Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Định giá kinh tế đất ngập nớc
Tài liệu hớng dẫn dành cho các nhà hoạch định chính sách
Edward B Barbier, Mike Acreman and Duncan Knowler
Văn phòng Công ớc Ramsar
Gland, Switzerland
1997
Tiến sĩ Barbier là phụ giảng và Mr. Knowler là phó giáo s tại bộ môn Kinh tế
môi trờng và Quản lý môi trờng, Đại học Tổng hợp York, Vơng quốc Anh.
Tiến sĩ Acreman là cố vấn quản lý nớc ngọt của IUCN - Hội bảo tồn thế giới
và phụ trách bộ môn Dòng chảy chậm, Sinh thái học và Đất ngập nớc thuộc Viện
Thủy văn, Wallingford, Vơng quốc Anh.
1
Mục lục
Lời cảm ơn
Lời nói đầu
Lời tựa
Tóm tắt nội dung
1. Cơ sở của vấn đề quản lý đất ngập nớc toàn cầu
1.1 Định nghĩa về đất ngập nớc
1.2 Các loại đất ngập nớc
1.3 Tầm quan trọng của đất ngập nớc
1.4 Tổn thất đất ngập nớc
1.5 Vai trò của Ramsar trong bảo tồn đất ngập nớc
2. Tại sao cần định giá?
2.1 Vai trò của định giá kinh tế trong việc ra quyết định
2.2 Giá trị kinh tế của đất ngập nớc
2.3 Tại sao tài nguyên và hệ thống đất ngập nớc bị đánh giá thấp trong
các quyết định phát triển
2.4 Tại sao việc định giá lại liên quan đến Ramsar
3. Khuôn khổ thẩm định cho định giá kinh tế đất ngập nớc
3.1 Giai đoạn một: xác định vấn đề và phơng pháp định giá
3.2 Giai đoạn hai: xác định phạm vi và những hạn chế của định giá và nhu
cầu thông tin
3.3 Giai đoạn ba: xác định các phơng pháp thu thập số liệu và các kỹ
thuật định giá cần cho định giá kinh tế
4. Thực hành định giá
4.1 Đồng cỏ ngập nớc Hadejia-Nguru ở Bắc Nigeria
4.2 Đánh giá đất ngập nớc thảo nguyên Bắc Mỹ: ứng dụng của mô hình
sinh học kinh tế
4.3 Định giá dự phòng và đất ngập nớc ở Vơng quốc Anh
4.4 Định giá giảm nitơ cho đất ngập nớc Thụy Điển
4.5 Định giá đất ngập nớc ven biển đông nam hợp chủng quốc Hoa Kỳ
4.6 Định giá và bảo tồn rừng ngập mặn ở Indonesia
4.7 Kết luận rút ra từ các nghiên cứu trờng hợp
5. Ghi chú hớng dẫn: những vấn đề thực tế của việc lập kế hoạch và tiến
hành một nghiên cứu định giá
5.1 Hớng dẫn từng bớc để thực hiện một nghiên cứu định giá
5.2 Các nguồn lực cần thiết cho một nghiên cứu định giá
5.3 Nhóm nghiên cứu định giá và mẫu thuật ngữ bảng tham chiếu
5.4 Các yếu tố phi kinh tế
5.5 Bảo tồn các loài quý hiếm
6. Khuyến nghị
6.1 Các nghiên cứu định giá kinh tế
6.2 Cộng tác liên ngành
6.3 Đào tạo và xây dựng năng lực thiết chế của cơ sở nghiên cứu
6.4 Công tác nghiên cứu
6.5 Hoạt động trên mạng
2
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
7. Bảng thuật ngữ
8. Nguồn tài liệu và đọc thêm
Các phụ lục
1. Các hợp phần, chức năng và thuộc tính của đất ngập nớc và việc sử
dụng chúng bởi con ngời
2. So sánh các phơng pháp thẩm định kinh tế
3. Ưu, nhợc điểm của các kỹ thuật định giá sử dụng trong thẩm định
kinh tế đất ngập nớc
3
Lời cảm ơn
Cuốn sách này đợc hoàn thành với sự tài trợ của Bộ Môi trờng Vơng quốc
Anh và Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế của Thụy Điển (SIDA).
Khái niệm của sách đợc Tiến sĩ Mike Acreman phát triển khi ông làm việc tại
chơng trình đất ngập nớc của IUCN (bây giờ là một bộ phận của Tập đoàn quản lý
hệ sinh thái) do Tiến sĩ Jean-Yves Pirot lãnh đạo.
Tiến sĩ Michele Beetham thuộc bộ môn Kinh tế môi trờng và Quản lý môi
trờng, Đại học Tổng hợp York, khi đang làm việc với IUCN đã đề xuất xây dựng cơ
sở dữ liệu về các nghiên cứu định giá đất ngập nớc và những ý tởng ban đầu của
mục lục.
Những ý kiến góp ý cho bản thảo đã đợc gửi đến từ nhiều chuyên gia, đặc biệt
là Giáo s Kerry Turner (Trung tâm nghiên cứu kinh tế và xã hội trên môi trờng toàn
cầu, Vơng quốc Anh), Torsten Larsson (Cục bảo vệ môi trờng Thụy Điển), Tiến sĩ
Robert K Davis (Đại học bang Ohio, USA), Tiến sĩ Vilma Carande (Đại học Tổng hợp
bang Colorado, USA), Francis Grey (Cục bảo tồn thiên nhiên Australia), Tiến sĩ Maria
Zaccagnini (Viện Công nghệ Nông nghiệp quốc gia Argentina), nhiều nhân viên của
IUCN (đặc biệt là Frank Vorhies), Văn phòng Công ớc Ramsar, Bộ môi trờng
Vơng quốc Anh, bộ môn Kinh tế môi trờng và Quản lý môi trờng thuộc Đại học
Tổng hợp York, và Viện Thủy văn, Vơng quốc Anh.
Giáo s Kerry Turner và Gayatri Acharya (bộ môn Kinh tế môi trờng và
Quản lý môi trờng thuộc Đại học Tổng hợp York, Vơng quốc Anh) đã cung cấp
thông tin mới về chi phí để tiến hành các nghiên cứu định giá.
Văn phòng Công ớc Ramsar xuất bản cuốn sách này dới sự điều phối của
Mireille Katz; Dwight Peck và Valerie Higgins hiệu đính và trình bày.
4
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Mở đầu
ấn phẩm này chứa đựng nhiều thông tin hữu ích về nhiều kỹ thuật định giá
kinh tế có sẵn đợc dùng để định giá các vùng đất ngập nớc. Sách hớng dẫn đã nêu
lên tầm quan trọng của việc cân đối giữa những lợi ích có đợc nhờ phát triển với
những thiệt hại mà quá trình phát triển có thể gây ra cho đất ngập nớc.
Sách hớng dẫn này là kết quả của sự hợp tác to lớn giữa các nhà khoa học và
các nhà kinh tế, và tôi hy vọng rằng nó sẽ đợc nghiên cứu kỹ vì ý nghĩa chính của nó
là ở chỗ nó nên đợc thực hành.
Rt Hon, Bộ trởng Môi trờng và Nông thôn
Vơng quốc Anh
1996
5
Lời tựa
Ngày nay, hầu hết các quyết định về kế hoạch và phát triển đều đợc hình
thành trên cơ sở kinh tế và càng ngày càng dựa trên cơ sở của những động lực đang chi
phối trong hệ thống thị trờng tự do. Trong khi khuôn mẫu mới này có những hạn chế
và nguy cơ riêng của nó thì vẫn là không thực tế nếu chúng ta bỏ qua các khuôn mẫu
này và đặt công cuộc bảo tồn và sử dụng đất ngập nớc (ĐNN) một cách khôn ngoan
dựa trên một tập hợp các giá trị hoàn toàn khác. Vì thế, hàng hóa và dịch vụ của đất
ngập nớc phải đợc cho một giá trị định lợng nếu muốn thiên về bảo tồn chúng hơn
là các phơng án sử dụng chỉ riêng đất hoặc nớc vốn đang nuôi vùng đất ngập nớc.
Đối với nhiều sản phẩm nh cá hoặc gỗ thì có thị trờng thế giới cho
phép dễ dàng định giá giá trị của đất ngập nớc. Giá trị của các chức năng đất
ngập nớc, nh cải thiện chất lợng nớc, có thể tính đợc từ chi phí xây dựng
trạm xử lý nớc để thực hiện các công việc nh vậy. Nhng định giá đa dạng
sinh học hoặc vẻ đẹp thẩm mỹ của đất ngập nớc là khó hơn, vì nhiều thị trờng
của những sản phẩm nh vậy khó nắm bắt hơn và định giá kinh tế bằng những
phơng pháp truyền thống là khó hơn nhiều. Trở lực chính yếu khác là các nớc
đang phát triển đang gặp nhiều khó khăn đáng kể trong việc gìn giữ những
nguồn lợi có tính toàn cầu của bảo tồn đất ngập nớc, thí dụ đa dạng sinh học
(Pearce & Moran, 1994). Do đó cần phát triển và bổ sung những phơng tiện
duy trì mới.
Tại hội nghị ở Brisbane, Australia tháng 3/1996, các bên tham gia Công ớc về
đất ngập nớc đã thông qua một kế hoạch chiến lợc thừa nhận tầm quan trọng và sự
khẩn cấp tiến hành các phần việc trong định giá kinh tế đất ngập nớc. Chiểu theo
mục tiêu hoạt động 2.4 của kế hoạch chiến lợc, Công ớc Ramsar sẽ xúc tiến việc
định giá kinh tế những nguồn lợi và chức năng của đất ngập nớc thông qua truyền bá
các phơng pháp định giá. Cuốn sách này đợc ban hành để cung cấp hớng dẫn cho
các nhà hoạch định chính sách về tiềm năng của định giá kinh tế đất ngập nớc là gì
và các nghiên cứu định giá có thể đợc tiến hành ra sao. Vì các nhà hoạch định chính
sách không có nhiệm vụ phải tự mình tiến hành định giá kinh tế nên hớng dẫn về
cách lập kế hoạch nghiên cứu và đề cơng các tham chiếu để thuê các t vấn kỹ thuật
cũng đợc cung cấp.
Trong lịch sử nhân loại, thuật ngữ đất ngập nớc gợi cho nhiều ngời một
vùng đầm lầy đầy dẫy các sinh vật nhầy nhụa, là nơi chứa những bệnh nh sốt rét và
schistosomiasis. Chính quan niệm này về đất ngập nớc nh là vùng bỏ đi đã dẫn đến
việc tiêu nớc tích cực và biến đổi đất ngập nớc để phục vụ nông nghiệp, nuôi cá,
thành đất công nghiệp hoặc đất ở hoặc cải thiện sức khỏe cộng đồng. Tuy vậy, trong
những năm gần đây, ngày càng tăng nhận thức rằng đất ngập nớc tự nhiên cung cấp
miễn phí rất nhiều chức năng quan trọng (nh xả lũ, hồi phục nớc ngầm, hạn chế các
tác nhân gây ô nhiễm), sản phẩm (nh cá, củi đốt, gỗ, trầm tích giàu dinh dỡng dùng
cho nông nghiệp vùng đồng cỏ ngập nớc, danh thắng du lịch) và thuộc tính (đa dạng
sinh học, vẻ đẹp thẩm mỹ, di sản văn hóa và khảo cổ).
