hứng thú học tập cho
học sinh Và một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng trên đó là

cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với bộ môn GDCD ở
THPT hiện nay.
Trong khi đó, giáo dục phổ thông đang yêu cầu đổi mới theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá và đa dạng hóa. Sự đổi mới này đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng
bộ trên tất cả các khâu của quá trình đào tạo từ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá, cơ sở vật chất…
Để đánh giá kết quả học tập của học sinh có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau như quan sát, vấn đáp, trắc nghiệm (tự luận, khách quan). Mỗi phương
pháp đều có ưu điểm và hạn chế của nó. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể của từng phần,
từng bài học mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
Việc kiểm tra hiện nay chủ yếu là tự luận rất đơn điệu, vì tiêu chí đánh giá
chủ yếu là dựa trên khả năng ghi nhớ. Việc kiểm tra, đánh giá như vậy không phản
ánh được thực chất năng lực học tập của học sinh và không tạo được hứng thú học
tập cho học sinh.
Qua quá trình tìm hiểu vấn đề trên, tôi thấy có rất nhiều công trình nghiên
cứu về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở nhiều cấp học, ở nhiều
môn, nhưng đi sâu vào nghiên cứu việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở bộ môn GDCD bậc THPT thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy,
chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập môn GDCD của học sinh ở THPT".
2. Mục đích nghiên cứu

4

Trên cơ sở tìm hiểu về lí luận và thực tiễn vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD, đề tài nhằm đề xuất một số biện pháp tác động tới nội dung,
phương pháp, phương tiện kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học bộ môn này ở trường THPT Thái Phiên
thành phố Hải Phòng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn GDCD của học sinh trường
THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD của học sinh ở trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Vấn đề kiểm tra,đánh giá kết quả học tập môn GDCD có vai trò quan trọng
góp phần quyết định chất lượng dạy - học của bộ môn này ở THPT. Nếu vấn đề này
được đổi mới với hệ thống các phương pháp, hình thức, phương tiện kiểm tra, đánh
phù hợp nó sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu cho các nhà quản lí nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường, nâng cao tinh thần chủ động, sáng tạo
của giáo viên, tính tích cực học tập, rèn luyện của học sinh ở THPT Thái Phiên nói
riêng và các trường THPT nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5

5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề kiểm tra, đánh giá nói chung và các
biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
THPT nói riêng.
5.2. Tìm hiểu thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD
của học sinh ở trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng và nguyên nhân của
thực trạng đó.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập môn GDCD ở THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
6. Giới hạn đề tài
Nghiên cứu những biện pháp tác động đến quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD của học sinh ở trường THPT thuộc thành phố Hải Phòng.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan tới vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Lập hai loại phiếu điều: Một mẫu dành cho giáo viên và một mẫu dành cho
học sinh. Trong đó mẫu dành cho giáo viên là 25 phiếu, mẫu dành cho học sinh là
200 phiếu. Địa bàn điều tra là trường THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.

6

7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát các buổi kiểm tra (cả các giờ kiểm tra bài cũ) môn GDCD ở trường
THPT Thái Phiên và dự các giờ ngoại khoá ở các lớp. Nội dung quan sát tập trung
vào cách thức ra đề, tổ chức kiểm tra, chấm bài, sử dụng công cụ, phương tiện trong
kiểm tra.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Hỏi ý kiến các nhà khoa học giáo dục về cách thức kiểm tra, đánh giá môn
học như thế nào để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
7.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Để tính toán, so sánh số liệu trong quá trình nghiên cứu.
7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tổng kết kinh nghiệm công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở một số trường tiên tiến.
8. cấu trúc luận văn
Gồm 3 phần
Phần một: Mở đầu
Phần hai: 3 Chương
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của

học sinh THPT.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
GDCD của học sinh THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.

7

Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập môn GDCD của học sinh THPT Thái Phiên thành phố Hải Phòng.
Phần ba: Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục





8

Chương 1
Cơ sở lí luận về vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh Trung học phổ thông
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mọi hoạt động giáo dục đều bắt đầu từ việc xác định mục tiêu và kết thúc
bằng đánh giá. Đánh giá có liên quan chặt chẽ với kiểm tra, dựa vào kết quả của
kiểm tra và là kết quả của kiểm tra. Do đó kiểm tra, đánh giá thường đi liền với
nhau, kiểm tra là để đánh giá và đánh giá phải dựa vào kiểm tra, là mục đích của
kiểm tra [18; 56].
Cùng với sự ra đời của lí luận dạy học, lí luận kiểm tra, đánh giá là một phạm trù
được các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về giáo dục rất quan tâm vì nó có
chức năng quan trọng trong hoạt động giáo dục.
1.1.1. Trên thế giới

Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa (thế kỷ XV - XVIII) lần đầu tiên trong lịch sử
giáo dục thế giới, nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Comensky đã đặt nền móng cho lý
luận dạy học ở nhà trường và xây dựng thành một hệ thống vấn đề trong tác phẩm
"Lý luận dạy học vĩ đại", trong đó có nêu ý nghĩa, vai trò của kiểm tra, đánh giá quá
trình lĩnh hội tri thức của học sinh, ông lưu ý việc kiểm tra, đánh giá phải căn cứ
vào mục tiêu học tập và hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kiến thức của bản
thân.
Về sau các nhà nghiên cứu lý luận dạy học đã phân tích và phát triển lý luận
kiểm tra, đánh giá ở các góc độ: vai trò, ý nghĩa, mục tiêu, nội dung, nguyên tắc và
phương pháp nhằm đảm bảo tính khách quan của việc kiểm tra, đánh giá. Chẳng
hạn nhà giáo dục V.M. Palonsky đòi hỏi: "Đánh giá kiến thức phải thực hiện một

9

quá trình, quá trình đó bao gồm một số yếu tố như: nhận thức đúng mục đích kiểm
tra và đánh giá xuất phát từ mục đích dạy học, xác định đúng các bậc thang đánh giá
kết quả nắm tri thức của học sinh làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan và xác
định các hình thức phù hợp".
ở Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu trước đây đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá, song trên thực tế các công trình nghiên cứu chủ
yếu bàn về kiểm tra, đánh giá kiến thức học sinh thông qua các hình thức trắc
nghiệm truyền thống như kiểm tra vấn đáp hoặc bài viết (trắc nghiệm tự luận) chứ
chưa quan tâm đến việc kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
Từ thế kỷ XVIII việc nghiên cứu lý thuyết phương pháp trắc nghiệm khách
quan đã được bắt đầu và đến đầu thế kỷ XIX đã được triển khai rộng rãi ở các nước
kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, đặc biệt ở Mỹ ngày nay đã đạt được thành
tựu rất cao về công nghệ trắc nghiệm [18; 56].
Vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập được các tác giả nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa và tầm
quan trọng của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Từng bước xây dựng, hoàn thiện

cơ sở lí thuyết, cơ sở thực tiễn và quy trình cho kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
1.1.2. ở Việt Nam
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá tri thức học sinh
của một số nước trên thế giới, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu và
nhiều bài viết của các tác giả tiêu biểu được đăng tải trên các tạp trí chuyên ngành,
các kỷ yếu khoa học trong các cuộc hội thảo cấp quốc gia bàn về kiểm tra, đánh giá
chất lượng học tập của học sinh.
Các tác giả Lê Khánh Bằng [1], Hà Thị Đức [6], Trần Bá Hoành [12], Đặng
Vũ Hoạt [8] với các bài viết xoay quanh thực trạng và giải pháp kiểm tra, đánh giá

10

trong giáo dục của nước ta trong vài thập kỷ gần đây như: "Một số vấn đề kiểm tra,
đánh giá tri thức của học sinh"; "Đánh giá trong giáo dục"; "Kiểm tra, đánh giá tri
thức của học sinh trong lịch sử giáo dục và nhà trường"; "Cơ sở lí luận của việc
đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông". Trong đó tác giả Đặng Vũ
Hoạt với bài viết của mình đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm tra,
đánh giá tri thức kĩ năng, kĩ xảo của học sinh. Với tư cách là người nghiên cứu sâu
về lí luận dạy học, tác giả đã trình bày những vấn đề về vị trí, chức năng và các
quan điểm kiểm tra, đánh giá tri thức của học sinh dưới góc độ lý luận dạy học hiện
nay. Theo tác giả, việc kiểm tra, đánh giá tri thức là một khâu không thể tách rời
của quá trình dạy học. Khi tiến hành kiểm tra, đánh giá cần thực hiện tốt chức năng
phát hiện- điều chỉnh, chức năng củng cố- phát triển, chức năng giáo dục. Để thực
hiện tốt chức năng đó, việc kiểm tra, đánh giá cần tuân theo những nguyên tắc sau:
Đảm bảo tính thường xuyên, tính hệ thống, đảm bảo tính toàn diện, tính phát triển
và đặc biệt là đảm bảo tính khách quan. Tác giả cho rằng đảm bảo tính khách quan
là quan trọng nhất. Nó chẳng những giúp cho việc kiểm tra, đánh giá tri thức mang
lại hiệu quả cao mà còn góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của
học sinh.
Các tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt [9], Bùi Tường, Hà Thị Đức [10],

Phó Đức Hoà [12], Trần Thị Tuyết Oanh [22] đi sâu vào nghiên cứu một cách có
hệ thống những cơ sở lý luận chung của vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
Đây là những công trình nghiên cứu đã chính thức được sử dụng làm giáo trình
giảng dạy trong các trường đại học sư phạm.

