Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 95 trang )









LUẬN VĂN:


Nhận thức, thái độ và hành vi của
cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với
pháp lệnh dân số







Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đó
ban hành Nghị quyết về chớnh sỏch dõn số và kế hoạch hoỏ gia đỡnh (DS - KHHGĐ)
nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động
kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế
- xó hội. Nõng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đỡnh; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phõn bố dõn cư hợp lý với quản lý dõn số và phỏt
triển nguồn nhõn lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính


sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày
9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và
bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống
nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân
bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại
tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999.
Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước
vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào
năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê
cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã
tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ
công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng
trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của
công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều
yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại.
Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW
ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết


nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo
trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn
định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng
cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để
làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội
phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47-
NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách

DS - KHHGĐ.
Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự
thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa
phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS
nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển
(DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ
cấp thiết.
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh
con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên
Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6
tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ
ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy,
chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lónh đạo - quản lý đối với
pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan
nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên
Bái đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít
các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT,
sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức,


thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có
một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau:
Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết.
Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh
nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những
nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang
hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS,
trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập

giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục,
những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công.
Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và
sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến
hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục,
văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân
nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia
công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình.
Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách
nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập
đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ.
Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp
nâng cao chất lượng dân số.
Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số
yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số
6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên
cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS.
Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005)
về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số -
phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi
và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia


tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng
và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS.
Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của
chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm
2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một
số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về
quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa

chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai;
khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn
đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo
dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến
nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác
DS - KHHGĐ trong thời gian tới.
Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với
chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác
nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng
đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn
này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu
khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng
và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung
ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm
1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng
và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên
quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số,
DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất
một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản
và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của


bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để
thực hiện công tác DS - KHHGĐ.
Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và
vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện
chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền:
Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán

bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS -
KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức
của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ.
Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã
tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các
cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước
ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và
các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá
VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm
nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ.
Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã
hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức,
thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc
hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công
trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia
của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong
hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở
đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên
truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS.
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của
CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần
làm rõ thực trạng nguyên nhân, xu hướng biến chuyển trong nhận thức, thái độ và
hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - KHHGĐ và DSPT trong thời gian


qua. Song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng
đồng dân cư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các
công trình nghiên cứu như vậy càng hiếm hơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
"Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân

số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của
CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp
phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc
thực hiện PLDS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận
thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL.
- Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý
luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức
năng, lý thuyết dân số.
- Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận
thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có
liên quan.
- Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL
đối với PLDS.
- Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh
PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực
hiện có hiệu quả PLDS.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn


* Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã,
phường của Yên Bái với PLDS.
* Khách thể nghiên cứu:

Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: tỉnh Yên Bái.
- Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay.
5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn
* Giả thuyết nghiên cứu:
- PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái
độ và hành vi chưa đúng.
- Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận
CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt.
- Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều
vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối
công tác.
* Khung lý thuyết:









Môi
trườn
g KT
-XH







Tuổi
Giới
tính
Học
vấn
Dân tộc

Thái đ
ộ:

- ủng h
ộ hay không ủng
hộ.
- Tích c
ực hay không
tích cực.
Hành vi:

- Gương m
ẫu thực
hiện.
- Tham gia t

ch
ức thực
hiện.
-


Tuyên truy
ền,
C
ấp công
tác
Chính
sách
dân số

Pháp
lệnh
dân

s

Kh
ối công

tác

Cán bộ
lãnh
đạo,
quản lý

Nh
ận thức
:


- Nội dung PLDS.
- Trách nhi
ệm cá nhân
đối với PLDS.
- Trách nhiệm của c
ơ
quan đối với PLDS.
- Nghị quyết 47/ BCT.





*Hệ biến số:
Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau:
+ Biến số độc lập:
Đặc điểm cá nhân:
- Độ tuổi.
- Giới tính.
- Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên.
- Dân tộc.
- Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường.
- Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp.
+ Biến số phụ thuộc:
Nhận thức:
- Thời điểm ra đời của PLDS.
- Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân.
- Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị.
- Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào?
- Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau.

- Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị
Thái độ:
- Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa?
- Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS
- Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không?
- Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ
Chính trị.
Hành vi:
- Gương mẫu thực hiện.