Xu thế bảo tồn đất ngập nớc đợc trình diễn do nhiều nớc đã chấp nhận và
thực hiện chính sách là sẽ không làm tổn thất đất ngập nớc thêm nữa, rằng đất ngập
nớc phải đợc sử dụng một cách bền vững và phải tiến hành các nghiên cứu định
lợng các giá trị của đất ngập nớc. Các cơ chế và tổ chức quốc tế, nh Công ớc
Ramsar về Đất ngập nớc, Công ớc về Đa dạng sinh học, ủy ban LHQ về Phát triển
bền vững, OECD, IUCN- Liên đoàn bảo tồn thế giới, Đất ngập nớc quốc tế và Quỹ
6
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Bảo tồn thiên nhiên thế giới WWF đang xúc tiến nghiên cứu, phân tích và truyền bá
thông tin về giá trị kinh tế của các hệ tự nhiên trong đó có đất ngập nớc. Các tổ chức
nói trên khuyên những ngời có trách nhiệm ra các quyết định phải đánh giá đầy đủ
mọi lợi ích xã hội của các hệ sinh thái tự nhiên cũng nh của các đề cơng phát triển
đang đợc cân nhẵc và họ phải sử dụng triệt để những kỹ thuật hiện có để biểu thị một
cách chính xác những nguồn lợi tài nguyên bằng ngôn ngữ kinh tế.
Rất cần thiết phải nhấn mạnh rằng định giá kinh tế không phải là thần dợc
cho mọi quyết định, rằng nó chỉ biểu thị một yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết
định, cùng với những cân nhắc quan trọng về chính trị, xã hội, văn hóa và những nhân
tố khác. Mục đích của tài liệu này nhằm trợ giúp cho các nhà hoạch định chính sách
tăng cờng đầu vào từ việc định giá kinh tế nhằm xác định đợc con đờng tốt nhất
tiến tới một tơng lai bền vững.
Delmar Blasco
Tổng th ký
Văn phòng Công ớc Ramsar
7
Tóm tắt nội dung
Mục đích của cuốn sách này là cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách
một hớng dẫn về tiềm lực của định giá kinh tế đất ngập nớc và cách thức tiến hành
công việc này. Mặc dù đã có một số nghiên cứu định giá kinh tế đất ngập nớc đã
đợc tiến hành trên thế giới và các nhà kinh tế đã phát triển các phơng pháp luận để
định giá những khía cạnh vô hình hơn của môi trờng nh là những nhân tố giải trí
hoặc thẩm mỹ, nhng không có ai đã tổng hợp đợc từ các tài liệu một phơng pháp
chung để chỉ ra tính hữu hiệu tổng hợp của chúng đối với quản lý đất ngập nớc toàn
cầu. Vì vậy, cuốn sách này cung cấp chi tiết của nhiều kỹ thuật khác nhau và các thí
dụ về những nghiên cứu định giá đất ngập nớc cùng với hớng dẫn về cách quy
hoạch và quản lý một nghiên cứu và đa các kết quả vào trong một khuôn mẫu ra
quyết định rộng lớn hơn.
Các vùng đất ngập nớc là một trong những hệ sinh thái năng suất nhất trên
trái đất. Chúng vừa đợc mô tả nh các quả thận của phong cảnh vì chức năng mà
chúng đảm nhiệm trong các chu trình thủy văn và hóa học, vừa đợc coi là siêu thị
sinh học vì nguồn thực phẩm phong phú và đa dạng sinh học giàu có mà chúng cung
cấp. Trong chơng 1 đã phân nhóm các đặc điểm của hệ đất ngập nớc theo hợp phần
(đất, nớc, thực vật và động vật), chức năng (chu trình dinh dỡng và hồi phục nớc
ngầm) và thuộc tính (đa dạng sinh học). Trớc đây nhiều vùng đất ngập nớc đã bị coi
là đất bỏ đi nên đã bị tháo nớc và phá hoại theo nhiều cách khác nhau. Công ớc
Ramsar về đất ngập nớc có tầm quan trọng quốc tế đã ra đời nhằm xúc tiến việc bảo
tồn đất ngập nớc và sử dụng và quản lý chúng một cách sáng suốt.
Chơng 2 giải thích vai trò của định giá trong việc ra quyết định. Rất nhiều
quyết định phát triển đã đợc hình thành trên cơ sở kinh tế. Bằng việc cung cấp một
phơng tiện để đo và so sánh những lợi ích khác nhau của đất ngập nớc mà định giá
kinh tế có thể là một công cụ rất mạnh mẽ nhằm trợ giúp và tăng cờng sử dụng và
quản lý một cách sáng suốt tài nguyên đất ngập nớc toàn cầu. Trớc đây đất ngập
nớc bị đánh giá thấp vì rất nhiều dịch vụ sinh thái, tài nguyên sinh học và giá trị giải
trí mà chúng cung cấp không đợc mua và bán nên khó định giá. Ramsar đa ra
những phơng pháp định giá kinh tế mới để chứng minh rằng đất ngập nớc là rất giá
trị và chúng phải đợc bảo tồn và sử dụng một cách sáng suốt.
Trong chơng 3 có phát triển một khuôn mẫu cho việc thẩm định những lợi ích
kinh tế thực của các phơng án sử dụng đất ngập nớc khác nhau. Giai đoạn một bao
gồm xác định những mục tiêu hoặc khó khăn bao quát và chọn phơng pháp định giá
kinh tế chính xác từ ba cụm tiêu chuẩn lớn, tức là phân tích tác động, định giá bộ phận
và định giá toàn phần. Giai đoạn hai yêu cầu xác định phạm vi và những giới hạn của
phân tích và thông tin cần thiết cho phơng pháp định giá đã lựa chọn. Giai đoạn ba
đòi hỏi xác định các kỹ thuật định giá và phơng pháp thu thập số liệu cần thiết cho
thẩm định kinh tế gồm cả mọi phân tích tác động phân tán.
Nhằm hớng dẫn các nhà hoạch định chính sách về cách thức tiến hành một
định giá đất ngập nớc, sáu thí dụ đợc trình bày trong chơng 4. Đó là: đồng cỏ ngập
nớc Hadejia-Nguru ở phía Bắc Nigeria; thảo nguyên ngập nớc Bắc châu Mỹ; vùng
Norfork Broads và vùng ngập thủy triều Scotish Flow Country ở Vơng quốc Liên
hiệp Anh; giảm lợng nitơ ở đất ngập nớc Thụy Điển; đất ngập nớc bờ biển ở đông
nam Hoa Kỳ và bảo tồn rừng ngập mặn ở Indonesia. Những nghiên cứu trờng hợp
này cung cấp những thí dụ thực tiễn về việc sử dụng các phơng pháp khác nhau trong
thực địa, trong những loại đất ngập nớc khác nhau, sử dụng nhiều phơng pháp định
giá khác nhau trên thực địa, với những loại đất ngập nớc khác nhau, sử dụng nhiều
8
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
phơng pháp định giá và bao gồm các miền địa lý đa dạng. Tuy không thể nói rằng
tính bao quát của các thí dụ đã là hoàn toàn nhng việc xem xét các nghiên cứu đó
cũng làm nổi lên một số nhận xét. Trớc hết, việc phối hợp các phơng pháp tiếp cận
sinh thái và kinh tế có tầm quan trọng quyết định, đặc biệt khi mục tiêu là định giá các
chức năng sinh thái. Việc này không đòi hỏi nhiều kỹ thuật toán học phức tạp bằng
đòi hỏi mở rộng hợp tác không ngừng giữa các nhà kinh tế và sinh thái. Những nghiên
cứu này còn chứng minh rằng không nên coi định giá là kết quả cuối cùng mà nó cần
đợc hớng đến một số vấn đề chính sách. Những vấn đề này có thể từ việc đơn giản
là nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đất ngập nớc đến những lựa chọn trong
hàng loạt phơng án để đáp ứng mục đích nào đó đã nêu ra, với việc bảo vệ đất ngập
nớc tiêu biểu cho một phơng án.
Chơng 5 hớng dẫn về lập kế hoạch và tiến hành một nghiên cứu. Những việc
này gồm một hớng dẫn bảy bớc để tiến hành một nghiên cứu. Những bớc đó là: lựa
chọn một phơng pháp định giá thích hợp; xác định khu vực đất ngập nớc; định hình
và xác định u thế của các thành phần, chức năng và thuộc tính; lập mối tơng quan
giữa các hợp phần, chức năng và thuộc tính với giá trị sử dụng; xác định và lấy thông
tin cần thiết cho việc định giá; định lợng các giá trị kinh tế; và tập hợp các giá trị
kinh tế vào trong biểu mẫu thích hợp (ví dụ phân tích chi phí-lợi nhuận). Ngoài ra còn
có chỉ dẫn các nguồn lực cần thiết và cách soạn thảo tham chiếu về nhiệm vụ của các
t vấn kỹ thuật qua một thí dụ giả định về một vùng đồng cỏ ngập nớc Châu Phi.
Thêm vào đó, chơng này nhấn mạnh sự cần thiết phải cân nhắc các nhân tố khác
((chính trị, xã hội, lịch sử và sinh thái) đồng thời với các kết quả định giá kinh tế trong
khi ra một quyết định. Cuối cùng là một phơng pháp luận khác cho việc ra quyết định
trong trờng hợp các loài quý hiếm đang bị đe dọa.
Trong chơng 6 có đa ra các khuyến nghị cho những hành động trong tơng
lai. Những khuyến nghị ấy nhấn mạnh sự cần thiết phải: tiến hành những nghiên cứu
định giá kinh tế tại các địa điểm đặc thù; bảo đảm sự cộng tác liên ngành; đào tạo và
xây dựng năng lực thiết chế của cơ sở; tiến hành nghiên cứu lý thuyết và thực hành
định giá kinh tế; và thiết lập mạng lới để trao đổi ý tởng và kinh nghiệm áp dụng
các phơng pháp định giá.
Sau phần nội dung chính có danh mục thuật ngữ, liệt kê tài liệu tham khảo và
đọc thêm. Phần phụ lục có nêu các chi tiết về hợp phần, chức năng và sản phẩm của
các hệ đất ngập nớc khác nhau; một bảng so sánh các phơng pháp thẩm định kinh
tế; và bảng nêu những u thế và hạn chế của các kỹ thuật định giá khác nhau đợc sử
dụng trong thẩm định kinh tế đất ngập nớc.
9
Định giá kinh tế đất ngập nớc
1. Cơ sở của vấn đề quản lý đất ngập nớc toàn cầu
1.1 Định nghĩa đất ngập nớc
Rõ ràng là khi bạn phải lội chân ngập bùn đến đầu gối ở một đầm nớc
đọng ở Zambia, đó đích thực là đất ngập nớc. Nhng việc cố gắng tập hợp các
kinh nghiệm để cung cấp một định nghĩa chính xác về đất ngập nớc là cả một sự
tranh cãi và khó khăn do có quá nhiều các dạng đất ngập nớc và việc xác định
ranh giới của chúng. Ví dụ, vùng đất đó có thờng xuyên và bị ngập nớc kéo dài
trong bao lâu trớc khi nó đợc coi là một vùng đất ngập nớc ? Vấn đề bị phức
tạp bởi sự thật là nhiều vùng đất ngập nớc phát triển theo thời gian, ban đầu là
nớc, nhng bị trầm tích và thực vật bồi lắng và sau đó trở thành đất nền. Tuy
nhiên, đất ngập nớc thờng chiếm những vùng chuyển tiếp giữa đất ớt vĩnh cửu
và môi trờng khô - đại thể nó chia sẻ các tính chất của cả hai môi trờng và
không thể phân loại rõ ràng nh nớc hoặc đất liền. Vấn đề mấu chốt của đất ngập
nớc là có nớc trong một giai đoạn thời gian đáng kể, mà thời gian này có thể
làm thay đổi đất, vi sinh vật, quần hệ thực vật và động vật, nói một cách khác là
đất có các chức năng của môi trờng sống hoặc nớc hoặc cạn.