Mặc dù vấn đề kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học đã được sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học với các khía cạnh khác nhau. Nghiên cứu về vấn đề
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thì từ trước tới nay đã có rất nhiều
tác giả tham gia, ở các cấp độ như luận văn thạc sỹ hay luận án tiến sỹ đều có cả.
Nhìn chung các quan điểm về đánh giá kết quả học tập của học sinh trong nhà trường

11

đều cho thấy: việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải theo một qui trình hợp lí
thì mới đạt được tính chính xác, khách quan.
Song trong quá trình tìm hiểu vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh, chúng tôi thấy chưa có đề tài nào đi vào nghiên cứu kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của bộ môn GDCD ở THPT. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề:
"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn giáo
dục công dân ở trường Trung học phổ thông" làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm biện pháp
Biện pháp là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong khoa học giáo dục. Biện
pháp là cách làm, cách hành động cụ thể để đi đến một mục đích nhất định. Biện
pháp xuất phát từ những giải pháp và sử dụng các phương pháp cụ thể [26].
1.2.2. Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả (theo từ điển tiếng Việt) là kết quả như yêu cầu của việc làm, mang
lại hiệu quả cao tức là kết quả của quá trình hoạt động đó đạt được ở mức bằng hoặc
cao hơn mục tiêu đã đề ra trong khi mức huy động nguồn lực cho hoạt động đó là
thấp nhất.

Một số nhà khoa học đã luận giải về nội hàm của khái niệm hiệu quả để vận
dụng vào việc nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể. Theo tác giả Lê Đức Phúc "Hiệu
quả là khái niệm nói lên ảnh hưởng, tác động, hiệu lực hay sự phát huy tác dụng của
một hay nhiều nhân tố xuất hiện trước nó" [24]. Hay tác giả Jean Valerien "Hiệu
quả quản lí giáo dục được hiểu là mức độ đạt được và phát huy những mục tiêu giáo
dục và mục tiêu thao tác quản lí giáo dục đã đề ra trong phạm vi nguồn lực của
mình".

12

Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về hiệu quả, tuỳ theo từng lĩnh vực
và góc độ tiếp cận mà người ta đưa ra khái niệm khác nhau về hiệu quả. Theo chúng
tôi hiệu quả là mức độ đạt kết quả của hoạt động so với mục đích dự kiến và cách
thức con đường hoạt động tối ưu để đạt kết quả đó và tiếp cận hiệu quả kiểm tra,
đánh giá ở góc độ này.
1.2.3. Khái niệm kiểm tra
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì kiểm tra được định nghĩa
như sau: "Kiểm tra là quá trình sử dụng các công cụ để xem xét sự phù hợp giữa sản
phẩm và các tiêu chí đã đề ra về chất lượng hoặc số lượng của sản phẩm mà không
quan tâm đến quyết định đề ra tiếp theo".
Kết quả của kiểm tra không cho ta giá trị về mặt giải pháp nhưng nó lại có ý
nghĩa đối với đánh giá bởi vì kết quả của kiểm tra là cơ sở để đánh giá. Quá trình
đánh giá hàm chứa trong đó cả quy trình kiểm tra [18].
Kiểm tra kết quả học tập của học sinh là quá trình giáo viên thu thập thông
tin về kết quả học tập của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát
được quá trình dạy học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin thu thập
được so sánh với tiêu chuẩn nhất định để làm công tác đánh giá [22; 277].
1.2.4. Khái niệm đánh giá
Về vấn đề đánh giá có rất nhiều tài liệu nghiên cứu và đưa ra nhiều định
nghĩa và quan niệm khác nhau.

Iean-Marie phát biểu rằng: "Đánh giá có ý nghĩa là thu thập một tập hợp
thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy để xem xét mức độ phù hợp giữa
tập hợp thông tin này với các mục tiêu định ra ban đầu, nhằm đưa ra một quyết
định" [4].