- Tuyên truyền vận động người khác thực hiện.
- Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực.
+ Biến trung gian:
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số và chính
sách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS.
- Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết
hành động xã hội, lý thuyết dân số.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính:
- Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về
công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay.
- Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ

ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc).
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến.
+ Giới tính người trả lời :
Nam giới : 67%
Nữ giới : 33%
+ Về độ tuổi:
Dưới 30 tuổi : 15,9%


Từ 31 - 40 tuổi : 31,4%
Từ 41 - 50 tuổi : 46,2%
Trên 51 tuổi : 6,5%
+ Về dân tộc:
Kinh : 78,3%
Dân tộc thiểu số : 21,7%
+ Học vấn:
Trung học phổ thông : 6,7%
Trung cấp : 25,7%
Cao đẳng trở lên : 67,6%
+ Khối cơ quan:
Khối Đảng : 19,7%
Khối chính quyền : 54,0%
Khối đoàn thể : 17,7%
Khối doanh nghiệp : 8,6%
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* ý nghĩa lý luận:
Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý
thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm
CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp

phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao
chất lượng dân số.
* ý nghĩa thực tiễn:
- Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ
CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL
vào quá trình hoàn chỉnh và thực
hiện PLDS.


- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng,
Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường
chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS
Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất
lượng thực hiện PLDS













Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Nhận thức
Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai
đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89].
Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư
duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi
từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ:
- Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát,
thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý
thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai.
Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận,
tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ
nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với
hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250].
Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú
trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối
tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định
về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về
khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân
trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy
định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về
quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị



quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính
sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số.
1.1.2. Thái độ
Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một
trong những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với
đối tượng [16, tr.443].
Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo
hướng nào đó trước một vấn đề.
Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các
sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là
gián tiếp do người khác cấp cho.
Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc
phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của
một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội.
Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một
ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức
thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ
cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346].
Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá
về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ
đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm
hiểu và thực hiện PLDS.
1.1.3. Hành vi
Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi trường kích
thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến



trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với
hoàn cảnh thì gọi là hành vi.
Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư
xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25].
Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của
con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những
động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã
hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện
tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một
dữ kiện riêng.
Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống cưỡng chế ít hay nhiều
rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách
quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào
những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện
hành vi của chủ thể [83, tr.125].
Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số:
Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn
với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu căn bản của quá trình nhận thức về
PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền
vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện như nêu ý kiến sửa đổi,
tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực
hiện PLDS.
1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý
* Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có
nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm
công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường,
không có chức vụ [54, tr.121].


* Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng

[17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp
về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó.
* Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định
[17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều
hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý
đến những mục tiêu đã được xác định trước.
Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt
mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của
những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức
năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà
nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt
chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý các hoạt động
kinh tế, xã hội, dân cư mà không lãnh đạo.
Như vậy, trong luận văn sử dụng khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là chỉ những
người giữ cương vị nhất định, thường là cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng,
chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay.
1.1.5. Pháp lệnh dân số
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do
cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo quy định (điều 91) của Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Uỷ ban thường vụ Quốc hội “ra pháp
lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành
và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày. Quyền công bố pháp lệnh thuộc về Chủ tịch
nước (Điều 103, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Theo quy
định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau một thời gian thực hiện và hoàn
thiện, Quốc hội sẽ xem xét để quyết định ban hành thành luật (điều 21). Điều 47 luật ban


hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự xem xét, thông qua dự án pháp