May mắn sao, đã có một số sự giúp đỡ. Khoảng 100 nớc đã thông qua
một định nghĩa bằng cách ký Công ớc Ramsar về các vùng đất ngập nớc có tầm
quan trọng quốc tế (xem phần 1.5). Công ớc đã thông qua và bảo hộ một cách
tiếp cận vô cùng khái quát trong việc xác định đất ngập nớc. Trong nguyên văn
của Công ớc (Điều khoản 1.1), đất ngập nớc đợc định nghĩa là:
vùng đầm lầy, bãi lầy, đất than bùn hoặc nớc, dù tự nhiên hay nhân
tạo, vĩnh cửu hoặc tạm thời, có nớc chảy hoặc không chảy, nớc ngọt, nớc
lợ hoặc nớc mặn, kể cả vùng nớc biển có độ sâu không quá 6 mét ở mức
thủy triều thấp
Ngoài ra, Công ớc (Điều khoản 2.1) còn quy định rằng các vùng đất ngập
nớc:
có thể gắn kết các vùng ven biển hoặc ven sông kề sát vùng đất
ngập nớc, và các đảo hoặc các vùng nằm trong vùng đất ngập nớc có độ
sâu không quá 6 mét ở mức thủy triều thấp
Kết quả của các điều khoản này là Công ớc mở rộng định nghĩa cho
nhiều loại vùng c trú khác nhau, bao gồm cả sông, vùng nớc nông ven bờ và
thậm chí các rạn san hô nhng không phải là vùng biển sâu.
1.2 Các dạng đất ngập nớc
Trong nỗ lực nhằm phân loại các vùng đất ngập nớc theo định nghĩa
Ramsar, Scott (1989) đã xác định 30 nhóm đất ngập nớc tự nhiên và 9 nhóm
nhân tạo. Tuy nhiên, để minh hoạ có thể xác định năm hệ đất ngập nớc khái qúat
sau :
vùng cửa sông - nơi sông gặp biển và có độ mặn nằm giữa nớc
mặn và nớc ngọt (chẳng hạn, vùng châu thổ, bãi lầy nớc thải, vùng đầm lầy
nớc mặn)
10
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
vùng biển - không bị ảnh hởng bởi dòng chảy của sông (ví dụ,
vùng ngập ven biển và các rạn san hô)
ven sông - vùng đất bị ngập nớc theo chu kỳ do mực nớc sông
cao hơn (bãi cỏ nớc, rừng ngập nớc, vùng trâu đầm)
Palustri môi trờng lầy có cỏ mọc, ở đó không ít thì nhiều
thờng xuyên có nớc (hồ cói, đầm lầy)
vùng hồ - khu vực có nớc thờng xuyên với dòng chảy nhỏ (ao,
hồ, hồ trên miệng núi lửa)
1.3. Tầm quan trọng của đất ngập nớc
Tầm quan trọng của đất ngập nớc thay đổi theo thời gian. Quay trở lại với
môi trờng đầm lầy của Kỷ Cacbon, khoảng 350 triệu năm trớc đây, đất ngập
nớc đã tạo ra và bảo tồn nhiều loại nhiên liệu hoá thạch (than và dầu) mà ngày
nay chúng ta bị phụ thuộc vào. Gần đây hơn, các vùng đất ngập nớc nằm dọc
theo các sông lớn của thế giới nh Tigir, Euphates, Niger, Nile, Indus và Mêkông,
nuôi dỡng các nền văn minh lớn của lịch sử. Những vùng đất ngập nớc này đã
cung cấp cá, nớc uống, đất chăn thả và giao thông và là một phần của lịch sử văn
hoá thời sơ sử của loài ngời và trở thành một yếu tố trung tâm của thần thoại,
nghệ thuật và tôn giáo.
Vì kiến thức khoa học về đất ngập nớc ngày càng tăng, nhiều loại hàng
hoá và dịch vụ tinh vi đã xuất hiện. Đất ngập nớc cũng đợc mô tả cả nh là
những quả thận của phong cảnh, vì các chức năng mà nó có thể thực hiện trong
các chu kỳ hoá học và thủy văn và nh là các siêu thị sinh học vì có các mạng
thực phẩm rộng lớn và tính đa dạng sinh học giầu có mà các vùng ngập nớc hỗ
trợ (Mitsch và Gosselink, 1993).
Đất ngập nớc nằm giữa các hệ sinh thái mầu mỡ của trái đất. Các nét đặc
trng của hệ có thể đợc chia theo thành phần, chức năng và thuộc tính. Thành
phần của hệ là các đặc trng sinh học và phi sinh học bao gồm đất, nớc, thực vật
và động vật. Mối tơng tác giữa các thành phần này chính là sự mô tả các chức
năng của chúng bao gồm chu kỳ dinh dỡng và trao đổi nớc giữa nớc mặt và
nớc ngầm và giữa nớc mặt và nớc trong khí quyển. Hệ cũng còn có các thuộc
tính nh tính đa dạng của các loài.
Các hệ đất ngập nớc đã trực tiếp cấp dỡng hàng triệu ngời và cung cấp
giá trị hàng hoá và dịch vụ cho thế giới bên ngoài vùng đất ngập nớc. Con ngời
sử dụng đất ở vùng đất ngập nớc để cày cấy, họ bắt cá ở vùng đất ngập nớc để
ăn, họ cắt cây của vùng đất ngập nớc lấy gỗ và dùng làm nhiên liệu và cắt sậy
làm thảm và lợp mái nhà. Việc sử dụng trực tiếp cũng có thể kể ra nh các thú tiêu
khiển nh quan sát chim và bơi thuyền hoặc nghiên cứu khoa học. Ví dụ, đất than
bùn bảo tồn những gì còn sót lại và dấu vết của ngời cổ và là những mối quan
tâm lớn của các nhà khảo cổ.
Ngoài việc sử dụng đất ngập nớc trực tiếp, con ngời còn thụ hởng các
chức năng và dịch vụ của đất ngập nớc. Vì nớc lụt chảy qua vùng đất ngập
nớc, nớc đã tạm thời bị giữ lại; điều này làm giảm đỉnh lũ và làm chậm thời
gian cao điểm làm cho ngời dân ven sông vùng hạ lu có thể tận dụng đợc. Các
vùng rừng đợc giảm năng lợng sóng, nó bảo vệ cộng đồng ven biển, và vì đất
ngập nớc tái sinh nitơ, nó cải thiện chất lợng nớc vùng hạ lu. Nhờ những
nguồn lợi đó, con ngời đã sử dụng gián tiếp các chức năng của đất ngập nớc.
Các chức năng này có thể đợc thực hiện bằng các hệ thống kỹ thuật nh các đập,
11
các bức tờng chắn sóng hoặc các nhà máy xử lý nớc, nhng các giải pháp công
nghệ nh vậy thờng đắt hơn các chức năng mà tự đất ngập nớc thực hiện.
Tuy nhiên, không phải tất cả đất ngập nớc thực hiện chức năng thủy văn
đối với cùng một quy mô nếu có. Thực vậy, một số chức năng thủy văn đất ngập
nớc có thể trái ngợc với nhu cầu của con ngời nh những vùng đất ngập nớc
ven sông có thể trở thành vùng tạo dòng tràn làm tăng hiểm hoạ lũ lụt vùng hạ lu.
Điều là cơ bản cần phải định lợng các chức năng của đất ngập nớc trớc khi
đánh giá chúng.
Sự tồn tại tại đơn thuần của các vùng đất ngập nớc có thể có ý nghĩa lớn
đối với một số ngời. Đối với những ngời đã lớn lên ở vùng đất ngập nớc,
nhng chuyển vào sống ở thành phố, có thể đánh giá cao giá trị của đất ngập nớc
vì nó là một phần của di sản văn hoá của họ, thậm chí cho dù họ không bao giờ
quay trở lại vùng đất ngập nớc.
Các thành phần, chức năng và thuộc tính của đất ngập nớc sẽ đợc mô tả
chi tiết hơn trong Phụ lục 1, trong khi Chơng 2 thảo luận về chúng trong phạm vi
đánh giá giá trị kinh tế vùng đất ngập nớc.
l.4 Sự mất đất ngập nớc
Đất ngập nớc là các hệ động, liên tục chịu sự thay đổi tự nhiên do lún,
hạn hán và mức nớc biển dâng cao hoặc bị trám bởi các trầm tích hoặc vật liệu
hữu cơ. Vì vậy, nhiều vùng đất ngập nớc thờng chỉ có các đặc trng tạm thời
của phong cảnh và dự kiến sẽ bị thay đổi và cuối cùng là biến mất, trong khi các
vùng đất ngập nớc mới đợc tạo ra ở một nơi nào đó. Hoạt động trực tiếp hoặc
gián tiếp của con ngời đang biến đổi đáng kể tốc độ thay đổi đất ngập nớc. ở
một mức độ nào đó, chúng ta đã tạo ra các vùng đất ngập nớc nhân tạo bằng cách
xây dựng các hồ chứa nớc, các kênh và các khu trữ nớc lụt. Tuy nhiên, sự mất
các vùng đất ngập nớc còn nhanh hơn những gì chúng ta thu đợc.
Quan điểm đất ngập nớc là vùng đất bỏ hoang là kết quả của sự ngu dốt
hoặc hiểu nhầm về giá trị hàng hoá và dịch vụ mà đất ngập nớc đem lại, đa đến
sự chuyển đổi đất ngập nớc cho mục đích nông nghiệp thâm canh, công nghiệp
hoặc dân dụng. Những mong ớc cá nhân của những ngời nông dân hoặc những
nhà phát triển từng đợc hỗ trợ bởi các chính sách và trợ cấp của chính phủ. Thêm
vào các hoạt động trực tiếp trên mặt đất, các hệ thống kỹ thuật trên sông ngòi
đang trích nớc ra khỏi đất ngập nớc, bởi vì ngời ta vẫn tin rằng nớc này đang
bị bỏ phí trong vùng đất ngập nớc hoặc ít nhất có giá trị thấp hơn việc sử dụng
chúng để tới tiêu cho lúa vùng thợng du. Một số tổ chức vẫn chỉ coi đất ngập
nớc là tiềm năng cung cấp đất cho nông trại nuôi số dân đang phát triển thì
thờng đòi hỏi thay đổi các hệ tự nhiên. Đất ngập nớc cũng có thể bị mất bởi ô
nhiễm, vứt chất thải bởi công nghiệp mỏ hoặc trích rút nớc ngầm.
Bảng 1.1 Sự mất đất ngập nớc ở châu Âu (CEC, 1995)
Nớc Thời kỳ % mất đất ngập nớc
Hà Lan
1950-1985 55
Pháp
1900-1993 67
Đức
1950-1985 57
Tây ban nha
1948-1990 60
Italia
1938-1984 66
Hy Lạp
1920-1991 63
12
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Số lợng đất ngập nớc bị mất rất khó định lợng vì tổng diện tích đất
ngập nớc trên thế giới không biết chính xác. Tuy vậy, có một số con số của một
số nớc riêng biệt chỉ ra mức độ của vấn đề này. Hoa Kỳ mất khoảng 87 triệu
hecta (54%) tổng số đất ngập nớc vốn có của họ (Tiner, 1984), chủ yếu là do sản
xuất nông nghiệp. Số liệu mất đất ngập nớc ở sáu nớc châu Âu đợc mô tả trong
Bảng 1.1 (CEC, 1995), trong khi ở Bồ Đào Nha khoảng 70% vùng đất Tây
Algavre bị chuyển sang dùng cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp (Pullan,
1988). Chính sách của Cộng đồng châu Âu là đất ngập sẽ không còn tiếp tục bị
mất hoặc phá huỷ nữa. ở Philippin, khoảng 300.000 ha (67%) diện tích đất ngập
mặn đã bi mất trong vòng 60 năm từ năm 1920 đến 1080 (Zamora, 1984).