13

Theo Ralph Tyler, nhà giáo dục và tâm lí học nổi tiếng của Mỹ đã định nghĩa
"Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hịên các mục tiêu
trong quá trình dạy học" [4].
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim thì “ Đánh giá là quá trình hình thành những
nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu
được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết
định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công
việc”.
Ngoài ra còn rất nhiều các định nghĩa khác nữa, nhưng các định nghĩa này
đều thống nhất rằng: Đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống để xác
định mức độ đạt được của học sinh về mục tiêu đào tạo. Nó có thể bao gồm những
sự mô tả, liệt kê về mặt định tính hay định lượng những hành vi (kiến thức, kĩ năng,
thái độ) của người học ở thời điểm hiện tại đang xét đối chiếu với những tiêu chí
của mục đích dự kiến mong muốn, nhằm có quyết định thích hợp để nâng cao chất
lượng và hiệu quả của việc dạy và học.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra
là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra [22; 278]. Như vậy, kiểm tra và
đánh giá là hai công việc có thứ tự và đan xen nhằm miêu tả và tập hợp những bằng
chứng về kết quả của quá trình giáo dục để đối chiếu với mục tiêu. Trong thực tế, có
thể tiến hành thu thập các thông tin nhưng không đánh giá. Nhưng để đánh giá được
phải tiến hành kiểm tra, thông qua kiểm tra mới có thể đánh giá và đánh giá chính là
kết quả của kiểm tra. Kiểm tra luôn gắn liền với đánh giá, chúng có mối quan hệ
biện chứng với nhau.

Đánh giá trong giáo dục là gì? Đánh giá trong giáo dục là một quá trình
hoạt động được tiến hành có hệ thống nhằm xác định mức độ đạt được của đối
tượng giáo dục về mục tiêu đã định; nó bao gồm sự mô tả định tính và định lượng kết
quả đạt được thông qua những nhận xét, so sánh với những mục tiêu [18].

14

Trong giáo dục và đào tạo thường áp dụng các loại hình đánh giá cơ bản,
tương ứng với chúng có các phương pháp và chuẩn đánh giá (chỉ số đo) nhất định:
Các loại hình đánh giá cơ bản thông dụng:
* Đánh giá quá trình (sự diễn biến).
* Đánh giá đầu vào, đầu ra.
* Đánh giá kết quả (sản phẩm).
Đánh giá nhà trường theo các chỉ số đo:
(1) Quá trình sư phạm tối ưu, tạo cơ sở cho sự phát triển nhân cách người
học (thể chất, trí tuệ, lối sống tự lập, có văn hoá, có đạo đức). Theo yêu cầu của bậc
học, độ tuổi, thời đại, trong mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra (theo nghĩa rộng)
trên cơ sở huy động và tận dụng mọi khả năng có thể có.
(2) Hiệu quả ngoài:
- Đối với cộng đồng (dân trí, nhân lực, nhân tài, góp phần phát triển cộng
đồng).
- Đối với địa phương (vai trò hạt nhân, kinh nghiệm tiên tiến, trung tâm khoa học kỹ
thuật…).
- Đối với ngành (chứng minh quan điểm, định hướng giáo dục đảm bảo liên tục phát
triển).
Mục đích đánh giá: Đánh giá không có mục đích tự thân. Nó phục vụ cho
nhiều mục đích khác nhau: Đánh giá để chứng nhận năng lực, đánh giá để hướng
dẫn, điều chỉnh, đánh giá để thúc đẩy, kích thích [18].

15


Đánh giá không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đi đến mục đích.
Mục đích của đánh giá là để có những quyết định mới đúng đắn và hiệu quả hơn.
Mục đích của đánh giá cần đảm bảo ba yêu cầu cơ bản sau [18]
*Tính giá trị: Đánh giá phải đúng mục tiêu và nội dung, tính giá trị về nội
dung là ưu tiên hàng đầu của mọi cách đánh giá, tức là sự đo lường một mẫu chọn
đại diện bao quát được trong phạm vi rộng các kiến thức cần đo theo mục tiêu học
tập (về kiến thức, kĩ năng, thái độ).
*Tính tin cậy: Mọi cách đánh giá học tập là sự đo lường tính hằng định và
chính xác của kết quả kiểm tra, đánh giá, kỹ thuật soạn thảo và chất lượng sử dụng
các cách kiểm tra, đánh giá ảnh hưởng tới độ tin cậy.
*Tính khả thi: Chọn được hình thức kiểm tra và phương pháp kiểm tra, đánh
giá phù hợp với nội dung học tập cần kiểm tra không làm hao phí thời gian, sức lực
và tiền của trong quá trình tiến hành kiểm tra, đánh giá mà vẫn đảm bảo các yêu cầu
của mục đích đánh giá là đạt được tính khả thi, cũng chính là đạt được tính hiệu quả
trong giáo dục.
1.2.5. ý nghĩa và chức năng của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
1.2.5.1. ý nghĩa
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông
qua kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp cho giáo viên thu được
những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết quả học tập của học
sinh cũng như những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết quả đó. Đó là cơ
sở thực tế để giáo viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của học sinh và
hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của bản thân [22].
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được tiến hành tốt giúp cho học
sinh có cơ hội để ôn tập, củng cố tri thức, phát triển trí tuệ. Đồng thời cũng