lệnh tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi pháp lệnh được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thực hiện
pháp lệnh. Quyền giải thích pháp lệnh thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội [21, tr.419].
Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh
tế hoặc một đơn vị hành chính (Khoản 1, điều 3 PLDS )
Pháp lệnh dân số: Là văn bản qui phạm pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho
việc tổ chức thực hiện công tác dân số và nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình,
Nhà nước và xã hội trong công tác dân số. PLDS điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao
gồm qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số, các biện pháp
thực hiện công tác dân số.
Theo những văn bản có tính pháp quy về dân số thì:
+ Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh
tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định (Khoản 2, điều 3 PLDS). Quan
niệm này cho thấy, quy mô dân số sẽ chẳng có ý nghĩa khi xét độc lập về mặt số lượng
đơn thuần, nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi so sánh chúng với nhau theo thời gian và khi xét
chúng trong mối quan hệ với không gian mà con người sinh sống, nghĩa là theo quốc gia,
khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Quy mô dân số chỉ có ý nghĩa khi so
sánh về tốc độ thay đổi của nó với những đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và
sự phát triển nói chung của xã hội.
+ Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Khoản 3, điều
3 PLDS). Cơ cấu dân số phản ánh các đặc trưng của mỗi lớp người và của toàn bộ dân số.
Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về mặt nhân khẩu học; các đặc trưng về dân
tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt xã hội; các đặc trưng
về nghề nghiệp, trình độ chuyên môn phản ánh về mặt kinh tế; các đặc trưng về giai cấp,
thành phần xã hội phản ánh về mặt chính trị. Như vậy, việc phân loại tập hợp người theo


các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng được hiểu chung như là cơ cấu xã hội của tập hợp
người theo các đặc trưng cụ thể.

+ Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần
của toàn bộ dân số (Khoản 6, điều 3 PLDS). Hiện nay có rất nhiều đặc trưng phản ánh
trạng thái về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên việc đo lường đánh giá chất lượng dân số là rất
phong phú, đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thành 5 nhóm: Thu nhập và phúc
lợi; sức khoẻ và dinh dưỡng; giáo dục và phát triển trí tuệ; giải trí văn hoá và tinh thần; môi
trường sống.
+ Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động
đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số (Khoản 10,
điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, dân số là một tập hợp người nên mọi hoạt động kinh
tế - xã hội đều tác động đến mỗi người và tập hợp người. Do đó, việc quản lý và tổ chức thực
hiện các hoạt động dân số là hết sức cần thiết nhằm tác động và tác động có hiệu quả đến quá
trình dân số để hình thành quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân
số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai.
1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn
1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng
Lý thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Emile
Durkheim, Talcott Parson, Robert Merton và nhiều nhà xã hội học khác.
Lý thuyết cơ cấu chức năng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ
phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần
đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền
vững.
Cấu trúc theo các tác giả của phương pháp tiếp cận chức năng có thể khái quát lại
là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững.
Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành


phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống [23,
tr.201].
Các luận điểm chính của việc tiếp cận cấu trúc chức năng đều nhấn mạnh tính cân
bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Theo lý thuyết cơ cấu chức năng, một

xã hội tồn tại được, phát triển là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng
với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở
thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Sự biến đổi của cấu
trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của
cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định [23, tr.199].
Tiếp cận chức năng hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và
hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện xã hội, hiện tượng xã hội nào, những
người theo thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần tạo nên cấu
trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt
xem xét quan hệ của chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển các sự kiện,
hiện tượng đó. Ngoài ra lý thuyết cơ cấu chức năng còn đòi hỏi phải hướng vào tìm hiểu
cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự
tồn tại một cách cân bằng, ổn định của một cấu trúc xã hội [23, tr.199].
T. Parsons được coi như là đại biểu xuất sắc nhất đã phát triển lý thuyết cơ cấu chức
năng lên mức hoàn thiện nhất hay lý thuyết cơ cấu chức năng đã được trình bày một cách
có hệ thống nhất.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức
năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng
thái động vừa tự biến đổi, vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều
khiển và tự điều khiển [23, tr.204].
Khi nghiên cứu cấu trúc của hành động xã hội, Parsons cho rằng cấu trúc của hành
động được triển khai trên các cấp độ hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống xã hội chỉ là
một trong các hệ thống của nó. Ông cho rằng thông qua quá trình xã hội hoá cá nhân,
hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi


của cá thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Trong các hệ thống hành động
trên (từ cấp hành vi đến cấp văn hoá) đều phải thích ứng với những vấn đề có tính chức
năng, những nhu cầu của tổng thể hệ thống, đó là vấn đề thích nghi, hướng đích, thống
nhất và duy trì khuôn mẫu. Các nhu cầu chức năng của hệ thống là những đòi hỏi mạnh