Bảng 1.2 Phạm vi tác động của các vụ đe doạ chính đối với đất ngập nớc ở
châu á, Mỹ Latinh và vùng Caribê (WXMC, 1992) (theo % diện tích)
Châu á
Châu Mỹ Latinh và Caribê
Săn bắt và xáo trộn liên quan 32
30,5
Định c của con ngời 27
Tới tiêu cho nông nghiệp 23
19
Xáo trộn do các hoạt động giải trí
11,5
Khai khẩn cho phát triển đô thị và
công nghiệp
10,5
Ô nhiễm 20
31
Đánh bắt cá và xáo trộn liên quan 19
10
Khai thác gỗ thơng phẩm và lâm
nghiệp
17
10
Đốn gỗ cho sử dụng trong sinh hoạt 16
Suy thoái vùng thu nớc, sói mòn đất
và bùn hoá
15
Chuyển đổi thành các hồ nuôi thủy sản
hoặc lòng chảo sản xuất muối
11
Dịch chuyển dòng chảy 9
Chăn thả quá mức các đàn gia súc 9
Đất ngập nớc không nhất thiết cứ bị mất hoàn toàn mới bị giảm giá trị
của nó. Gamelsrod (1992) chỉ ra rằng, việc sản xuất tôm trên vùng bờ sông Safala
ở Mozămbíc liên quan tới các dòng chảy mùa ẩm từ sau Zambezi. Do việc xây
dựng các đập chính dọc theo sông làm giảm các dòng chảy tràn ra và do đó số
lợng tôm cũng giảm. Ông đã tính toán rằng, số tiền thu đợc từ nuôi tôm có thể
tăng 10 triệu đôla Mỹ một năm do việc tháo nớc hợp lý từ đập Cabora Basa mà
trớc đây đã không đợc sử dụng.
Hiện nay đang có nhiều trờng hợp khôi phục các vùng đất ngập nớc do
ngời ta đã nhận thức đợc về hậu quả suy thoái đất ngập nớc. Việc tháo nớc
một cách nhân tạo khỏi đập đẫn đến việc tái ngập các vùng đất ngập nớc đã bị
suy thoái là một cơ chế (Acreman, 1994), mà các ví dụ là trên các sông Senegal,
Kafue (Zambia), Logone (Camơrun) và Phongolo (Nam Phi) (Acreman & Hollis,
1996). Tuy nhiên, có nhiều ngoại lệ hơn là quy luật và các dự báo cho rằng việc
gây áp lực đến phát triển các vùng đất ngập nớc ngày càng gia tăng, đặc biệt là
ở châu á, châu Phi và Mỹ Latinh. Tuy vậy, vẫn còn nhu cầu lớn về việc tuyên
truyền những ích lợi của vùng đất ngập nớc nhằm khuyến khích sự bảo tồn và sử
dụng bền vững, thông qua các tổ chức nh IUCN - Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
Thế giới và Công ớc Ramsar.
13
1.5 Vai trò của Công ớc Ramsar trong việc bảo tồn đất ngập nớc
Công ớc về đất ngập nớc có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt đối với nơi
c trú của các loài chim nớc - thờng đợc dẫn là Công ớc Ramsar kể từ khi
đợc thông qua ở Iran năm 1971 - là hiệp ớc đầu tiên trong các hiệp ớc liên
chính phủ toàn cầu hiện đại về bảo tồn và sử dụng một một cách sáng suốt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Sứ mệnh của Công ớc Ramsar (Ramsar, 1996) là việc bảo tồn và sử
dụng sáng suốt các vùng đất ngập nớc thông qua hành động quốc gia và hợp
tác quốc tế nh một công cụ để đạt đợc phát triển bền vững trên toàn thế
giới.
Công ớc quy định một khung cho hợp tác quốc tế và đã đợc thiết lập sau
khi có các mối quan tâm vào những năm 1960 về sự suy giảm nghiêm trọng số
lợng các loài chim nớc (chủ yếu là vịt). Công ớc này đợc thi hành vào năm
1975 và hiện nay có 100 bên ký kết, và có nghĩa vụ phải thực hiện bốn hoạt động
chính sau:
Chỉ định vùng đất ngập nớc đợc đa vào Danh sách vùng đất
ngập nớc có tầm quan trọng quốc tế (Danh sách Ramsar) và duy trì các tính
chất sinh thái của chúng
Phát triển các chính sách đất ngập nớc quốc gia, gồm đa việc
bảo tồn vùng đất ngập nớc vào xem xét trong quy hoạch sử dụng đất quốc gia
của mình, phát triển các kế hoạch quản lý tổng hợp vùng thu nớc và đặc biệt,
chấp nhận và áp dụng các hớng dẫn thực thi. Khái niệm Sử dụng sáng suốt, với
việc sử dụng bền vững đất ngập nớc vì lợi ích của nhân loại bằng cách tơng
thích với việc duy trì các tính chất tự nhiên của hệ sinh thái
Thúc đẩy việc bảo tồn các vùng đất ngập nớc trên lãnh thổ của
mình thông qua việc xây dựng khu bảo tồn tự nhiên và thúc đẩy việc đào tạo trong
nghiên cứu, quản lý và giám sát đất ngập nớc
Tham vấn với các bên đã ký kết khác về các vùng đất ngập nớc
xuyên biên giới, các hệ thống tới tiêu chung, các loài chung và hỗ trợ phát triển
cho các dự án về đất ngập nớc.
Bằng cách này, Công ớc đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ
ngăn chặn các thay đổi bất lợi đối với vùng đất ngập nớc ở những quốc gia đã ký
Công ớc. Sự hỗ trợ kỹ thuật để bảo tồn vùng đất ngập nớc theo Công ớc đợc
các tổ chức nh IUCN và Hiệp hội Đất ngập nớc quốc tế (một tổ chức đợc thành
lập từ Văn phòng Nghiên cứu Chim nớc và Đất ngập nớc Quốc tế, Văn phòng
Đất ngập nớc châu á và châu Mỹ). Những thành công đáng kể là:
Ngăn chặn sự phát triển nông nghiệp tại nơi c trú của loài cò thìa
Platalea leucorodia ở vùng Horrtobagy, thuộc danh sách Ramsar, Hungari (1985)
ốc đảo Azraq ở Jodan đợc hởng lợi do đợc đa vào hồ sơ
Montreux (một danh sách các vùng đã hoặc đang xây và hoặc có khả năng xảy ra
thay đổi các tính chất sinh thái), nghiên cứu hậu quả các mối đe dọa đối với đất
ngập nớc, các giải pháp đợc khuyến nghị và kết quả là các quỹ nhận đợc từ
Quỹ Môi trờng Toàn cầu (UEF) (1990)
Bác bỏ các đề xuất dự án phát triển có thể có tác động có hại đối
với vùng đầm lầy cửa sông thuộc danh sách Ramsar ở Anh Quốc (1992)
14
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Bác bỏ các kế hoạch xây dựng một trại nuôi lợn tập trung trong
vùng thu nớc của hồ Cundare và kết thúc bằng việc từ chối xây dựng nh vậy ở
sát ngay Hồ Beeac ở Bang Victoria, Ôxtrâylia (1993)
Do vậy Công ớc Ramsar đóng một vai trò quan trọng sống còn trong việc
bảo tồn các vùng đất ngập nớc của thế giới.
2. Tại sao phải đánh giá
Để hiểu tại sao cần phải đánh giá giá trị kinh tế có thể có tầm quan trọng
đối với hoạch định chính sách và quản lý đất ngập nớc, điều cần thiết đầu tiên là
xem xét vai trò của việc đánh giá trong các quyết định liên quan tới việc sử dụng
tài nguyên môi trờng nói chung và đất ngập nớc nói riêng. Trong chơng này
chúng tôi đa ra giả thuyết rằng nguyên nhân cơ bản của việc làm cạn kiệt quá
mức và sự chuyển đổi các nguồn đất ngập nớc thờng là một sai lầm khi tính
toán thoả đáng các giá trị môi trờng phi thị trờng của chúng trong các quyết
định phát triển. Bằng cách cung cấp một công cụ để đo lờng và so sánh các lợi
ích khác nhau của các vùng đất ngập nớc,giá trị kinh tế có thể là một công cụ
mạnh để hỗ trợ và cải thiện việc sử dụng và quản lý một cách sáng suốt các nguồn
đất ngập nớc toàn cầu.
2.1 Vai trò của đánh giá kinh tế trong việc ra quyết định
Chúng ta có thể định nghĩa đánh giá kinh tế là nỗ lực nhằm áp các giá trị
định lợng đối với hàng hoá và dịch vụ do các nguồn tài nguyên môi trờng tạo ra,
dù có hay không có sẵn giá thị trờng để giúp chúng ta. Tuy nhiên định nghĩa nh
vậy chỉ đi đợc một phần đờng. Chúng ta phải định nghĩa cụ thể hơn và xem các
nhà kinh tế định nghĩa thuật ngữ giá trị nh thế nào. Giá trị kinh tế của bất kỳ loại
hàng hoá và dịch vụ nào nói chung đợc đo theo nghĩa chúng ta sẵn lòng trả bao
nhiêu cho loại hàng hoá đó, ít hơn giá trị để làm ra nó. O nơi mà, nguồn tài
nguyên môi trờng đơn giản là tồn tại và cung cấp cho chúng ta các sản phẩm và
dịch vụ không có giá, thì chỉ có giá mà chúng ta mong muốn trả sẽ thể hiện giá trị
của nguồn tài nguyên cung cấp cho chúng ta hàng hoá đó, cho dù trong thực tế
chúng ta có trả tiền hay không.
Vậy thì, tại sao đánh giá giá trị các nguồn tài nguyên môi trờng ? Câu trả
lời là mặc dù chúng ta biết một cách trực giác rằng nguồn tài nguyên nh vậy có
thể quan trọng, thì điều này cũng cha đủ để chúng ta đảm bảo việc sử dụng
chúng một cách sáng suốt. Nhiều nguồn tài nguyên môi trờng là phức hợp và đa
chức năng và việc vô số hàng hoá và dịch vụ do các nguồn tài nguyên này cung
cấp tác động tới phúc lợi của nhân loại nh thế nào dờng nh không rõ ràng.
Trong một vài trờng hợp, việc làm cạn kiệt hoặc phá hủy các nguồn tài nguyên
môi trờng có thể là đáng giá; trong trờng hợp khác, cần nắm giữ các nguồn tài
nguyên này. Việc đánh giá giá trị kinh tế cung cấp cho chúng ta một công cụ để
hỗ trợ cho các quyết định khó khăn liên quan.
Việc mất các nguồn tài nguyên môi trờng là một vấn đề kinh tế bởi vì các
giá trị quan trọng bị mất đi, một vài trờng hợp có lẽ là không thể đảo ngợc
đợc, trong khi nguồn tài nguyên này bị suy thoái hay biến mất. Mỗi một sự lựa
chọn hoặc phơng án cho nguồn tài nguyên môi trờng - bỏ mặc nó trong hiện
trạng tự nhiên để nó bị suy thoái hoặc chuyển nó sang mục đích khác - quan hệ
mật thiết với giá trị đợc và mất. Việc quyết định theo đuổi mục đích sử dụng nào
đối với một nguồn tài nguyên môi trờng đã cho, và cuối cùng liệu tốc độ mất tài
nguyên hiện nay có quá đáng hay không, chỉ có thể đợc đa ra nếu vấn đề
đợc và mất đợc phân tích và đánh giá một cách đúng đắn. Điều này đòi hỏi tất
15
cả các giá trị đang thu đợc hoặc mất đi dới mỗi phơng án sử dụng tài nguyên
phải đợc xem xét một cách cẩn thận.
Ví dụ, việc bảo tồn hiện trạng tự nhiên một khu vực bao gồm chi phí trực
tiếp của việc bảo tồn để thiết lập một vùng bảo vệ và ở các nớc đang phát triển,
điều này có nghĩa là trả công cho những ngời canh gác và giám sát để bảo vệ và
duy trì khu vực này và có thể là chi phí để xây dựng một vùng đệm cho cộng
đồng địa phơng xung quanh. Các phơng án phát triển sẽ bị hy sinh nếu việc bảo
tồn đợc lựa chọn và lợi ích phát triển bị mất đi (do phơng án không đợc duyệt)
sẽ là chi phí liên quan tính thêm cho phơng án bảo tồn. Giá này dễ dàng xác định
bởi nó thờng bao gồm sản phẩm thị trờng và phần thu nhập bên hy sinh (ví dụ,
thu nhập của đánh cá và thu nhập của nông nghiệp để tồn tại, trong trờng hợp
vùng đất ngập nớc). Vì thế, không ngạc nhiên gì khi các chính phủ và các nhà tài
trợ thờng xem xét chi phí tổng - chi phí trực tiếp cộng thêm lợi ích phát triển đã
bị mất đi - của việc bảo tồn khi lựa chọn gìn giữ một nguồn tài nguyên môi trờng
trong hiện trạng tự nhiên hoặc có quản lý.