16

thông qua kiểm tra, đánh giá mà học sinh có điều kiện để tự kiểm tra về mức độ

lĩnh hội tri thức, trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp học tập, từ đó có
thể tự điều chỉnh cách học. Thông qua kiểm tra, đánh giá kết quả học tập giúp
hình thành cho học sinh nhu cầu thói quen tự kiểm tra, đánh giá, nâng cao tinh
thần trách nhiệm học tập, rèn luyện tính kỉ luật, tính tự giác và ý chí vươn lên
trong học tập. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập có tác dụng điều chỉnh cách
dạy của giáo viên và cách học của học sinh. Trên cơ sở các kết quả thu được qua
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, các cấp quản lí đưa ra những
quyết định đúng đắn, chỉ đạo kịp thời hoạt động dạy học trong nhà trường, đảm
bảo chất lượng và hiệu quả dạy học.
1.2.5.2. Chức năng cơ bản [22]
Chức năng định hướng: Kiểm tra, đánh giá để dự báo khả năng của học sinh
có thể đạt được trong quá trình học tập, đồng thời xác định những điểm mạnh và
yếu của học sinh. Kiểm tra, đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng
năng khiếu, đồng thời giúp cho giáo viên có thể chọn cách dạy phù hợp với khả
năng của học sinh và học sinh có thể lựa chọn con đường học tập, phương pháp, tài
liệu, hình thức học tập.v.v
Chức năng chuẩn đoán: Kiểm tra, đánh giá chuẩn đoán nhằm hỗ trợ việc học
tập. Kiểm điểm lại quá trình học tập trước đây lại vừa có tính chất thúc đẩy, củng
cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. Kiểm tra, đánh giá chuẩn đoán phải
được tiến hành thường xuyên nó cung cấp cho người học những tín hiệu ngược
chiều về việc học tập của họ, từ đó giúp họ khắc phục những thiếu sót, điều chỉnh
cách học cho phù hợp.
Chức năng xác nhận: Đánh giá xác nhận cung cấp những số liệu để thừa nhận
hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành khoá học, chương trình học hoặc môn
học để đi đến quyết định là cấp chứng chỉ, cấp bằng hoặc cho lên lớp.v.v. hoặc nhằm
xếp loại người học theo mục đích nào đó, thường được tiến hành sau một giai đoạn học

17

tập. Chức năng này có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội. Đánh giá xác nhận bộc lộ tính

hiệu quả của một hệ thống đào tạo.
1.2.6. Yêu cầu đối với kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh [22]
Kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính khách quan: Đánh giá khách quan,
chính xác là yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với chất lượng của giáo dục, đánh giá
khách quan, chính xác tạo ra yếu tố tâm lí tích cực cho người được đánh giá, động
viên người được đánh giá vươn lên. Tính khách quan của kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập là sự phản ánh trung thực kết quả đạt được về trình độ nhận thức của học
sinh so với yêu cầu của chương trình học. Tính khách quan của kiểm tra, đánh giá
đòi hỏi việc xây dựng thang đánh giá phải cụ thể, rõ ràng, đảm bảo phản ánh được
chính xác kết quả học tập của học sinh. Kết quả đánh giá đó không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của người đánh giá.
Để đảm bảo tính khách quan, cần giáo dục cho học sinh ý thức đúng đắn đối
với việc kiểm tra, hình thành cho học sinh kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá một cách
đúng đắn để học sinh có thể điều chỉnh cách học của mình, ngăn ngừa thái độ đối
phó với việc kiểm tra. Mặt khác kiểm tra, đánh giá đảm bảo khách quan đòi hỏi từ
khâu lựa chọn phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá, xây dựng câu hỏi, quá
trình tổ chức kiểm tra-đánh giá đến việc chấm bài phải đáp ứng được yêu cầu của
lí luận dạy học.
Kiểm tra-đánh giá đảm bảo tính toàn diện: Đòi hỏi phải đánh giá đầy đủ các
mặt, các khía cạnh cần đánh giá theo yêu cầu, mục đích đặt ra, đánh giá toàn diện
cho phép xem xét đối tượng được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan, chính xác,
tránh sự đánh giá phiến diện. Kiểm tra, đánh giá toàn diện kết quả học tập cần được
xem xét đầy đủ về số lượng và chất lượng. Cần tính đến các mặt như: khối lượng tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo mà người học nắm vững; năng lực vận dụng và khả năng sáng
tạo; tinh thần thái độ, sự nỗ lực của học sinh.

