LUẬN VĂN:
Sự lãnh đạo của huyện ủy
đối với hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh thanh hóa
trong giai đoạn hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân đạo - hoà bỡnh - hữu nghị là khát vọng chung của nhân loại, là chuẩn giá trị
của sự tiến bộ và văn minh mà mọi dân tộc, mỗi quốc gia hằng mong muốn để hướng tới.
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là một trong 187 thành viên của phong trào Chữ thập đỏ, trăng
lưỡi liềm đỏ quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tạo và là chủ tịch danh dự đầu tiên. Hội
là tổ chức xó hội - nhân đạo của quần chúng, tập hợp mọi người Việt Nam, không phân biệt
thành phần dân tộc, tôn giáo, nam nữ… để làm công tác nhân đạo.
Hội vận động các cá nhân tổ chức cùng tham gia các phong trào tương thân, tương ái,
hoạt động nhân đạo phát triển, nâng cao tỡnh nhõn ỏi, phục vụ đời sống sức khoẻ nhân dân
trong đó ưu tiên những người có những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Mục đích cao cả của Hội là nhân đạo, hoà bỡnh hữu nghị gúp phần thực hiện mục
tiờu dõn giàu nước mạnh, xó hội cụng bằng, dân chủ, văn minh.
Công cuộc đổi mới do Đảng là khởi xướng và lónh đạo đó và đang đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây
dựng Đảng là then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần của xó hội. Phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xó hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền và đề cao vai trũ dõn chủ xó
hội, xó hội dân sự.
Sự lónh đạo của Đảng đối với các tổ chức Hội nói chung, Hội chữ thập đỏ nói riêng
là một tất yếu khách quan xuất phát từ vai trũ, vị trớ, nhiệm vụ của Hội chữ thập đỏ và bản
chất của Đảng ta:
"Đảng ta là đạo đức là văn minh
Là độc lập thống nhất
Là hoà bỡnh ấm no
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm ấy là một pho sử vàng"
(Tố Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Hội chữ thập đỏ chi có thể phát huy, phát triển đúng chức năng, nhiệm vụ khi được
sự quan tõm, lónh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đồng thời nếu thiếu sự quan tâm hoặc coi nhẹ sự
lónh đạo của Đảng đối với hội thỡ hoạt động của hội sẽ yếu và hoặc chệch hướng, nhất là
trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới toàn diện hiện nay.
7 nguyên tắc cơ bản của phong trào chữ thập đỏ - trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế đũi hỏi
sự nhạy cảm trong quỏ trỡnh lónh đạo của Đảng ta, nhằm thu hút sự hỗ trợ của bè bạn quốc
tế, sự chia sẻ quảng bỏ hỡnh ảnh giỏ trị nhõn đạo của dân tộc, sự văn minh của chế độ qua
con đường nhân đạo.
Sự kiện ra đời của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam vào ngày 23-11-1946 là quyết định
đúng đắn của Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 60 năm qua, Hội Chữ thập đỏ Việt
Nam luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc qua mỗi một giai đoạn phát triển của cách mạng
Việt Nam. Qua các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, qua quá trỡnh xõy dựng chủ nghĩa xó
hội và công cuộc đổi mới hiện nay thỡ vấn đề giải quyết những khó khăn từ nền kinh tế lạc
hậu, từ vị trí là một đất nước luôn phải hứng chịu hậu quả nặng nề của thiên tai, của chiến
tranh, hàng triệu gia đỡnh Việt Nam cần được đón nhận sự chia sẻ của cộng đồng và nhân
loại để ổn định và hội nhập phát triển.
Song tổ chức hoạt động Hội chữ thập đỏ cũn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa theo
kịp với yêu cầu phát triển của đất nước và nhiệm vụ của Hội. Vỡ thế, đũi hỏi phải tăng
cường sự lónh đạo của Đảng đối với các tổ chức Hội để Hội đảm nhận được sứ mệnh cao cả
của Đảng và dân tộc giao phó nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
Thanh Hoá là tỉnh nằm ở phía Bắc của Trung bộ, đất rộng người đông, thiên nhiên
khắc nghiệt. Con người xứ Thanh giàu truyền thống yêu nước, thấm đượm tỡnh người,
nghĩa tỡnh thương yêu con người sâu sắc nồng nàn và cũng là một tỉnh kinh tế chậm phát
triển. Phát huy truyền thống quê hương Thanh Hoá anh hùng, trong những năm qua cấp uỷ
các cấp thường xuyên quan tâm, lónh đạo, chỉ đạo công tác chữ thập đỏ cả về tổ chức và
hoạt động. Cấp uỷ 27 huyện, thị xó, thành phố không ngừng đổi mới nâng cao năng lực
lónh đạo của tổ chức đảng để xây dựng và phát triển địa phương một cách toàn diện. Vỡ
thế Hội chữ thập đỏ của các huyện được đón nhận sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả của
các tổ chức đảng cả về nội dung và phương thức hoạt động cả về phát triển số lượng và
chất lượng hoạt động của tổ chức hội, tập hợp đông đảo nhân dân các dân tộc trong tỉnh
dưới lá cờ nhân đạo chữ thập đỏ, cùng nhau chung sức chia sẻ với những mảnh đời bất
hạnh trong thiên tai thảm hoạ, trong khắc phục hậu quả chiến tranh đói nghèo…, để
tuyên truyền rộng rói cỏc giỏ trị nhõn đạo đến mọi người mọi nhà góp phần ổn định an
sinh xó hội, gúp phần thực hiện thắng lợi cỏc mục tiờu kinh tế - xó hội.