Nhng một cách tiếp cận tơng tự phải đợc xem xét khi đánh giá các
phơng án phát triển nguồn tài nguyên môi trờng. Ví dụ, nếu nguồn tài nguyên
môi trờng đợc chuyển đổi vào mục đích sử dụng khác, không chỉ chi phí trực
tiếp việc chuyển đổi phải tính vào nh một phần của chi phí cho phơng án phát
triển này mà phải tính cả giá trị mất đi do nguồn tài nguyên đã chuyển đổi này
không thể cung cấp sản phẩm nh trớc nữa. Điều này có thể bao gồm việc mất đi
các chức năng môi trờng quan trọng, và trong trờng hợp các hệ tài nguyên phức
hợp nh vùng đất ngập nớc là nhiều nguồn tài nguyên sinh học quan trọng và các
giá trị tiện nghi (mà thu tự nhiên mang lại). Đáng tiếc, nhiều trong số các giá trị
này của nguồn tài nguyên môi trờng tự nhiên hoặc đợc quản lý thờng không
đợc bán và mua trên thị trờng, và do vậy đa số chúng bị bỏ qua không tính tới
trong các quyết định phát triển của nhà nớc và t nhân.
Ví dụ, giá trị thị trờng của các nguồn tài nguyên môi trờng đã đợc
chuyển đổi thành một số mục đích thơng mại có thể không phản ánh sự mất lợi
ích môi trờng. Do vậy, các quyết định phát triển thờng thiên về mục đích sử
dụng các nguồn tài nguyên môi trờng định lại các sản phẩm thơng mại. Do vậy,
việc thiếu khả năng đánh giá một cách đầy đủ hơn các giá trị kinh tế của việc
chuyển đổi hoặc suy thoái các nguồn tài nguyên môi trờng là một yếu tố cơ bản
phía sau việc thiết kế các chính sách phát triển không phù hợp. Kết qủa là có quá
nhiều việc chuyển đổi và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên môi trờng. Vì
sự sai sót này là đặc hữu trong các quyết định của nhà nớc và t nhân liên quan
tới việc sử dụng nguồn tài nguyên môi trờng - đặc biệt các nguồn đất ngập nớc -
việc đánh giá một cách đầy đủ hơn lợi ích kinh tế thực của các phơng án sử dụng
đất ngập nớc khác nhau là điều cần thiết.
Việc đánh giá chỉ là một yếu tố trong nỗ lực nhằm cải thiện việc quản lý
các nguồn tài nguyên môi trờng nh đất ngập nớc. Đồng thời những nhà ra
quyết định phải tính đến nhiều lợi ích cạnh tranh khi quyết định sử dụng đất ngập
nớc thế nào là tốt nhất. Việc đánh giá kinh tế có thể giúp cung cấp thông tin cho
các quyết định quản lý nh vậy, nhng chỉ với điều kiện là nếu các nhà ra quyết
định nhận thức đợc mục tiêu tổng quát và những hạn chế của việc đánh giá.
Mục tiêu chính của việc đánh giá hỗ trợ các quyết định quản lý đất ngập
nớc nhìn chung là chỉ ra hiệu quả kinh tế tổng quát của việc sử dụng cạnh tranh
các nguồn tài nguyên đất ngập nớc khác nhau. Có nghĩa là, những giả định ngầm
là các nguồn tài nguyên đất ngập nớc phải đợc phân bổ cho những mục đích sử
dụng mang lại cái đợc tổng thể hay lợi nhuận vòng tổng thể cho xã hội, đợc tính
bằng sự đánh giá các lợi ích kinh tế của mỗi phơng án sử dụng trừ đi chi phí của
16
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
chúng
1
. Ai là ngời thực chất đợc hởng lợi và bị thiệt hại từ một việc sử dụng
đất ngập nớc nào đó sẽ không phải là một bộ phận của tiêu chuẩn hiệu quả. Mặc
dù việc sử dụng đất ngập nớc đang chỉ ra lợi ích ròng lứon cha chắc đáng làm
theo tiêu chí về hiệuquả, mặc dù những ngời đợc hởng lợi cơ bản có thể không
nhất thiết là nhóm ngời chịu gánh nặng chi phí từ việc sử dụng này. Nếu thế thì
việc sử dụng đất ngập nớc cụ thể nào đó có thể là hiệu quả nhng nó cũng có thể
có những hậu quả phân phối tiêu cực đáng kể. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhiều
chính sách quản lý và đầu t cho đất ngập nớc đợc đề xuất thờng đợc đánh
giá không chỉ theo nghĩa hiệu quả của chúng mà còn theo các tác động phân phối
của chúng.
Việc đánh giá kinh tế cũng không phải là thuốc bách bệnh cho các nhà ra
quyết định khi phải đa ra có sự lựa chọn khó khăn liên quan tới việc quản lý
nguồn tài nguyên đất ngập nớc. Thờng là, các nhà ra quyết định đã có quyết
định theo đuổi chiến lợc quản lý đất ngập nớc nào dù chuyển đổi hay bảo tồn và
đơn giản là mong muốn đánh giá kinh tế để khẳng định lại việc lựa chọn này là có
hiệu quả hồi tố. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá đợc thực hiện rất ít, nhằm
thông báo quy trình ra quyết định và chủ yếu chẳng để làm gì. ở thái cực kia, đôi
khi các nhà ra quyết định đặt ra câu hỏi mà việc đánh giá kinh tế không thể thực
hiện đợc. Khó khăn cơ bản trong việc đánh giá một hệ thống môi trờng phức
hợp nh đất ngập nớc là việc thiếu thông tin về các quá trình thủy văn và sinh
thái quan trọng là nền tảng của nhiều giá trị khác do đất ngập nớc tạo ra. Nếu
thông tin này thiếu - thờng là trong trờng hợp đối với các giá trị môi trờng phi
thị trờng có thể rất quan trọng đối với việc đánh giá - sau đó là phận sự của các
nhà phân tích tiến hành đánh giá nhằm cung cấp các đánh giá thực tế khả năng
của mình để đánh giá những lợi ích môi trờng chủ chốt. Tơng tự, những nhà ra
quyết định phải nhận thức rằng trong bối cảnh nh vậy không thể mong đợi đợc
cung cấp sự đánh giá thực tế các giá trị môi trờng phi thị trờng - và ít nhất nếu
thiếu sự đầu t về thời gian, nguồn lực và các nỗ lực hơn nữa trong nghiên cứu
kinh tế và khoa học .
Cuối cùng, việc đánh giá kinh tế lrốt cuộc sẽ liên quan tới việc phân bổ
các nguồn tài nguyên đất ngập nớc nhằm cải thiện phúc lợi của nhân dân. Hậu
quả là các lợi ích môi trờng khác nhau của đất ngập nớc đợc đo bằng sự đóng
góp của chúng vào việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cho nhân loại.
Tuy nhiên, một số thành viên của xã hội có thể tranh luận rằng các hệ đất ngập
nớc nhất định và các nguồn tài nguyên sinh vật mà nó chứa có thể có giá trị trội
hơn vợt xa cái mà nó có thể cung cấp bằng việc đáp ứng nhu cầu hoặc sở thích
của nhân loại. Từ những triển vọng này, việc bảo về các nguồn tài nguyên đất
ngập nớc là một vấn đề bổn phận đạo đức hơn là tính hiệu quả hoặc thậm chí
phân phối công bằng. Có thể có những động cơ khác để quản lý đất ngập nớc
bằng phơng thức đặc biệt nh các cân nhắc về chính trị. Bởi vậy, các giá trị kinh
tế chỉ đại diện cho một loại đầu vào cho quá trình ra quyết định bên cạnh các sự
cân nhắc quan trọng khác. Mục tiêu của văn bản này là giúp đỡ nhứng nhà hoạch
định kế hoạch và các nhà ra quyết định có các thông tin ngày càng đầy đủ về đánh
giá giá trị kinh tế trong quá trình ra quyết định.
2.2 Các giá trị kinh tế của đất ngập nớc
Nếu các nhà nghiên cứu đánh giá việc sử dụng đất ngập nớc và các nhà
ra quyết định tính đến các đánh giá nà khi xây dựng các chính sách tác động tới
1
Trong những điều kiện nào đó, điều này có thể đợc thể hiện là việc phân bổ các nguồn tài nguyên nhằm tối đa hoá phúc lợi
sẽ thoả mãn các tiêu chuẩn mà các nhà kinh tế gọi là Hiệu ứng Pareto. có nghĩa là bất kỳ sự phân bổ nào khác trong nền kinh
tế chỉ có thể làm cho một số ngời đợc lợi hơn khi làm cho những ngời khác bị thiệt hơn
17
đất ngập nớc, vậy thì cần phải có một khung để phân biệt và phân nhóm các giá
trị này. Khái nịệm giá trị kinh tế tổng (TEV) quy định một khung nh vậy và ngày
càng có sự nhất trí rằng đó là cách tiếp cận phù hợp nhất để sử dụng. Đơn giản là,
việc đánh giá kinh tế tổng đợc phân biệt giữa các giá trị sử dụng và các giá trị phi
sử dụng, giá trị sau liên quan tới các giá trị hiện tại hoặc tơng lai (tiềm năng) gắn
kết với một nguồn tài nguyên môi trờng đơn giản dù lệ thuộc vào sự tiếp tục tồn
tại của chúng và không liên quan tới việc sử dụng (Peace and Warford, 1993).
Điển hình, các giá trị sử dụng liên quan tới sự tơng tác của con ngời với các
nguồn tài nguyên trong khi giá trị phi sử dụng thì không liên quan tới sự tơng tác
đó. Khung đánh giá kinh tế tổng, khi đợc áp dụng cho đất ngập nớc, đợc minh
hoạ ở Bảng 2.1.
Các giá trị sử dụng đợc chia nhóm theo trực tiếp hoặc gián tiếp. Giá trị sử
dụng trực tiếp đề cập tới những ứng dụng mà đa số quen thuộc với chúng ta: thu
hoạch cá, thu nhặt gỗ củi và sử dụng đất ngập nớc cho mục đích giải trí (Bảng
2.1 liệt kê một số ứng dụng khác). Việc sử dụng trực tiếp đất ngập nớc có thể bao
gồm cả các hoạt động thơng mại và phi thơng mại mà một số hoạt động phi
thơng mại thờng có tầm quan trọng đối với các nhu cầu sinh tồn của dân c địa
phơng ở các nớc đang phát triển hoặc phục vụ thể thao và giải trí ở các nớc
phát triển. Việc sử dụng thơng mại có thể là quan trọng cho cả thị trờng trong
nớc và quốc tế. Nhìn chung, giá trị của các sản phẩm (dịch vụ) thị trờng hoá của
đất ngập nớc dễ đo đợc hơn là giá trị của việc sử dụng phi thơng mại và đợc
sử dụng trực tiếp vì sinh tồn. Nh đã nêu ra ở trên, đây là một nguyên nhân tại sao
các nhà hoạch định chính sách thờng quên xem xét việc sử dụng trực tiếp cho
sinh tồn phi thơng mại và việc sủ dụng không chính thức các vùng đất ngập nớc
trong nhiều quyết định phát triển.