18

Để kiểm tra, đánh giá đảm bảo tính toàn diện cần phải căn cứ vào mục tiêu
dạy học, trên cơ sở đó xác định các nội dung đánh giá sao cho có thể đánh giá đầy

đủ các mục tiêu.
Kiểm tra-đánh giá đảm bảo tính thường xuyên, có hệ thống: Kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học sinh cần phải được tiến hành thường xuyên, có hệ
thống, có kế hoạch, đánh giá trước, trong và sau khi học một phần của chương trình,
số lần kiểm tra phải đảm bảo đủ để có thể đánh giá chính xác. Đánh giá thường
xuyên, hệ thống sẽ cung cấp kịp thời những thông tin ngược cho giáo viên và học
sinh, giúp cho giáo viên điều chỉnh liên tục hoạt động dạy, học sinh điều chỉnh hoạt
động học nhằm duy trì tính tích cực trong học tập.
Để đảm bảo tính toàn diện của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đòi hỏi
phải tiến hành kiểm tra, đánh giá ở từng chi tiết học, từng chương, từng học kì, năm
học, tạo cho học sinh có ý thức trách nhiệm trong học tập.
Kiểm tra, đánh giá thường xuyên, có hệ thống sẽ định kì cung cấp cho cán bộ
quản lí giáo dục, cho giáo viên đầy đủ những thông tin để điều chỉnh kịp thời các
hoạt động giáo dục, là cơ sở để đánh giá một cách toàn diện.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập phải đảm bảo tính phát triển: Thông qua
kiểm tra, đánh giá phải tạo ra được động lực để thúc đẩy đối tượng được đánh giá
vươn lên, có tác dụng thúc đẩy những mặt tốt, hạn chế những mặt tiêu cực.
Các yêu cầu trên có mối liên hệ với nhau, chúng cần phải được thực hiện
đồng thời trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
1.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học phổ
thông
1.3.1. Các mức độ kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trung
học phổ thông

19

Kết quả học tập được thể hiện ở mức độ mà người học đạt được so với các
mục tiêu đã xác định hay ở mức độ mà người học đạt được trong tương quan chung
với những người cùng học khác. Dù hiểu theo nghĩa nào thì đánh giá kết quả học
tập cũng phản ánh kết quả mà học sinh đạt được sau một giai đoạn học tập. Như

vậy, đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ hoàn thành các mục
tiêu đề ra cho học sinh sau một giai đoạn học tập, các mục tiêu này thể hiện ở từng
môn học cụ thể. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ nắm được kiến thức,
kĩ năng, thái độ của học sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra [22; 277].
Yếu tố cốt lõi nhất trong học tập là phát triển (Học để biết, học để làm,
học để cùng nhau chung sống, học để thành người)-UNESCO khuyến cáo về bốn
trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI. Như vậy, nét bản chất nhất của học tập là sự
tiếp nhận kinh nghiệm và giá trị xã hội bằng hoạt động cá nhân trong môi trường
xã hội và phát triển kinh nghiệm đó ở chính mình thành thành viên của xã hội.
Theo lí thuyết của Benjamin Bloom (được thừa nhận ở hầu hết các nền giáo dục
hiện nay) thì quá trình và kết quả học tập luôn bao gồm 3 lĩnh vực [2].
Kiến thức: Bao gồm khả năng ghi nhớ, hiểu, ứng dụng, phân tích, tổng hợp,
đánh giá. Các cấp độ cụ thể là:
(1) Biết (gồm ghi nhớ, nhận ra và tái hiện).
(2) Hiểu (thông hiểu, diễn đạt theo ngôn ngữ của mình).
(3) ứng dụng (vận dụng vào các tình huống khác nhau và vào thực tiễn).
(4) Phân tích (tách các thành tố của một kiến thức).
(5) Tổng hợp (khái quát từ nhiều thành tố thành một vấn đề lớn).
(6) Đánh giá (xem xét toàn bộ quá trình, đưa ra nhận định tổng quát).