đến mức nó buộc bộ phận nào hoạt động không đúng chức năng sẽ phải thay đổi thậm chí
bị thu hẹp lại, hay phá bỏ đi hình thành bộ phận thay thế. Bộ phận nào hoạt động có hiệu
quả sẽ trưởng thành, lớn mạnh.
Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL.
Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G)
Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt
động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự [23, tr.206].
Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế;
tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã
hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn
giáo.
Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội.
Parson cho rằng các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học và
theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Thực tế, các tiểu hệ thống
trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội.
Còn Merton cho rằng thuyết cấu trúc chức năng là sự giải thích một hiện tượng xã
hội bằng cách chỉ ra hệ quả (chức năng) của nó đối với những cấu trúc mà nó là một bộ
phận cấu thành. Theo ông các cấu trúc văn hoá mà cụ thể là hệ các giá trị xã hội là những
yếu tố cơ bản để lý giải cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các thiết chế xã hội.
Một trong những đóng góp lớn của Merton đối với lý thuyết chức năng trong xã hội học
là việc phát hiện ra sự loạn chức năng còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng.
Theo ông phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối loạn, làm giảm
khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Điều này cho thấy hệ quả có thể là chức năng,
tức là có lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm
người kia.


Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích chức năng luận để đưa ra lý thuyết về sự
sai lệch xã hội. Ông cho rằng sự lệch chuẩn là sự không phù hợp, sự lệch pha giữa mục
tiêu văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá hoặc

chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm chí là tội phạm.
Merton đã phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với xã hội đó là:
+ “Kiểu thoả hiệp: Khi cả mục tiêu văn hoá và phương tiện được chủ thể lựa chọn
đều phù hợp với các hệ giá trị, chuẩn mực xã hội và do vậy được xã hội hoàn toàn chấp
nhận.
+ Kiểu đổi mới: Đây là kiểu hành động nhằm mục tiêu đã được chấp nhận nhưng
bằng những phương tiện và cách làm mà xã hội có thể chưa hay không chấp nhận.
+ Kiểu nghi thức: Đây là kiểu hành động tuân theo các thủ tục, các quy định và sử
dụng các phương tiện được thừa nhận, nhưng lại không nhằm vào mục tiêu văn hoá được
xã hội chấp nhận.
+ Kiểu thoái lui: Đây là kiểu hành động mà cả mục tiêu và phương tiện của nó đều
không được chấp nhận.
+ Kiểu nổi loạn: Đây là kiểu hành động hướng tới mục tiêu mới được đặt ra để thay
thế cho những mục tiêu cũ và sử dụng phương tiện mới thay thế cho phương tiện cũ.
Trong năm kiểu hành động này được sắp xếp trên cùng một trục ta thấy kiểu hành
động thoả hiệp nằm ở cực “bình thường, đúng mực” đối lập với kiểu nổi loạn ở cực “bất
thường, sai lệch”. Các kiểu hành động còn lại nằm dọc trên trục này, cụ thể sau “thoả
hiệp” là “đổi mới”, tiếp đến là “nghi thức” rồi “thoái lui” và cuối cùng là “nổi loạn” [23,
tr.214-215].
Merton nhấn mạnh sự khác biệt giữa các kiểu ứng xử xã hội chủ yếu là ở sự nhận
thức và thái độ đánh giá của xã hội đối với từng biểu hiện của mục tiêu văn hoá và
phương tiện được lựa chọn để thực hiện mục tiêu. Tiêu chuẩn để xác định mức độ đúng
mực hay sai lệch của hành động phụ thuộc vào hệ quả của nó đối với xã hội. Điều này
liên quan tới câu hỏi phương pháp luận của thuyết cấu trúc- chức năng mà Merton đặt ra


đó là hành động xã hội có chức năng hay phản chức năng đối với những nhóm cụ thể nào
[23, tr.215].
Theo hướng tiếp cận chức năng thì mọi xã hội từ bản chất nội tại của nó luôn có xu
hướng tiến tới sự hài hoà và tự điều chỉnh tương tự như những cơ thể sinh học, giống như