Bảng 2.1 Phân loại giá trị kinh tế tổng của đất ngập nớc
Các giá trị sử dụng Các giá trị phi sử
dụng
Giá trị sử dụng trực
tiếp
Giá trị sử dụng gián
tiếp
Giá trị phơng án và
giá trị chuẩn
phơng án
Giá trị hiện hữu
Cá
nông nghiệp
gỗ củi
Giải trí
Giao thông
Săn bắt thú hoang
than bùn/năng
lợng
Duy trì chất dinh
dỡng
Kiểm soát lũ lụt
Phòng chống bão
Tái phục hồi nớc
ngầm
Hỗ trợ hệ sinh thái
bên ngoài
ổn định vi khí hậu
ổn định đờng ven
bờ. v. v
Việc sử dụng tiềm
năng tuơng lai ( sử
dụng trục tiếp và
gián tiếp)
Giá trị tơng lai của
thông tin
Đa dạng sinh học
Văn hoá, di sản
các giá trị để lại
Nguồn: Barbier (1989b, 1993, 1994) và Scodari (1990)
Ngợc lại, nhiều chức năng điều chỉnh sinh thái khác nhau của đất ngập
nớc có thể có các giá trị sử dụng qgián tiếp uan trọng. Các giá trị này bắt nguồn
từ việc hỗ trợ hoặc bảo hộ các hoạt động kinh tế có các giá trị có thể đo đợc một
cách trực tiếp. Giá trị sử dụng gián tiếp một chức năng môi trờng liên quan tới sự
thay đổi trong giá trị sản xuất hoặc tiêu dùng của hoạt động hoặc của tài sản đang
đợc bảo hộ hoặc hỗ trợ. Tuy nhiên, vì những đóng góp này không mang tính thị
trờng, nên cuối cùng không đợc tính tới về mặt tài chính và chỉ liên quan một
cách gián tiếp tới các hoạt động kinh tế, các giá trị sử dụng gián tiếp này thờng
khó định lợng và thờng bị bỏ qua trong các quyết định quản lý đất ngập nớc.
18
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Ví dụ, các chức năng cản bão và các chức năng ổn định dải ven bờ của đất
ngập nớc có thể có giá trị sử dụng gián tiếp thông qua việc giảm thiệt hại đối với
tài sản, tuy nhiên thờng thì các hệ đất ngập nớc, ven sông hoặc ven biển đang bị
phá huỷ và san lấp nhằm mục đích xây dựng các cơ ngơi trông ra biển. Các hệ đất
ngập mặn đợc biết đến là nơi gây giống và nuôi dỡng tôm, cá chủ yếu cho nuôi
trồng hải sản và nuôi cá ven bờ, tuy nhiên, các vùng c trú quan trọng này thờng
bị chuyển đổi khá nhanh ở nhiều vùng để nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là các đầm
nuôi tôm. Các vùng ngập tự nhiên có thể nạp lại nớc ngầm dùng để tới tiêu đất
nông nghiệp, tvùng đất khô cằn rồng cỏ nuôi gia súc và các mục đích sử dụng cho
gia đình, thậm chí sử dụng công nghiệp, tuy nhiên, nhiều vùng ngập nớc này
đang bị đe doạ bởi các đập và các chớng ngại ngăn nớc để tới và cung cấp
nớc cho vùng thợng lu.
Một chuẩn mực đặc biệt của việc giá trị lựa chọn nảy sinh do một cá nhân
có thể không biết rõ nhu cầu tơng lai của cô ta hoặc anh ta về một nguồn tài
nguyên và/ hoặc tính sẵn có của chúng trong đất ngập nớc trong tơng lai. Trong
đa số trờng hợp, cách tiếp cận đợc a thích hơn cả để tích hợp các giá trị lựa
chọn vào phép phân tích là thông qua việc xác định sự khác biệt giữa đánh giá trị
và giá trị
2
Nếu một cá nhân không biết rõ giá trị tơng lai của một vùng đất ngập
nớc, nhng tin tởng rằng nó có thể sẽ cao hơn hoặc việc khai thác hiện hành và
việc chuyển đổi có thể là không thể đảo ngợc đợc, thì có thể có giá trị chuẩn
phơng án bắt nguồn từ việc trì hoãn các hoạt động phát triển. Giá trị chuẩn
phơng án thờng đơn giản là giá trị dự kiến của thông tin có đợc từ việc trì hoãn
khai thác và chuyển đổi đất ngập nớc ngày nay. Nhiều nhà kinh tế tin tởng rằng
giá trị chuẩn lựa chọn không phải là một thành phần tách rời lợi ích nhng thu hút
các nhà phân tích trong việc tính toán một cách đúng đắn việc áp dụng thông tin
bổ sung thu thập đợc
3
.
Tuy nhyiên, ngợc lại có những cá nhân hiện hờng không sử dụng đất
ngập nớc tuy thế mà lại mong muốn nhìn thấy nó đựoc bảo tồn vì quyền của
chính vùng đất ngập nớc. Một giá trị nội tại nh vậy thờng đợc gọi là giá trị
hiện hữu. Đó là một hình thức của giá trị phi sử dụng rất khó đo lờng, vì các giá
trị hiện hữu bao gồm các đánh giá mang tính chủ quan bởi những cá nhân có
muốn sử dụng không liên quan tới bản thân nó hoặc tới những ngời khác, dù là
đang xảy ra trong hiện tại hay trong tơng lai. Một tập hợp con rất quan trọng của
giá trị phi sử dụng hoặc các giá trị bảo tồn là giá trị di tặng, có đợc từ việc các cá
nhân đặt ra một giá trị cao cho việc bảo tồn các vùng đất ngập nớc nhiệt đới để
cho các thế hệ tơng lai sử dụng. Trong khi có một số nghiên cứu về các giá trị phi
sử dụng liên quan tới đất ngập nớc (xem nghiên cứu điển hình do Ban Norfolk
của Anh thực hiện ở phần 4.3 làm ví dụ), các cuộc vận động của các nhóm môi
trờng Bắc Mỹ và châu Âu đã lập quỹ để hỗ trợ việc bảo tồn đất ngập nớc nhiệt
đới dù chỉ ở qui mô của sự việc
4
. Ví dụ, một vài năm trớc đây Hội Bảo về Chim
của Hoàng gia Anh (RSPB) đã thu đợc 500 nghìn bảng Anh (800 nghìn USD) từ
các chiến dịch gửi th vận động hội viên để giúp bảo về vùng đất ngập nớc
Hadejia-Nguru của Bắc Nigiêria ở Tây Phi
5
.
2.3 Tại sao các nguồn tài nguyên và các hệ đất ngập nớc bị đánh
giá thấp trong các quyết định phát triển
2
Điều này đợc thực hiện bởi việc phát triển các mô hình chuyên sâu về sự lựa chọn cá nhân, thôngqua lý lẽ về tính hữu dụng
cận biên của thu nhập khác nhau theo các dạng tái dự phòng khác nhau (Smith, 1983, Freeman, 1984)
3
Giá trị lựa chọn chuẩn có thể đợc tính toán bằng việc phân tích giá trị điều kiện của thông tin trong vấn đề ra quyết định
(Fisher and Hanemann, 1987)
4
Nói một cách nghiêm ngặt, tổng số thu đợc do các nhóm môi trờng thông qua th từ và các công cụ khác không thể dịch
đọc ngay lập tức thành :các giá trị phi sử dụng do những động cơ phức tạp mà của ngời đóng góp. Ví dụ, một vài cá nhân
đang lấy cái gọi là điểm sáng (warm glow) nh một nguyên nhân tốt mà không liên quan trực tiếp tới bản thân nguyên nhân.
5
Ken Smith, RSPC, th từ cá nhân
19
Nói tóm lại, các nguồn tài nguyên đất ngập nớc thờng đặc biệt dễ bị tổn
thơng bởi các quyết định phân bổ sai lầm do bản chất các giá trị liên quan tới nó.
Đất ngập nớc là nguồn tài nguyên đa chức năng do các tính chất nổi bật của
chúng. Nó không chỉ cung cấp cho chúng ta một số các nguồn tài nguyên quan
trọng nh cá, gỗ củi, động vật hoang dã, mà còn thực hiện một số lợng lớn không
ngờ các chức năng sinh thái hỗ trợ hoạt động kinh tế. Nhiều trong số các dịch vụ
này là không theo thị trờng hoá vì chúng không thể bán và mua đợc vì những hỗ
trợ mà chúng mang lại cho hoạt động kinh tế không trực tiếp và nhiều khi không
nhận thấy đợc. Trong trờng hợp đất ngập nớc nhiệt đới, nhiều công dụng sinh
tồn của tài nguyên đất ngập nớc thờng không đợc thị trờng hoá và do vậy
thờng bị bỏ qua trong các quyết định phát triển.
Một số chức năng sinh thái, tài nguyên sinh học và các giá trị tiện nghi do
đất ngập nớc cung cấp có chất lợng mà các nhà kinh tế gọi là hàng hoá công
cộng, do vậy hầu nh là không thể thơng mại hoá dịch vụ, thậm chí nếu chúng ta
mong muốn
6
. Ví dụ, nếu đất ngập nớc hỗ trợ tính đa dạng sinh học có giá trị,
việc tất cả mọi các cá nhân đều có thể thụ hởng lợi ích từ dịch vụ này và không
một cá nhân nào có thể bị loại trừ ra khỏi dịch vụ. Tình trạng nh vậy làm cho
việc thu thập phí trả cho dịch vụ đó cực kỳ khó khăn bởi vì dù bạn có trả hay
không, thì bạn vẫn có thể hởng lợi ích này. Trong tình trạng nh vậy, các dịch vụ
của đất ngập nớc có khả năng bị đánh giá thấp.
Có một số khó khăn xuất hiện từ chất lợng hàng hoá công cộng của các
giá trị đất ngập nớc có thể là không quan trọng nếu tất cả các lợi ích của đất ngập
nớc có thể đợc hoàn một cách đồng thời, không có bất kỳ sự mâu thuẫn nào
giữa các mục đích sử dụng khác nhau. Kết hợp tất cả các giá trị sử dụng lại cùng
nhau trong một tình huống đa sử dụng tự do chấp nhận sẽ dẫn tới sự nhận thức
đợc tầm quan trọng của việc bảo tồn một vùng đất ngập nớc trong tình trạng tự
nhiên hoặc bán tự nhiên. Tuy nhiên, giữa nhiều cách sử dụng đất ngập nớc, có
những mâu thuẫn hay những sự thay đổi cố hữu, thậm chí cả khi đất ngập nớc
đợc duy trì trong một tình trạng ít nhiều vẫn là tự nhiên (Turner, 1991). Chẳng
hạn, việc quản lý đất ngập nớc để giải trí hoặc đánh cá thơng mại là không thể
đợc khi cùng một lúc sử dụng để xử lý nớc thải. Thậm chí nếu ngay cả trong
trờng hợp xử lý nớc thải có giá trị hơn thì các tính chất hàng hoá công cộng và
phi thị trờng của chúng cũng có nghĩa là các giá trị của chúng không chắc chắn
đợc phản ánh một cách tự động trong các quyết định mang tính thị trờng. Nếu
chính sách nhà nớc cho phép các cá nhân hởng ứng với các tín hiệu thị trờng
để xác định phân bổ sử dụng đất ngập nớc - gọi là giải pháp thị trờng tự do -
thì không chắc đất ngập nớc sẽ bị sử dụng để xử lý nớc thải. Vì vậy, kết quả là
việc đánh giá thấp một dịch vụ sinh thái cơ bản một lần nữa có thể dẫn tới việc
sử dụng đất ngập nớc không thích hợp.