20

Kỹ năng: Bao gồm những khả năng hoạt động chân tay, sự phối hợp cơ bắp
với các giác quan để thực hiện những hành động trong học tập, lao động và đời
sống.
Trong nhà trường cần phải rèn luyện cho học sinh các kỹ năng: Đọc, nghe,
nói, viết, lao động chân tay, tư duy…
(1) Đọc (To thành lời, đọc thầm, đọc đúng chính tả, ngữ pháp, rõ ràng, rành
mạch, diễn cảm).
(2) Viết (đúng chính tả, ngữ pháp, thể loại, viết đẹp ngắn ngọn, rõ ràng, đầy

đủ, hình tượng, cảm xúc).
(3) Lao động thủ công, cơ khí (Lựa chọn đúng dụng cụ, thao tác đúng,
nhanh, thuần thục, đo đạc, tính toán, giải thích kết quả, bảo quản dụng cụ, giải quyết
vấn đề có liên quan).
(4) Tư duy (phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá).
Thái độ: bao gồm những đáp ứng về mặt tình cảm đối với các vấn đề có liên
quan đến cuộc sống con người với những mức độ biểu hiện khác nhau từ hưởng ứng
đến thực hiện.
(1) Tiếp thu (rất đồng ý - đồng ý - phân vân - không đồng ý).
(2) Đáp ứng (hưởng ứng) (rất cần thiết - khá cần thiết - cần thiết - chưa cần
thiết - không cần thiết), cam kết thực hiện.
(3) Đánh giá (đánh giá lại các giá trị đúng sai, đánh giá khả năng thực hiện
giá trị mới: rất dễ - khá dễ - hơi khó - rất khó).
(4) Tổ chức lại hệ thống giá trị mới.

21

(5) Hành động theo giá trị mới.
Nói tóm lại, học tập là khả năng và thành tựu phát triển có tính chất tích hợp
của con người trên nhiều phương diện: nhận thức, tình cảm, vận động thể chất và trí
tuệ.
Yêu cầu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh THPT đối với môn
học GDCD cần phải đạt được ở cả 3 lĩnh vực: Kiến thức, kĩ năng, thái độ. Bởi bộ
môn GDCD ở cấp THPT có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp
luật cho học sinh ở giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Năm cuối cấp là khi các em
tròn 18 tuổi đã thực sự trưởng thành cả về thể chất, tinh thần và ý thức của người
công dân. Có quyền lợi và nghĩa vụ đối với đất nước và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về mọi hành vi của mình.
1.3.2. Các dạng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học
phổ thông [22; 280]

Thứ nhất: Kiểm tra thường xuyên, được giáo viên tiến hành hàng ngày nhằm
kịp thời điều chỉnh hoạt động của cả giáo viên và học sinh, thúc đẩy học sinh cố
gắng tích cực học tập một cách liên tục, có hệ thống đồng thời tạo điều kiện để quá
trình dạy học chuyển sang bước phát triển cao hơn. Kiểm tra, đánh giá hàng ngày
được thực hiện qua quan sát một cách có hệ thống hoạt động học tập của học sinh,
qua việc lĩnh hội tri thức mới, ôn tập và củng cố tri thức cũ cũng như vận dụng tri
thức vào thực tiễn.
Thứ hai: Kiểm tra, đánh giá định kì thường được thực hiện sau khi học một
phần chương trình hoặc sau một học kì để biết được mức độ nắm vững chương
trình, kiểm tra định kì có tác dụng giúp giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả
làm việc sau một thời gian nhất định, củng cố và mở rộng những điều đã học, tạo
cơ sở để từ đó có định huớng tiếp tục dạy-học sang phần tiếp theo.

22

Thứ ba: Kiểm tra tổng kết được thực hiện vào cuối mỗi năm học nhằm đánh
giá kết quả chung, củng cố và mở rộng toàn bộ những điều đã học từ đầu năm học,
đồng thời tạo điều kiện để chuyển sang năm học mới.