Là tỉnh thường xuyên hứng chịu hậu quả thiên tai, biến đổi khí hậu và hậu quả nặng
nề các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc với hàng vạn thương binh, liệt sỹ, người có công
với cách mạng. Ở điều kiện phát triển kinh tế cũn thấp, tỉ lệ hộ nghốo cũn cao: 7/60 huyện
nghèo toàn quốc, đũi hỏi hoạt động Hội chữ thập đỏ các huyện, Hội chữ thập đỏ tỉnh phải
vươn lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Hiện nay, bên cạnh số đông các cấp uỷ huyện quan
tâm chăm sóc tổ chức hội, cũn bộ phận khụng nhỏ cỏc huyện quan niệm về Hội và hoạt
động hội chưa được đầy đủ và đúng tầm, trưa thấy hết vai trũ quan trọng của tổ chức Hội và
hoạt động Hội trước sự phân hoá giàu nghèo tất yếu ngày càng sâu sắc do cơ chế kinh tế thị
trường và mặt trái tiêu cực của nó. Giải quyết cân đối hài hoà: tiến bộ và cụng bằng xó hội.
Đũi hỏi cần phải đổi mới sự lónh đạo của các lónh đạo đối với Hội chữ thập đỏ.
Nhằm góp phần cùng các cơ quan tham mưu, các huyện uỷ trong tỉnh tháo gỡ những
vướng mắc, khắc phục đổi mới nội dung lónh đạo đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện thực
hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ 16 (2005-2010). Tôi đó
chọn đề tài: "Sự lónh đạo của các huyện uỷ trong tỉnh Thanh Hoá đối với Hội chữ thập
đỏ cấp huyện” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Công tác vận động quần chúng nói chung, công tác Hội chữ thập đỏ và tăng cường
sự lónh đạo của Đảng đối với Hội chữ thập đỏ nói riêng trong những năm qua đó được
nhiều nhà lónh đạo Đảng, Nhà nước, nhiều nhà khoa học và nhiều cơ quan chuyên trách
nghiên cứu. Nhưng đến nay, chưa có các công trỡnh khoa học cấp nhà nước cũng như các
luận văn thạc sỹ tiến sỹ trong nước đề cập đến vấn đề này.
Song có một số bài viết liên quan đến vấn đề này:
* Tũng Thị Phóng: "Không ngừng đổi mới tư duy, làm tốt hơn nữa công tác vận động
quần chúng của Đản", Tạp chí Cộng sản, số 17, tháng 9/2006
* Nguyễn Khánh và Phạm Ngọc Quang: ‘Đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xó hội’, Tạp chí Cộng sản, số 9, tháng 5/2004.
* Đề tài: ‘Tổng kết phương thức lónh đạo của Đảng" do tác giả Lê Huy Ngọ làm chủ
nhiệm, tháng 9/1994.
* Đề tài: "Đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực trọng yếu
của đời sống xó hội" do tác giả Trần Đỡnh Nghiờm làm chủ nhiệm (2005).
* Vừ Văn Vĩnh: "Thành uỷ Đà Nẵng lónh đạo Liên đoàn Lao động thành phố trong
giai đoạn hiện nay". Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006
* Nguyễn Thị Nga: "Đổi mới phương thức lónh đạo của Đảng đối với mặt trận tổ
quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2007.
* Nguyễn Thị Lan: "Sự lónh đạo của Đảng đối với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay", Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2007.
* Đặng Văn Chương: "Sự lónh đạo của tỉnh uỷ Quảng Nam đối với liên đoàn lao
động tỉnh trong giai đoạn hiện nay", Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2007.
* Th.s Bùi Thị Thanh Hằng (2007), "Pháp luật về Hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật.
* Th.s Nguyễn Hải Ninh (2007), "Khái niệm và đặc điểm phân loại Hội", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật.
* Lê Xuân Mậu (2006), "Tỏc dụng chớnh trị xó hội của cỏc Hội", Tạp chí Khoa học
và Tổ quốc, Kỳ 2 tháng 7.
* TS Phạm Tuấn Khải (2006), "Một số ý kiến về quản lý nhà nước đối với Hội", Tạp
chí Khoa học và Tổ quốc, số tháng 10.
* PGS,TS Trần Kim Đỉnh (2007), "Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của các đoàn thể nhân dân trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Dân vận, số tháng 10.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu một cỏch cụ thể và hệ
thống về đề tài: "Huyện uỷ lónh đạo công tác Hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Thanh
Hoá trong giai đoạn hiện nay".