Đất ngập nớc và tài nguyên của chúng cũng có thể bị đánh giá thấp và do
vậy bị phân bố sử dụng sai do chế độ quyền sở hữu chi phối việc tiếp cận và sử
dụng đất ngập nớc. Ví dụ, vùng đất ngập nớc đợc quan tâm có thể đợc tiếp
cận tự do ở nơi không áp dụng các quy định và việc sử dụng nguồn tài nguyên này
có thể đợc mở rộng cho tất cả mọi ngời và không bị quy định ràng buộc. Đối
lại, các thu xếp phi chính thức theo truyền thống có thể chi phối việc sử dụng
chúng nh các nguồn tài nguyên sở hữu công cộng hoặc cộng đồng. Cuối cùng,
6
Hàng hoá công cộng tồn tại ở nơi mà một cá nhân có thể hởng từ sự tồn tại của một số dịch vụ hoặc thuộc tính môi trờng
và điều này không làm giảm sự hởng lợi mà các cá nhân khác có thể nhận đợc từ cùng một dịch vụ hoặc thuộc tính đó. Tình
trạng này tơng phản với hàng hoá t nhân là nơi mà ở đó hai cá thể không thể cùng thụ hởng hàng hoá đó. Một cách phân
loại các tiếp cận này đợc tham chiếu đối với mức độ của tính độc nhất của nó (liệu một số ngời có thể bị từ chối tiếp cận tới
các nguồn tài nguyên) hoặc tính cạnh tranh (liệu việc sủ dụng tài nguyên bởi một cá nhân có làm giảm khả năng sử dụng
chúng của ngời khác). Nhiều ứng dụng tài nguyên đất ngập nớc không mang tính độc nhất nhng sự cạnh tranh mà nó mở
ra cho tất cả mọi ngời nhng giảm bớt do sự tăng sử dụng. Một số là không cạnh tranh và không độc nhất - đó là các đặc tính
của hàng hoá công cộng sạch nh đa dạng sinh học và các giá trị phi mục đích (Aylward, 1992).
20
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
việc sở hữu nhà nớc hoặc t nhân có thể đặc trng cho cơ sở tài nguyên đất ngập
nớc (Bromley, 1989). Mỗi hình thức của quyền sở hữu có thể đợc đặc trng bởi
các điều kiện khai thác tài nguyên riêng. Chẳng hạn, các nguồn tài nguyên có thể
tiếp cận tự do thờng bị khai thác quá đáng, do vậy các giá trị sử dụng đợc giám
sát có thể là rất thấp. Kết quả là, nếu các nỗ lực nhằm đánh giá tài nguyên môi
trờng dựa trên sự quan sát đơn giản về tỉ lệ sử dụng hiện hành mà không xem xét
đến bối cảnh tổ chức, thì có thể dẫn tới việc đánh giá thấp nguồn tài nguyên này.
Điều này có thể đặc biệt quan trọng nếu việc sắp xếp tổ chức đợc thay đổi một
cách không chính thức, khi mà các hệ thống sở hữu công cộng bản xứ đợc đánh
giá lại sau một giai đoạn đắm chìm, hoặc một sự đổi mới đợc yêu cầu nh là một
yếu tố trong một dự án hoặc chơng trình tác động tới môt vùng đất ngập nớc và
khi đất đai bất thình lình bị t nhân hoá hoặc quốc hữu hoá.
Việc đánh giá thấp đất ngập nớc có thể là một vấn đề nghiêm trọng khi
mà một vùng đất ngập nớc đang bị đe doạ chuyển đổi hoàn toàn. Nh đã đợc
chỉ ra ở các phần trớc, sự phát triển hoặc chuyển đổi đất ngập nớc có khuynh
hớng sản sinh ra các sản phẩm thị trờng hoá, trong khi việc duy trì đất ngập
nớc trong tình trạng tự nhiên hoặc tình trạng đợc quản lý thờng dẫn đến việc
bảo tồn các sản phẩm và dịch vụ phi thị trờng
7
. Sự phân rẽ thờng xuất hiện trong
phơng án phát triển - sự khai khẩn thành đất nông nghiệp, ao nuôi cá và các
công trình sinh hoặt hoặc thơng mại - đang đợc nhìn nhận rộng rãi là những giá
trị sử dụng lớn nhất của đất ngập nớc. Vì những hoạt động nh vậy cũng sinh
nguồn thu cho chính phủ nên không có gì ngạc nhiên khi các nhà ra quyết định
cũng ủng hộ việc chuyển đổi đất ngập nớc thành việc sủ dụng thơng mại.
Thậm chí ngay ở cả những nơi mà doanh thu không phải là mục đích đầu
tiên của việc khai thác và chuyển đổi đất ngập nớc thì canh tác, nuôi trồng thủy
sản, phát triển các khu bất động sản và các hoạt động chuyển đổi khác nhìn chung
đợc xem là quan trọng cho phát triển kinh tế và tăng trởng khu vực. Nó dờng
nh thờng có mối quan hệ đáng kể với các ngành khác, đặc biệt là chế biến và
xây dựng, và có thể cung cấp những công việc sau đó đợc a thích ở những vung
có ít phơng án công nghiệp khác nhau. Đang có những lý lẽ hoàn hảo cho các
nhà lập kế hoạch và ra quyết định ở nhiều nớc để hỗ trợ việc chuyển đổi đất ngập
nớc để đổi lấy những giá trị khác của vùng đất ngập nớc khác. Đối lại, các chức
năng sinh thái phi thị trờng và các giá trị để giải trí do đất ngập nớc tự nhiên
hay vùng đợc quản lý đem lại có thể tạo nên một ít lợi ích phụ trợ và thay vào đó
thậm chí có thể thay thế cho các hoạt động tạo công ăn việc làm (nh xử lý nớc,
kiểm soát lũ và chống bão) hoặc đòi hỏi sự đầu t bổ sung các nguồn tài nguyên
công cộng khan hiếm (nh các khu du lịch và đờng xá cho mục đích giải trí).
Một số vùng đất ngập nớc cũng có thể có các tác động bên ngoại ứng tích cực
dới dạng hỗ trợ các vectơ bệnh nh muỗi mang bệnh sốt rét có thể dễ dàng nhận
thấy trong khi các chức năng hỗ trợ gián tiếp khác lại bị lãng quên.
Tóm lại, việc đánh giá thấp tài nguyên đất ngập nớc và các chức năng
của chúng là nguyên nhân cơ bản tại sao các hệ đất ngập nớc bị phân bố sử dụng
sai - thờng đối với các hoạt động chuyển đổi hoặc khai thác có thu nhập và doanh
thu trực tiếp. Việc đánh giá giá trị kinh tế có thể cung cấp cho các nhà ra quyết
định thông tin sống còn về chi phí và lợi ích của các phơng án sử dụng đất ngập
nớc khác nhau mà có thể không đợc tính đến trong các quyết định phát triển.
Trong Chơng 3, chúng tôi cung cấp một khung thẩm định chung để tiến hành
đánh giá giá trị đất ngập nớc có thể hỗ trợ cho các nhà ra quyết định trong việc
đánh giá lợi ích kinh tế tịnh của các phơng án sử dụng đất khác nhau.
7
Rõ ràng là vẫn có các cơ hội để khai thác bền vững một số sản phẩm thị trờng nh đánh bắt cá thủ công hoặc thu nhặt củi
gỗ. nhng các giá trị này chắc chắn là thấp hơn là lợi nhuận thị trờng từ các phơng án phát triển hoặc chuyển đổi.
21
2.4. Tại sao việc đánh giá liên quan tới Công ớc Ramsar
Một khái niệm chính ẩn chứa trong các nguyên tắc của Công ớc Ramsar
là đất ngập nớc có giá trị lớn. Việc bảo tồn chỉ có thể đạt đợc nếu đất ngập nớc
có thể đợc chỉ ra là có giá trị và trong một vài trờng hợp là có giá trị lớn hơn
việc sử dụng các phơng án sử dụng đất đợc đề xuất hoặc lớn hơn giá trị nửa
dơng vùng ngập nớc. Liên quan tới vấn đề này các bên tham gia Công ớc đợc
đề nghị cung cấp các giá trị vật lý và xã hội của đất ngập nớc nh là một phần
của thông tin để đa vùng đất ngập nớc vào Danh sách vùng đất ngập nớc có
tầm quan trọng quốc tế. Các bên tham gia Công ớc cũng cam kết tiến hành các
đánh giá tác động môi trờng, trớc khi bắt đầu triển khai các kế hoạch có thể có
tác động lên đất ngập nớc, đợc chú ý đặc biệt để duy trì các giá trị của đất ngập
nớc.
Nhằm hỗ trợ các bên tham gia vào nỗ lực này, Công ớc dự định thúc đẩy
sự phát triển, phổ biến một cách rộng rãi và áp dụng các tài liệu chỉ dẫn về việc
tiến hành đánh giá giá trị kinh tế của các hàng hoá và dịch vụ mà đất ngập nớc
đem lại nh một phần của việc áp dụng kế hoạch chiến lợc của Công ớc trong
giai đoạn 1997-2002. Do vậy, tài liệu này cung cấp sự hứớng dẫn cụ thể về kỹ
thuật đánh giá kinh tế và về sử dụng các nghiên cứu đánh giá trong các chính sách
đất ngập nớc quốc gia, các kế hoạch khu vực, các đánh giá tác động môi trờng
và quản lý lu vực sông.
3. Khuôn mẫu thẩm định cho định giá đất ngập nớc
Trong chơng này chúng tôi xây dựng một khuôn mẫu chung để đánh giá
những lợi ích kinh tế của những phơng thức sử dụng khác nhau đối với các
vùng đất ngập nớc
8
. Nói một cách lý tởng thì bất kỳ đánh giá nào phải đa
đến việc định giá trị kinh tế của tất cả các lợi ích và chi phí gắn với từng phơng
án sử dụng vùng đất ngập nớc sẽ đợc đa ra đánh giá. Phơng pháp luận đánh
giá đợc phát triển ở đây nhất quán với kỹ thuật kinh tế của phân tích chi phí-lợi
nhuận. Tuy nhiên, biết rằng sự hạn chế về số liệu thờng bó buộc khả năng của
các nhà phân tích trong việc định giá nhiều chức năng của môi trờng và nguồn
tài nguyên, cần phải làm thích nghi phơng pháp luận đánh giá trong các trờng
hợp nh vậy để cung cấp thông tin tốt nhất có thể trợ giúp cho việc ra quyết
định. Phụ lục 2 có miêu tả những phơng pháp luận đánh giá khác, gồm cả phân
tích chi phí-hiệu suất, phân tích đa diện, và những phân tích khác.
Một cách tiếp cận không có trong phụ lục 2 là quy tắc quyết định theo
Chuẩn An toàn Tối thiểu (SMS). Kỹ thuật này thích ứng ở những chỗ mà số
phận của những nguồn tài nguyên đất ngập nớc rất độc đáo đang bị đe dọa và
cần phải có khuyến cáo để tránh cho xã hội những tổn thất to lớn không thể đảo
ngợc đang tiềm tàng (xem bảng 3.1). Hiển nhiên là không phải có thể áp dụng
chuẩn an toàn tuyệt đối trong tất cả mọi vấn đề của việc quản lý đất ngập nớc,
nhng khi đợc làm nh vậy thì các nhà phân tích có thể thay đổi cách tiếp cận
chi phí-lợi nhuận chuẩn cho tơng xứng. Dù bất cứ phơng pháp nào đợc lựa
chọn thì cũng cần phải có một cách tiếp cận liên ngành ở mọi giai đoạn của
8
Khuôn khổ thẩm định đợc trình bày trong chơng này đã đợc E. Barber phát triển cho IIED (1994). Cách tiếp cận này ban đầu đợc
phát triển cho định giá kinh tế đất ngập nớc nhiệt đới; ví dụ xem Barber (1989b, 1993 và 1994).
22
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
đánh giá, và nh vậy phải có sự hợp tác giữa các nhà kinh tế và sinh thái học.
Hình 3.1. tóm tắt khuôn mẫu chung để định giá kinh tế đất ngập nớc
9
Hộp 3.1 áp dụng nguyên tắc phòng ngừa cho các quyết định quản lý vùng
đất ngập nớc
ở những nơi mà quyết định về sự tổn thất của những nguồn tài nguyên sinh thái hoặc
những thuộc tính độc đáo, ví dụ đa dạng sinh học, mà còn mang nhiều điều không chắc chắn thì
có thể cần đến các phơng pháp thay thế khác bên cạnh phép phân tích chi phí-lợi nhuận chuẩn.