23

1.3.3. Các phương pháp kiểm tra






Phương pháp kiểm tra vấn đáp: Giáo viên tổ chức hỏi và đáp giữa giáo viên

và học sinh, qua đó thu được thông tin về kết quả học tập của học sinh. Có thể sử
dụng ở mọi thời điểm trong tiết học. Phương pháp này có ưu điểm là giáo viên có
điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người học. Có thể phát hiện ra những năng lực đặc
biệt hoặc những khó khăn của từng cá nhân người học.
Tuy nhiên có hạn chế là tốn nhiều thời gian để tiến hành, khó bao quát được
toàn bộ chương trình học và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan.
Phương pháp kiểm tra viết: Là hình thức kiểm tra phổ biến, được sử dụng
đồng thời với nhiều học sinh. Hình thức này có hai dạng là tự luận và trắc nghiệm
khách quan.
* Phương pháp kiểm tra viết dạng tự luận:
ưu điểm là trong cùng thời gian giáo viên kiểm tra được một số lượng lớn
học sinh và cho thông tin tương đối khách quan về kết quả học tập. Nếu câu hỏi
được soạn tốt thì có thể tạo điều kiện để học sinh bộc lộ khả năng suy luận, phê
phán, đưa ra ý kiến mới. Việc chuẩn bị câu hỏi không mất quá nhiều thời gian.
các phương pháp ki
ểm tra

Quan sát

Vi
ết

V
ấn
đáp

Tự luận
Tr
ắc nghiệm khách
quan


Bài
luận

Tiểu

luận
Luận

văn
Đúng
sai
Nhi
ều
lựa
chọn

Ghép
đôi
Đi
ền
khuyế
t
Trả
lời
ngắn


24


Hạn chế là khó bao quát được nội dung chương trình, chịu ảnh hưởng nhiều
ở chủ quan người chấm, tốn nhiều thời gian chấm bài mà độ tin cậy không cao.
* Phương pháp trắc nghiệm khách quan: thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi
câu được trả lời bằng một từ, một cụm từ hoặc một dấu hiệu đơn giản. Bao gồm các
loại (như phần sơ đồ đã trình bày).
ưu điểm: Có khả năng đo được các mức độ nhận thức, bao quát được phạm
vi kiến thức rộng, ít phụ thuộc vào chủ quan người chấm, tính khách quan và độ tin
cậy cao.
Nhược điểm: Chuẩn bị câu hỏi khó khăn, mất nhiều thời gian và được sử
dụng chủ yếu để kiểm tra kiến thức và kĩ năng của người học.
Nguyên tắc chung khi thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan [15]
Khi thiết kế một câu hỏi trắc nghiệm khách quan nói chung phải dựa vào ba
nguyên tắc cơ bản sau đây:
* Tập trung hoàn toàn vào mục tiêu học tập quan trọng (về nội dung và sự
thực hiện).
* Chỉ gợi cho học sinh kiến thức và sự thực hiện liên quan đến mục tiêu học
tập đã định.
* Không để những tồn tại làm cản trở hoặc kiềm chế khả năng của học sinh
thể hiện sự đạt được mục tiêu học tập muốn đánh giá. (Chẳng hạn, thiếu sót về câu
từ, ngữ pháp, hình vẽ… có thể làm ảnh hưởng đến việc trả lời đúng của học sinh
giỏi).
1.3.4. Cách tính điểm trung bình

25

Hiện nay việc kiểm tra, đánh giá trong nhà trường THPT có quy định chế độ
cho điểm đối với học sinh như sau:
*Số lần kiểm tra cho một môn học trong một học kỳ/mỗi học sinh được kiểm
tra ít nhất:
- Các môn học có từ 2 tiết/tuần trở xuống là 4 lần

- Các môn học có từ 2,5 đến 3 tiết/tuần là 6 lần
- Các môn học có từ 4 tiết/tuần trở lên là 7 lần
*Các hình thức kiểm tra gồm:
- Kiểm tra miệng (vấn đáp) thời lượng khoảng 5 đến 7 phút, thường tiến
hành ở đầu tiết học.
- Kiểm tra viết 15 phút
- Kiểm tra viết 1 tiết (45 phút)
- Kiểm tra viết cuối kỳ, thời lượng là 45 phút, 60 phút hoặc 90 phút.
*Thời điểm tiến hành:
- Kiểm tra đầu kỳ(kiểm tra chất lượng)
- Kiểm tra miệng được tiến hành thường xuyên trong các tiết học và tối thiểu
phải kiểm tra được 2/3 số học sinh trong lớp /học kỳ.
- Kiểm tra viết 15 phút bài đầu vào khoảng tuần thứ tư của học kỳ, tuỳ vào nội
dung của chương trình học cụ thể mà chọn thời điểm kiểm tra thích hợp.
- Kiểm tra giữa kỳ bằng một bài viết 45 phút

×