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và khảo sát, nghiên cứu thực trạng sự
lónh đạo của Đảng đối với Hội chữ thập đỏ và thực tiễn Huyện uỷ các huyện ở tỉnh Thanh
Hoỏ lónh đạo Hội chữ thập đỏ, luận văn đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu
tăng cường sự lónh đạo của các huyện uỷ trong tỉnh Thanh Hoá đối với Hội chữ thập đỏ cấp
huyện.
* Nhiệm vụ của luận:
- Làm rừ quan niệm về sự lónh đạo của các Huyện uỷ trong tỉnh Thanh Hoá đối với
Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng sự lónh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ thập
đỏ cấp huyện, nêu nguyên nhân của thực trạng và rút ra những kinh nghiệm lónh đạo của
các huyện uỷ trong tỉnh Thanh Hoá đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
- Đề xuất mục tiêu phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự
lónh đạo của các Huyện uỷ ở tỉnh Thanh Hoá đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lónh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ
cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lónh đạo của các huyện uỷ trong tỉnh Thanh Hoá
đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện từ năm 1990 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng và thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội
chữ thập đỏ. Luận văn có tham khảo một số đề án đề tài, các tài liệu, các bài viết của các tác
giả về vấn đề có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu sử dụng luận văn này là phương pháp lịch sử, logíc, phân tích,
tổng hợp, so sánh, khảo sát tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, tập hợp các tài liệu…
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Đánh giá đúng thực trạng sự lónh đạo của các cấp uỷ huyện trong tỉnh Thanh Hoá
đối với Hội chữ thập đỏ huyện.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lónh đạo của các huyện uỷ trong
tỉnh Thanh Hoá đối với Hội chữ thập đỏ huyện.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN UỶ
ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HOÁ - NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HOÁ
1.1.1. Khái quát về các đoàn thể chính trị - xó hội và cỏc hội ở tỉnh Thanh Hoỏ
Thanh Hoá là một vùng quê có truyền thống cách mạng, truyền thống văn hoá, với vị
trí địa chính trị là nơi khởi nguồn của các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Cùng với sự
phát triển và trưởng thành của lịch sử vẻ vang của Đảng và dân tộc, Thanh Hoá là một trong
những cơ sở cách mạng trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Từ những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Thanh Hoá tự hào về chiến thắng Ba Đỡnh lịch sử, tự hào
về sự ra đời và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh. Các phong trào công hội đỏ, hũ gạo kháng
chiến, bà mẹ chiến sỹ, tuần lễ vàng tuần lễ đồng gắn liền với những mốc son lịch sử của dân
tộc. Sự xuất hiện của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận cứu quốc, các đoàn thể cứu quốc…đó lụi
cuốn và tập hợp hàng triệu con người tỉnh Thanh giàu lũng yêu nước đi theo tiếng gọi của
Đảng và Bác Hồ. Đó chính là cơ sở của sự ra đời Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xó hội.
Trong cỏc cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, phong trào quần chỳng cỏch mạng của tỉnh
Thanh Hóa luôn luôn là lực lượng hùng hậu đóng góp tích cực vào thành công của các cuộc
kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Hàng vạn thanh niên xung phong tỉnh Thanh Hóa trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có mặt ở mọi nẻo đường, nơi chiến trận xảy ra
ác liệt; phong trào phụ nữ ba đảm đang, thanh niên ba sẵn sang trong bảo vệ tổ quốc ngày
nay tiếp nối phong trào lập thân, lập nghiệp, phong trào nụng dõn sản xuất giỏi, phong trào
cựu chiến binh nghĩa tỡnh đồng đội đó tạo nờn một nột đặc trưng của đoàn thể chính trị - xó
hội Thanh Hoỏ mạnh về mặt tổ chức, đông đảo về lực lượng, năng động sang tạo trong hành
động.
Đến nay, tỷ lệ tập hợp công đoàn là 140 nghỡn người chiếm 77,5% (kể cả khu vực
ngoài quốc doanh); đoàn thanh niên 560 nghỡn người chiếm 56,5%; Hội phụ nữ 732 nghỡn
người chiếm 71%; Hội nông dân 456 nghỡn người chiếm 83%; Hội cựu chiến binh 188
nghỡn người chiếm 95,7%. Chất lượng tổ chức cơ sở năm 2007: Công đoàn vững mạnh:
78%, yếu 2,45%; Đoàn thanh niên vững mạnh và khá 96%; Hội phụ nữ xuất sắc và khá
98%, yếu 1%; Hội nông dân: vững mạnh và khá 82,48%, yếu kém 1,27%; Hội cựu chiến
binh vững mạnh, khá 89%, yếu 1,8%.