Những quy tắc ra quyết định nh vậy phải thừa nhận rằng chúng ta không am hiểu đầy đủ cả về
chi phí và lợi ích tiềm tàng của việc sử dụng hoặc cải tạo đất ngập nớc cũng nh những xác suất
sẽ xảy ra. Tuy rằng loại thông tin nh thế này sẽ có trong tơng lai, nhng trong khi chờ đợi thì
vẫn phải ra những quyết định quan trọng về cải tạo hay bảo tồn nguồn tài nguyên hết sức độc
đáo của đất ngập nớc. Thiên hớng về quy tắc quyết định chống nguy cơ (nghiêng về phòng
ngừa) trong những hoàn cảnh nh thế này đa đến việc áp dụng những nguyên tắc phòng ngừa.
Trên thực tế, việc áp dụng quy tắc quyết định quản lý nh thế này gợi ý rằng xã hội sẽ sẵn sàng
trả, với ý nghĩa tơng tự việc chúng ta mua bảo hiểm bảo vệ cho mỗi ngời, để bảo tồn những
nguồn tài nguyên mà giá trị đầy đủ của chúng vẫn còn cha đợc biết đến hoặc đánh giá. Trong
trờng hợp này, xã hội có thể muốn tiến hành các bớc cần thiết để bảo tồn những nguồn tài
nguyên đất ngập nớc quan trọng, chừng nào mà giá bảo hiểm không quá cao. Việc xác định
ngỡng của bảo hiểm này có thể không dễ dàng, nhng có thể theo khả năng chi phí thấp nhất.
Sử dụng nguyên tắc phòng ngừa là hiển nhiên trong những thỏa thuận quốc tế, ví dụ Nghị định
th Montreal về những chất có thể phá hoại tầng ozon, hoặc Tuyên bố của Hội nghị Bộ trởng
lần thứ ba về vùng biển Bắc liên quan đến việc thải các vật liệu độc hại tiềm tàng (O Riordan và
Cameron, 1994).
Lý luận để áp dụng nguyên tắc phòng ngừa phụ thuộc vào một nghịch lý là hiện tại chúng
ta cha biết gì về các nguy cơ hoặc mức độ của những tổn thất tiềm tàng của việc không làm gì
cả. Chúng ta có thể đoán rằng những nguy cơ ấy khá lớn, và chúng ta có thể bỏ qua những nguồn
lợi rất có ý nghĩa hoặc phải gánh chịu những tổn thất ghê gớm nếu những nguồn tài nguyên đất
ngập nớc trọng yếu không đợc bảo tồn. Nh vậy, có ý kiến cho rằng nghĩa vụ chứng minh
phải chuyển cho những ngời chống lại mức an toàn bảo tồn những vùng đất ngập nớc quan
trọng. Nói nh vậy thì chúng ta có thể xem chi phí cơ hội của việc trì hoãn hoặc cấm biến đổi
những vùng đất ngập nớc rất độc đáo nh là một phần của phí bảo hiểm mà chúng ta sẵn lòng
trả để bảo tồn những vùng đất ngập nớc ấy cho tơng lai.
Khi chúng ta không biết hình thái hoặc mức độ của những tổn thất gắn với việc biến đổi
một vùng đất ngập nớc thì chúng ta phải tìm những phơng pháp đánh giá khác nhau để thay
thế hoặc bổ sung cho cách tiếp cận phân tích chi phí-lợi nhuận chuẩn (Tisdell, 1990). Một cách
tiếp cận đặc biệt và nhất quán với nguyên tắc phòng ngừa là chuẩn an toàn tối thiểu của bảo tồn
đợc bắt nguồn từ Ciriacy-Wantrup (1952). Thuật ngữ này lúc đầu đề cập tới một chiến lợc bảo
tồn đợc áp dụng cho các loài hoang dã, với một quy mô quần xã ngỡng tới hạn dới mức có
thể phục hồi (quần xã sống còn tối thiểu). Mục đích của cách tiếp cận này là khẳng định rằng ít
nhất thì quần xã tối thiểu này phải đợc duy trì cho tới chừng nào mà chi phí cho việc đó không
quá cao đến mức không chấp nhận đợc. Một cách tiếp cận nh thế có thể đợc áp dụng tơng tự
cho những nguồn tài nguyên đất ngập nớc độc đáo, đặc biệt là nếu nó đợc sử dụng kết hợp với
phân tích chi phí-lợi nhuận thông thờng (Tisdell, 1990). Phơng pháp chuẩn an toàn tối thiểu
(SMS) thờng đợc trình bày nh là một kỹ thuật ra quyết định. Nó sử dụng lý thuyết trò chơi để
dễ dàng thích ứng với những hoàn cảnh mà xác suất đợc hay mất không đợc xác định (Bishop,
1978; Ready và Bishop, 1991). Vì thế, lý thuyết trò chơi đã cung cấp một khuôn mẫu hữu ích để
phân tích những vấn đề liên quan đến những vùng đất ngập nớc rất độc đáo.
Quá trình đánh giá này gồm có 3 giai đoạn phân tích:
Giai đoạn 1 - Xác định vấn đề và chọn phơng pháp đánh giá kinh tế
đúng đắn.
9
Hình 3.1 đợc lấy từ IIED (1994) vốn đợc E. Barber, R. Costanza và R. Twilley xây dựng cho IUCN ORMA 1991 (Văn phòng vùng
Meso-America) và hội thảo CATIE về định giá kinh tế đất ngập nớc vùng Trung Mỹ.
23
Giai đoạn 2 - Xác định phạm vi vấn đề và những giới hạn cho phơng
pháp phân
tích và thông tin yêu cầu cho đánh giá đã chọn.
Giai đoạn 3 - Xác định những phơng pháp thu thập số liệu và những
kỹ thuật
định giá cần thiết cho việc thẩm định kinh tế, kể cả mọi phân tích về
những tác động phân bố.
Giai đoạn 1 là cần thiết để xác định phơng pháp đánh giá thích đáng cần
dùng cho vùng đất ngập nớc đợc đem ra định giá. Giai đoạn 2 là xác định
thông tin cần thiết để tiến hành phơng pháp đánh giá đã lựa chọn. Giai đoạn 3
là lựa chọn những phơng pháp đánh giá kinh tế và những kỹ thuật định giá phù
hợp. Việc hoàn thành cả 3 giai đoạn phân tích sẽ cho một định giá kinh tế của
vùng đất ngập nớc để hớng cho các nhà làm chính sách xem xét nên theo
phơng án đó hay không.
Mặc dầu 3 giai đoạn trong phân tích dờng nh nối tiếp nhau, cũng nh ấn
tợng do hộp 3.1 gây ra, nhng trong thực thi việc đánh giá phải có quá trình lặp
lại, hay gọi là quá trình phản hồi. Nghĩa là ở bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình phân tích cũng có thể cần phải quay lại giai đoạn trớc đó để xét lại quá
trình đánh giá, cải tiến phân tích, xác định lại các nhu cầu thông tin, và cứ nh
thế. Có thể cần đến mấy vòng lặp lại nh thế trớc khi đa ra kết luận về định
giá kinh tế.
Mục đích của quá trình 3 giai đoạn nêu trong hình 3.1 là đánh giá kinh tế
những giá trị của đất ngập nớc. Tất cả những giá trị đợc đánh giá phải phản
ánh ý nguyện chân thực của xã hội trả tiền cho những lợi ích của chúng. Điều
đó đòi hỏi việc xác định giá trị kinh tế thực của những nguồn lợi về căn bản
không đợc thị trờng hóa và điều chỉnh giá thị trờng của một số hàng hóa và
dịch vụ của vùng đất ngập nớc theo những sự bóp méo gây ra bởi chính sách
của Chính phủ hoặc sự thiếu hoàn hảo của thị trờng. Tuy nhiên, trong một số
trờng hợp, những hạn hẹp về số liệu và tài nguyên có thể sẽ giới hạn phép phân
tích ở đánh giá tài chính. Chỉ những hàng hóa và dịch vụ đợc thị trờng hóa
mới có thể đợc định giá thông qua việc sử dụng những giá thị trờng cha
đợc chỉnh.
Trong mỗi trờng hợp, cách làm bình thờng là giảm những trị giá thờng
niên xuống bằng trị giá hiện tại. Việc này đòi hỏi nhà phân tích lựa chọn một tỷ
lệ chiết khấu (xem hộp 3.2). Tuy không thể xác định đợc cả trị giá tài chính lẫn
trị giá kinh tế nhng ngời ta có thể chỉ ra những thay đổi vật lý trong hàng hóa
và dịch vụ do đất ngập nớc cung cấp hay trong bất cứ tác động môi trờng nào.
Trong phần thảo luận tiếp theo, ba giai đoạn trong quá trình thẩm định
đợc minh họa bằng cách giả định rằng một đánh giá kinh tế hoàn chỉnh là mục
tiêu cuối cùng.
3.1 Giai đoạn một: Xác định vấn đề và phơng pháp đánh giá
Giai đoạn đầu của một quá trình đánh giá là xác định mục tiêu hoặc vấn
đề chung. Nh đã chỉ trong hình 3.1, loại phơng pháp đánh giá kinh tế đợc
chọn sẽ phụ thuộc trực tiếp vào vấn đề trớc mắt nhà phân tích.
24
Định giá trị kinh tế đất ngập nớc
Ba phân loại bao quát của vấn đề là thích hợp nhất với định giá kinh tế của
đất ngập nớc. Tơng ứng với mỗi mục tiêu định giá thì có một phơng pháp
đánh giá đặc thù. Trong hình 3.1 thì chúng là:
phân tích tác động - đánh giá thiệt hại cho đất ngập nớc do một tác
động đặc biệt từ môi trờng xung quanh (ví dụ sự cố tràn dầu tại một vùng đất
ngập nớc ven biển).
định giá bộ phận - đánh giá hai hoặc nhiều phơng án sử dụng đất ngập
nớc (ví dụ khơi nớc từ vùng đất ngập nớc cho các mục đích sử dụng khác
hoặc cải tạo/phát triển một phần của đất ngập nớc thay cho các sử dụng khác)
định giá tổng thể - đánh giá về đóng góp kinh tế tổng thể, hoặc lợi ích
thuần, của hệ đất ngập nớc đối với xã hội (ví dụ đóng góp cho thu nhập quốc
gia hoặc xác định giá trị của đất ngập nớc nh là một vùng đợc bảo vệ).
Ưu thế của khuôn mẫu này là tính mềm dẻo của nó. Các số liệu và phân
tích có thể đợc điều chỉnh phù hợp với những nhu cầu đặc biệt của các nhà
hoạch định chính sách.
Hình 3.1
Khuôn mẫu đánh giá đối với định giá kinh tế đất ngập nớc.
Giai đoạn 2
Giai đoạn 1
Giai đoạn 3
Xếp loại theo tầm quan
trọng của tác động
Liệt kê các giá trị
Nhận dạng loại hệ thống,
quy mô và các đờng biên giới
1
Phân tích tác động
Lựa chọn các phng pháp thẩm định và kỹ thuật định giá
Lựa chọn các phơng pháp thu thập số liệu
Xác định những hạn chế về nguồn lực
Xác định nhu cầu thông tin
Xếp loại theo tầm quan trọng
của các giá trị và nhu cầu đánh giá
Liệt kê các giá trị
Nhận dạng loại hệ thống,
quy mô và các đờng biên giới
2
Định giá bộ phận
Xếp loại theo tầm quan trọng
của giá trị đối với toàn hệ thống
Liệt kê các giá trị
Nhận dạng loại hệ thống,
quy mô và các đờng biên giới
3
Định giá tổng thể
Chọn phơng pháp đánh giá
Xác định những vấn đề đặc thù, mục đích và mục tiêu
Nguồn: sửa từ IIED (1994).
25