cơ thể con người là một thể thống nhất, mà các bộ phận riêng phải phục tùng những nhu
cầu cụ thể của cả hệ thống. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và
tham gia tạo nên sự bền vững của tổng thể [37, tr.59].
áp dụng lý thuyết cơ cấu chức năng vào xem xét hệ thống tổ chức chính trị và chức
năng của từng bộ phận CBLĐQL trong việc hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, xã hội
mà hệ thống đặt ra cho thấy, với PLDS CBLĐQL là người phải nghiêm túc thực hiện
PLDS. Nhận thức của CBLĐ QL thế nào thì họ sẽ có thái độ, hành vi tương ứng như vậy.
Tuy nhiên, hành vi của họ còn phụ thuộc vào vị thế, vai trò, những chuẩn mực văn hoá và
hệ thống xã hội đã sắp xếp họ vào. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét thái độ và hành
động của CBLĐQL trong việc tổ chức thực hiện PLDS.
1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội
Lý thuyết hành động xã hội gắn với tên tuổi nhiều nhà xã hội học, trong đó đặc
biệt là M. Weber. Tiếp cận này coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con
người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người.
ở phương diện triết học, hành động xã hội là một hình thức hoặc cách thức giải
quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội. Còn ở phương diện xã hội học, hành động xã hội
được hiểu cụ thể hơn và thường gắn với các chủ thể của hành động là các cá nhân.
Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội học của Max
Weber là hành động xã hội. Weber đã sử dụng triệt để phương pháp luận để định nghĩa
xã hội học là “khoa học giải nghĩa hành động xã hội và tiến tới cách giải thích nhân quả
về đường lối và hệ quả của hành động xã hội”[86, tr.4]. Theo quan điểm của Weber, xã
hội học là khoa học có nhiệm vụ lý giải, tức là giải nghĩa, thông hiểu động cơ, ý nghĩa
của hành động xã hội. Điều này cho thấy xã hội học vừa có đặc điểm tự nhiên, tức là giải
thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa


học xã hội - nhân văn, tức là lý giải mục đích, nhu cầu, động cơ, ý nghĩa của hành động
xã hội [12, tr.115].
Xã hội học phải là một khoa học giải thích các lý do của hành động xã hội, quá
trình và tác động của chúng. Hành động có nghĩa là một thái độ của con người (tự có,

hành động bên ngoài hoặc bên trong, không được phép hoặc được phép), khi và chỉ khi
chủ thể gắn liền thái độ của mình với một ý nghĩa chủ quan. Hành động, cái ý nghĩa mà
các tác nhân phản ảnh, có quan hệ với hành động của những người khác và diễn ra do sự
định hướng của hành động này. M. Weber cho rằng xã hội học chỉ xem xét hành động
chừng nào chủ thể có một ý nghĩa xác định cho những hành động của mình. Chỉ hành
động như vậy mới có thể khiến nhà xã hội học quan tâm. Khái niệm hành động xã hội
xác lập chỉ chừng nào chủ thể hành động gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan. Đối với M.
Weber, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là thứ hành động gắn với ý nghĩa được ám
chỉ một cách chủ quan. Theo quan điểm của ông, xã hội học là khoa học về cái “hiểu”
[11, tr.102-103]. Như vậy, hành động xã hội nghĩa là cơ sở của những động cơ chủ quan
của cá nhân (hay nhóm) và sự định hướng đến người khác. Đây là hai điều kiện mà thiếu
nó thì không thể nói đến hành động xã hội.
Trên cơ sở đó, M. Weber đã chỉ ra sự khác nhau giữa hành động xã hội và những
hành vi và hoạt động khác của con người. Nói tới hành động là nói tới việc chủ thể gắn cho
hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động, kể cả hành động thụ động và
không hành động (ví dụ như hành động im lặng, hành động chờ đợi không làm gì cả) được
gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến hành vi của người khác
trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai; ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động [23,
tr.177-178].
Theo quan điểm của M. Weber, không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay
đều là hành động xã hội. Những hành động nào chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính
đến hành vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội. Không phải tương
tác nào của con người cũng là hành động xã hội. Chỉ những hoạt động nào có mục đích,


chủ thể “hiểu” ý nghĩa của nó mới là “hành động xã hội” cần nghiên cứu. Theo hướng
này M. Weber phân hành động xã hội thành 4 loại bao gồm:
+ “Hành động duy lý giá trị: Là hành động được thực hiện vì bản thân hành động
(mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý
nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý. Ví dụ hoạt động tín