Thực hiện đa dạng hoá các hỡnh thức tập hợp nhõn dõn, đến nay trên địa bàn toàn
tỉnh có 66 hội quần chúng được thành lập và cho phép thành lập, tập hợp thu hút gần 1,8
triệu hội viên tham gia sinh hoạt. Hoạt động của các hội quần chúng đó phỏt triển đúng
hướng, vừa chăm lo đáp ứng những lợi ích thiết thực, chính đáng của hội viên, vừa huy
động khai thác tiềm năng trong nhân dân vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế Việt
Nam.
Đến 30/6/2009, toàn tỉnh Thanh Hoá đó cú 63 tổ chức hội, hiệp hội được uỷ ban
nhân dân tỉnh cho phép thành lập có hơn 1 triệu hội viên tham gia hoạt động trong đó:
hội cấp tỉnh 49, hội cấp huyện và hội nghề nghiệp khác 14. Riêng liên hiệp các hội
khoa học - kỹ thuật 26 hội thành viờn, 10 hội thuộc nhúm xó hội nhõn văn, 5 hội nhân
đạo từ thiện, 8 hội thuộc nhóm liên hiệp thanh niên, doanh nghiệp, doanh nhân, hữu
nghị. Hội có tuổi nghề thành lập sớm nhất là Hội y học cổ truyền thành lập tháng 10
năm 1957, hội trẻ nhất hội giới thiệu việc làm xuất khẩu lao động thành lập 10/6/2009,
có 5 hội cho phép thành lập trước năm 1990, 19 hội từ 1990-2000 và 25 cho phép thành
lập từ 2000-2009, 17 hội có hỡnh thức tổ chức theo 4 cấp Trung ương, tỉnh, huyện, cơ
sở. 32 hội có hệ thống tổ chức 2 đến 3 cấp.
Cấp huyện có 14 tổ chức hội, trong đó có: 1 trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, 6 hội
trong lĩnh vực xó hội và 7 hội nghề nghiệp.
Hội cấp xó cú 17 tổ chức hội trong đó: 14 hội xó hội và 3 hội nghề nghiệp.
* Về chất lượng tổ chức hội:
- Cấp tỉnh: Hội viên là tiến sỹ có 40 người. Bác sỹ chuyên khoa 2 có 45 người, thạc
sỹ 198 người, chuyên khoa 1 là 562 người, đại học 7529 người.Có 15 tổ chức hội tương ứng
với 30% hội hoạt động xuất sắc; 15 hội hoạt động khá tương ứng với 30%, 16 hội hoạt động
trung bỡnh với 32%, 3 hội hoạt động yếu với 8%.
- Cấp huyện: Có 17 tổ chức hội; cấp xó cú 11 tổ chức hội hoạt động khá, 6 hoạt động
trung bỡnh
* Về hội viên:
Tổng số hội viên hội quần chúng 1.836.228 người (chưa loại trừ có người sinh hoạt ở
nhiều tổ chức hội). Hội có số lượng hội viên lớn là hội người cao tuổi 44 vạn hội viên, hội
khuyến học 36 vạn; Hội chữ thập đỏ 19 vạn, hội bảo trợ người tàn tật 17,1 vạn và hội cựu
thanh niên xung phong là 3,8 vạn.
Đến nay đó cú 18 tổ chức hội là thành viờn của mặt trận tổ quốc tỉnh. tổ chức hội được các
sở bảo trợ, nhiều hội là: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Lao động Thương binh Xó
hội, Sở Khoa học Công nghệ, Sở Giáo dục, Sở Y tế, Sở Xây dựng, Ban Thường vụ Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh…
1.1.2. Quan niệm về Hội chữ thập đỏ
1.1.2.1. Khái lược về phong trào chữ thập đỏ - trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
* Lịch sử của phong trào CTĐ-TLLĐQT:
Ngày 24 tháng 6 năm 1859 ở Solferino, một thành phố miền Bắc nước í, một cuộc
chiến khốc liệt diễn trong vài giờ đồng hồ giữa lực lượng quân đội liên minh của Pháp và í
chống lại quân chiếm đóng Áo đó để lại 40.000 người chết và bị thương. Quân y của các
bên tham chiến không đủ lực lượng để giải quyết tỡnh trạng quỏ nhiều người bị thương.
Cảnh tượng trên đó khiến một thương gia Thuỵ Sĩ tên là Jean Henry Dunant kinh
hoàng khi vô tỡnh được chứng kiến. Ông đó kờu gọi dõn chỳng địa phương giúp đỡ người
bị thương bất kể họ là người của bên nào.
Khi trở về Thuỵ Sĩ, Henry Dunant không thể nào quên những điều rùng rợn mà ông
đó được chứng kiến. Ông đó viết lại những điều này trong một cuốn sỏch cú tờn gọi Ký ức
về Solferino. Cuốn sỏch được hoàn thành vào năm 1862. Trong nội dung cuốn sách, Dunant
đưa ra 2 ý tưởng:
Một là, thành lập tại mỗi quốc gia một Hội Cứu trợ bao gồm những người tỡnh
nguyện, những người danh tiếng, những chính khách có tên tuổi để chăm sóc những người
bị thương khi có chiến tranh.
Hai là, vận động một thoả thuận quốc tế bảo vệ những binh lính bị thương trên chiến
trường và những người chăm sóc họ.
Henry Dunant đó in cuốn sỏch bằng tiền riờng của mỡnh và gửi tới cỏc vị quốc
vương ở châu Âu, tới các nhà chính trị, sĩ quan quân đội, những nhà hảo tâm và bạn bè.
Điều này đó nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhân dân châu Âu, những người
không có chút khái niệm nào về thực tế khốc liệt của chiến tranh đó bị kinh hoàng khi đọc
những trang viết về Solferino.
Ông Gustave Moynier, một luật sư và vào thời gian đó là Chủ tịch của Hội Cứu
trợ Cộng đồng Geneva đó cảm động sâu sắc khi đọc cuốn "Ký ức về Solfferino". Ngay
sau đó ông đó đề nghị Dunant nên nhóm họp các thành viên của Hội để bàn bạc về đề
xuất của mỡnh. Tại cuộc họp, một Uỷ ban Năm Người được thành lập, gồm Dunant và
Moynier, Tướng Guillaume Henri Dufour, Tiến sĩ Louis Appia và Tiến sĩ Theodore
Maunoir, tất cả đều là công dân Thuỵ Sĩ. Kỳ họp lần thứ nhất của Uỷ ban này vào ngày
17 tháng 2 năm 1863 đó thụng qua tờn gọi " Uỷ ban quốc tế cứu trợ những người bị
thương".
Trong thời gian sau đó, "Uỷ ban năm người" này đó xỳc tiến tổ chức một Hội nghị
quốc tế vào thỏng 10 năm 1863 tại Geneva, tập hợp đại diện của 16 quốc gia. Hội nghị đó
thụng qua dấu hiệu phõn biệt - một chữ thập đỏ trên nền trắng - để nhận biết và bảo vệ
những người giúp đỡ những binh sĩ bị thương trên chiến trường.
Năm 1875, " Uỷ ban quốc tế cứu trợ những người bị thương" đổi tên thành Uỷ ban
Chữ thập đỏ Quốc tế - là tổ chức khởi xướng Phong trào Chữ thập đỏ Quốc tế. Để ghi nhớ
công lao của người sáng lập Phong trào, ngày sinh của Henry Dunant 8/5 đó được lấy làm
Ngày Quốc tế Chữ thập đỏ.
Nhận được 4 giải thưởng Nobel vỡ hoà bỡnh Dành cho sự nghiệp nhân đạo.
- Nhà tư bản công nghiệp Thuỵ Điển Alfred Nobel mất năm 1896. Trước khi vĩnh
biệt thế giới này, ông có một nguyện vọng dành một phần ngân quỹ của mỡnh để tặng
thưởng cho những người có nhiều cống hiến trong hoạt động nhận đạo.
- Năm 1901, Giải thưởng Nobel Vỡ hoà bỡnh đầu tiên được trao cho Henry Dunant
người sáng lập CTĐ, người đó hiến cả đời mỡnh cho sự nghiệp nhõn đạo. Mặc dù sống
trong cảnh nghèo nàn của một nhà tế bần ở Heiden (bang Appenzell, Thuỵ Sĩ), nhưng
H.Dunant đó dành số tiền thưởng đó đóng góp cho sự nghiệp nhân đạo.
- Năm 1917 và năm 1944, Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được nhận 2 giải thưởng
Nobel và số tiền này cũng được sử dụng cho các hoạt động nhân đạo trong suốt 2 cuộc chiến
tranh thế giới.
- Giải Nobel thứ 4 được trao cho Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế và Hiệp Hội chữ thập
đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế vào năm 1963 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày ra đời
phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ.
* Thành phần:
+ Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế: Được thành lập năm 1863, là thành viên sáng lập
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế.
Ngoài các hoạt động bảo vệ và giúp đỡ nạn nhân chiến tranh, Uỷ ban cũn là cơ quan
vận động và giám hộ việc phổ biến Luật Nhân đạo Quốc tế và theo dừi việc thực hiện những
nguyờn tắc cơ bản. Uỷ ban cùng hợp tác với Hiệp Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ
quốc tế tổ chức các hội nghị theo điều lệ của Phong trào.
+ Hiệp Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế: Được thành lập năm 1919,
hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Phong trào, tạo điều kiện và động viên các
Hội quốc gia cải thiện tỡnh trạng cho những người có khó khăn nhất. Hiệp Hội chỉ đạo và
phối hợp việc cứu trợ quốc tế cho các nạn nhân do thiên tai và thảm hoạ công nghiệp, cho
người tị nạn và cấp cứu y tế. Hiệp Hội là đại diện cho các Hội quốc gia trên trường quốc tế,
huy động sự hợp tác giữa các Hội quốc gia, tăng cường năng lực cho các Hội quốc gia và
thực hiện các chương trỡnh phũng chống thiờn tai, chăm sóc sức khoẻ và cứu trợ xó hội.