ngưỡng là một loại hành động duy lý giá trị.
+ Hành động cảm tính (xúc cảm): Là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc
tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa
công cụ, phương tiện và mục đích hành động. Những hành động này rất khó kiểm tra, vì
nó mang tính tự phát, những hành động do cảm xúc cũng khó nghiên cứu. Ví dụ hành
động của đám đông quá khích hay hành động do tức giận gây ra.
+ Hành động theo truyền thống: Là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi
lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác như hành động theo
người xưa, cổ nhân nói, hành động vì mọi người đều làm như thế cả…
+ Hành động duy lý - công cụ: Là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính
toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Ví dụ rõ
nhất là hành động kinh tế luôn phải tính toán, lựa chọn phương pháp để đạt được năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất có thể được” [23, tr.179-180].
Theo M. Weber, bốn loại hành động trên đây không tồn tại độc lập hoàn toàn với
nhau mà có sự tác động và thâm nhập vào nhau. Ông coi bốn loại hình hành động này hết
sức cần thiết đối với nhà nghiên cứu. Vấn đề là ở chỗ cần phải xác định được ranh giới
của bốn loại hoạt động đó trong từng nền văn hoá khác nhau. Theo Weber, xã hội cấu
thành từ các cá nhân với những hành động xã hội đặc trưng của họ. Tuy nhiên, trong bốn
loại hành động trên, hành động duy lý - công cụ là hành động được thực hiện với sự cân
nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết hành
động xã hội vào nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. ở
đây, bên cạnh hành vi sinh sản của từng người cần phải xem xét hoạt động tổ chức, chỉ


đạo, tuyên truyền thực hiện các chính sách dân số nhất là PLDS. Trong đó các yếu tố về
chuẩn mực văn hoá, quan niệm về hạnh phúc gia đình, con cái chi phối thế nào đến hành
vi sinh sản và sự tham gia tổ chức chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện PLDS của CBLĐQL là
những điều cần phải chú ý.
1.2.3. Lý thuyết dân số

Quá độ dân số là lý thuyết được các nhà nhân khẩu học phương Tây đưa ra hơn
nửa thế kỷ trước nhằm phân tích sự biến đổi dân số. Lý thuyết này cho rằng, sự phát triển
dân số luôn tuân theo một quy luật nhất định và sự gia tăng dân số có quan hệ biện chứng
với sự phát triển kinh tế - xã hội [85, tr.17]. Chính vì vậy, tiến trình phát triển dân số của
các quốc gia thường phải đi qua 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn trước quá độ có đặc trưng là mức sinh cao và ổn định còn mức chết
cao và biến động. Sự không ổn định của tỷ suất tử là sự phản ánh những biến đổi trong
nền kinh tế, ảnh hưởng của mùa màng và bệnh tật. Trong điều kiện kinh tế như vậy, mức
sinh cũng rất cao, tư tưởng đông con nhiều cháu đã ăn sâu vào cộng đồng xã hội; Giai
đoạn quá độ là thời kỳ có những biến động lớn cả về mức sinh và mức chết mà xu hướng
thường gặp là mức chết giảm nhanh hơn mức sinh. Đây là giai đoạn sự gia tăng dân số
bắt đầu diễn ra với tốc độ cao còn gọi là bùng nổ dân số; Giai đoạn sau quá độ có đặc
trưng là mức sinh và mức chết đều thấp. Những thành tựu của khoa học và công nghệ tạo
khả năng cho con người có thể kéo dài tuổi thọ, loại trừ một số dịch bệnh ra khỏi đời
sống xã hội, dịch vụ sức khoẻ của con người tốt hơn và kết quả là mức chết giảm nhanh
và mức sinh dần ổn định. Xã hội xuất hiện một thời kỳ “dư lợi dân số”. Trong xã hội, tỷ
lệ người trong độ tuổi lao động lớn (60% - 65%). Nơi nào tận dụng được tiềm năng lao
động này thường đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế. Ngược lại, đây sẽ là gánh
nặng về giải quyết việc làm, thất nghiệp và những phức tạp xã hội khác.
Như vậy, quá độ dân số là quá trình chuyển đổi khuôn mẫu cân bằng dân số trên
cơ sở tương quan giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết khi nhân loại đi từ xã hội tiền công
nghiệp sang xã hội công nghiệp. Nếu ở thời kỳ đầu, lý thuyết này mới chỉ ở dạng mô tả
thuần tuý thì sau này nó càng được mở rộng, bổ sung và phát triển. Trên cơ sở hai yếu tố

×