+ Các Hội chữ thập đỏ/Trăng lưỡi liềm đỏ quốc gia hoạt động theo nội dung và
nguyên tắc của Phong trào. Các Hội quốc gia hỗ trợ cho các chính phủ trong các hoạt động
nhân đạo, cụ thể là các chương trỡnh phũng chống thiờn tai, chăm sóc sức khoẻ và cứu trợ
xó hội. Trong thời gian có chiến tranh, các Hội quốc gia giúp đỡ nạn nhân dân thường và
nếu có thể hỗ trợ các đơn vị quân y.
Tính đến tháng 5/2009 đó cú 187 Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc gia
trên thế giới là thành viên của Phong trào, tập hợp thành sức mạnh hoạt động nhân đạo khắp
các châu lục, tạo nên những thành quả to lớn, thực sự trở thành xu thế phát triển tiến bộ trên
toàn cầu.
* Nguyên tắc hoạt động:
7 nguyên tắc hoạt động của Phong trào CTĐ-TLLĐ quốc tế
- Nhân đạo: Phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ với lũng mong muốn được
giúp đỡ không phân biệt những người bị thương trên chiến trường, sẽ nỗ lực với khả năng
quốc gia và quốc tế của mỡnh ngăn ngừa và giảm bớt đau thương nhân loại bất cứ ở nơi
nào.
Mục đích của Phong trào là để bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho con người và đảm
bảo tôn trọng nhân phẩm.
Phong trào giúp cho sự hiểu biết lẫn nhau, sự hợp tác, hữu nghị, hoà bỡnh bền vững
giữa cỏc dõn tộc.
- Vô tư: Phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế không phân biệt dân
tộc, giống nũi, tụn giáo, tầng lớp và quan điểm chính trị. Phong trào nỗ lực để giảm nhẹ nỗi
đau của mọi cá nhân và dành ưu tiên cho những người thiệt thũi nhất.
- Trung lập: Để giữ niềm tin của nhân dân, Phong trào không đứng về phe nào trong
các cuộc xung đột hoặc không tham dự vào các vấn đề mâu thuẫn về chính trị, chủng tộc,
tôn giáo hoặc lý tưởng.
- Độc lập: Phong trào hoàn toàn độc lập. Các Hội quốc gia, trong khi trợ giúp cho
chính phủ của mỡnh về cỏc hoạt động nhân đạo vừa tuân theo luật pháp của Nhà nước
mỡnh, vừa phải duy trỡ quyền tự chủ để có thể hoạt động phù hợp với những nguyên tắc của
Phong trào.
- Tự nguyện: Phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ là tổ chức nhân đạo hoạt
động tự nguyện, không dùng bất kỳ hỡnh thức xỳi giục, ộp buộc nào để đạt được mục đích.
- Thống nhất: ở mỗi nước, chỉ có duy nhất một Hội chữ thập đỏ hoặc Trăng lưỡi liềm
đỏ. Hội nhất thiết phải mở rộng đối với tất cả mọi người. Hội phải tiến hành sức mạnh nhân
đạo của trên phạm vi toàn lónh thổ.
- Toàn cầu: Phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế là tổ chức rộng rói
cú phạm vi toàn cầu, trong đó tất cả các Hội quốc gia đều bỡnh đẳng, chia sẻ trách nhiệm và
nhiệm vụ trong việc giúp đỡ lẫn nhau.
1.1.2.2. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
Hội được thành lập ngày 23/11/1946, được Uỷ ban quốc tế Chữ thập đỏ chính thức
công nhân ngày 01/11/1957 và được Hiệp Hội chữ thập đỏ, Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
chính thức công nhận ngày 04/11/1957. Hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh sang lập và làm chủ
tịch danh dự đầu tiên của hội. Người dạy cán bộ hội viên: "Phải xuất phỏt từ tỡnh thương
yêu nhân dân tha thiết mà góp phần bảo vệ sức khoẻ nhân dân và làm mọi việc có thể làm
được để giảm bớt đau thương cho họ”.
Từ khi thành lập Hội đến nay, Hội đó cú những đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hoạt động tích cực vỡ mục đích nhân đạo, hoà bỡnh, hữu nghị
trong phong trào Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế với tôn chỉ mục đích của Hội là:
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam là tổ chức xó hội nhõn đạo của quần chúng, hội tập hợp
mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nam nữ… để làm công tác nhân
đạo; Hội vận động các các cá nhân, tổ chức cùng tham gia các phong trào tương thân tương
ái, hoạt động nhân đạo phát triển nâng cao tỡnh nhõn ỏi, phục vụ đời sống, sức khoẻ nhân
dân trong đó ưu tiên những người khó khăn nhất; Mục đích cao cả của Hội là nhân đạo, hoà
bỡnh, hữu nghị, gúp phần thực hiện mục tiờu dõn giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn
chủ, văn minh. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của phong trào
chữ thập đỏ - trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế. Là một tổ chức Hội thống nhất 4 cấp: Trung ương
hội, Tỉnh hội, Huyện hội, Hội cơ sở. Đến nay, Hội có gần 20 triệu hội viờn thanh thiếu niờn
tỡnh nguyện hoạt động theo Luật hoạt động chữ thập đỏ Việt Nam.
* Vai trũ của Hội chữ thập đỏ cấp Huyện ở tỉnh Thanh Hoá
Theo tinh thần Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc củng cố phát huy
tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, hầu hết các huyện thị, thành phố đều được
củng cố tổ chức hội, huyện Hội chính thức trở thành một cấp hội và có các chi hội cơ sở
trực thuộc. Huyện hội đó cú ban chấp hành, có thường trực Hội từ 1 đến 2 người.
Các huyện Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc huyện, chịu sự lónh đạo trực tiếp
của cấp uỷ huyện thông qua Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận Huyện uỷ, góp phần tham gia
tích cực các hoạt động kinh tế xó hội trực tiếp là vấn đề an sinh xó hội.
Đồng thời Hội luôn đi đầu trong các phong trào, các hoạt động nhân đạo từ thiện,
phát huy tinh thần tương thân tương ái trong cộng đồng dân cư, tuyên truyền giá trị nhân
đạo đối với thanh thiếu niên chữ thập đỏ. Là cầu nối của quan hệ hữu nghị quốc tế.
1.2. QUAN NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN
1.2.1. Quan niệm về sự lónh đạo của Đảng và sự lónh đạo của huyện uỷ đối với
Hội chữ thập đỏ cấp huyện
1.2.1.1. Quan niệm về sự lónh đạo của Đảng
Lónh đạo là một khái niệm rộng được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau. Theo từ
điển tiếng Việt, lónh đạo là đề ra chủ trương đường lối, tổ chức động viên thực hiện. Hoặc
nghĩa Hỏn việt thỡ lónh đạo là đưa đường chỉ lối. Với quan niệm này thỡ khỏi niệm lónh
đạo được hiểu bao gồm hai nội dung: một là định ra chủ trương đường lối chính sách; hai là
tổ chức thực hiện đường lối chính sách đó.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,bằng nhón quan chớnh trị của mỡnh, Người nhỡn nhận sự
lónh đạo phải là một quy trỡnh thống nhất trong quỏ trỡnh tổ chức thực hiện. Bỏc chỉ ra:
lónh đạo bao gồm ba khâu chủ yếu: ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra,
kiểm soát. Theo Người: “Lónh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
3. Phải tổ chức kiểm soát…’’
Song, Bỏc cũn nhấn mạnh hoạt động lónh đạo là phải bám sát thực tiễn: “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” (Khi Người sang Pháp giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh
Thúc Kháng). Ở một thời điểm cách mạng Việt Nam ngàn cân treo sợi tóc thời kỳ 1945-
1946. Quan điểm này vừa thể hiện sự nhạy cảm về chính trị, đồng thời cũng thể hiện
nguyên tắc ứng xử và bản lĩnh chính trị.Đây chính là nột tiờu biểu của nghệ thuật lónh
đạo cách mạng mà Bác Hồ đó nhỡn thấy linh hồn của phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xó hội được Đại
hội VII thông qua khẳng định: Đảng lónh đạo xó hội bằng Cương lĩnh, Chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng
giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các
cơ quan lónh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị, Đảng lónh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một
bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, quan niệm về lónh đạo của Đảng phải được hiểu là một quỏ trỡnh thống
nhất giữa việc vạch ra đường lối, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, kiểm soát. Cỏc khõu của
quỏ trỡnh phải liên hệ biện chứng lẫn nhau và sự phân định các khâu chỉ là tương đối. Ngay
trong khâu ra quyết định đó phải kiểm tra, kiểm soát, chỉ đạo thực hiện cũng không thể tách
rời kiểm tra kiểm soát và quyết định những vấn đề mới có liên quan để hoàn thiện quyết
định. Như Đảng ta từng bước đó và đang từng bước hoàn thiện về con đường đi lên chủ
nghĩa xó hội của cách mạng Việt Nam. Nếu quan niệm lónh đạo chỉ là các nội dung độc lập
trong một quá trỡnh sẽ dẫn đến giáo điều như chúng ta đó từng quan niệm về sự xơ cứng
của mô hỡnh chủ nghĩa xó hội Liờn xụ cũ, quan niệm về chủ nghĩa tư bản như trước quá
trỡnh đổi mói từng quan niệm đều là sai lầm. Lónh đạo nói riêng và Đảng lónh đạo nói riêng
phải được hiểu là sự dẫn dắt chỉ đường tỡm đường để cho một dân tộc cũng như một tập thể,
một con người đạt được sự đúng đắn.
1.2.1.2. Quan niệm về sự lónh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp
huyện
Bằng nhón quan chớnh trị tinh tế của Đảng ta và Bác Hồ nên trong hoàn cảnh đất
nước muôn vàn khó khăn thự trong giặc ngoài sau cỏch mạng thỏng tỏm 1945, thỡ mựa thu
năm 1946 tổ chức chữ thập đỏ ra đời và Người trực tiếp làm chủ tịch danh dự của Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam. Qua mỗi chặng đường cách mạng Việt Nam thỡ hội luụn đồng hành với
dân tộc. Khi đất nước chưa thống nhất thỡ cú Hội chữ thập đỏ của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà và Hội chữ thập đỏ của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt
Nam đều đặt dưới sự lónh đạo của Đảng. Đất nước thống nhất, tổ chức hội cũng được thống
nhất. Để phù hợp với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lónh đạo, Đảng có Chỉ
thị 14 nhằm xây dựng củng cố phát huy tác dụng tích cực của tổ chức hội.
Đối với Hội chữ thập đỏ Chỉ thị 14 của Ban Bí thư Trung ương khoá VI đó khẳng
định: Hội chữ thập đỏ ở cấp nào đặt dưới sự lónh đạo của cấp uỷ đảng cấp đó. Ban Khoa
giáo, Ban Tuyên giáo các cấp có trách nhiệm giúp đỡ cấp uỷ đảng theo dừi hướng dẫn kiểm
tra công tác Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Ban Dân vận có trách nhiệm phối hợp với Ban
Khoa giáo, Ban Tuyên giáo giúp đỡ các cấp hội. Về mặt đối ngoại: Hội chữ thập đỏ chữ
thập đỏ chịu sự hướng dẫn của Ban Đối ngoại và Bộ Ngoại giao. Hội có trách nhiệm thực
hiện các nghị quyết của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như các tổ chức thành viên khác.
Để phù hợp với xu hướng hội nhập, Đảng ta đó khụng ngừng tăng cường củng cố và
kiện toàn tổ chức hội, cả về nội dung và phương thức hoạt động, cả về tổ chức lẫn điều kiện
hoạt động: Ban hành Luật hoạt động, Trung ương Đảng tổng kết 22 năm thực hiện Chỉ thị
14 làm cơ sở để ban hành những chủ trương, chính sách mới trong hoạt động, phù hợp với
hoạt động và xu thế thời đại.
Từ thực tiễn nghiờn cứu và tỡm hiểu của bản thõn và sự tranh thủ tham khảo ý kiến
cỏc nhà khoa học, cỏc đồng chí lónh đạo chủ chốt của cấp huyện, cấp tỉnh có thể quan niệm
như sau: Sự lónh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện như sau: Sự lónh đạo
của huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá là việc Huyện uỷ tác
động đến huyện Hội chữ thập đỏ về chính trị, tư tưởng tổ chức để định hướng, đồng thời
thông qua nhà nước, các ngành, các đoàn thể, các cấp uỷ phát huy truyền thống nhân ái
của đơn vị địa phương để tạo điều kiện để hội thực hiện mục tiờu nhiệm vụ và phỏt huy vai
trũ nũng cốt trong hoạt động nhân đạo, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiờu kinh tế xó
hội của Huyện.
Chủ thể lónh đạo là Huyện uỷ, thường xuyên trực tiếp là tập thể ban thường vụ
Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận. Đồng thời thông qua Uỷ ban nhân dân huyện, cỏc
phũng ban, cỏc ngành, Mặt trận và cỏc đoàn thể chính trị, các tổ chức xó hội, cỏc xó thị trấn
để lónh đạo.
Đối tượng lónh đạo là Hội chữ thập đỏ cấp huyện.
1.2.2. Nội dung và phương thức lónh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ
cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá
1.2.2.1. Nội dung lónh đạo
Nội dung lónh đạo của Huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Thanh
Hoá phong phú và đa dạng, được biểu hiện cụ thể như sau:
- Định hướng về chính trị cho huyện Hội. Đây chính là vấn đề cốt lừi, nhằm đảm bảo
sự lónh đạo của huyện uỷ đối với hoạt động của Huyện hội. Sự định hướng lónh đạo được
thể hiện xuyên suốt thông qua mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ của huyện hội phù hợp
với điều kiện thực tiễn qua từng thời kỳ với thực tế của các vùng miền.
- Lónh đạo xây dựng tổ chức huyện hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chỉ rừ:
Cách mạng là sự nghiệp lónh đạo của quần chúng chứ không phải là sự
nghiệp của cá nhân, anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đó tổ
chức và phỏt huy lực lượng vô tận của nhân dân, đó lónh đạo nhân dân phấn đấu
dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin [35, tr.197].
Người cũn chỉ rừ: "Lónh đạo khéo, tài nhỏ có thể hoá thành tài to.Lónh đạo không
khéo, tài to cũng hoá ra tài nhỏ” [35, tr.280].
Thực ra, mối liên hệ về định hướng chính trị và lónh đạo xây dựng tổ chức khăng
khít với nhau. V.I. Lênin đó chỉ ra:
Thực ra, không thể phân biệt ranh giới dứt khoát vấn đề nào là vấn đề chính
trị, vấn đề nào là vấn đề tổ chức. Bất cứ một vấn đề chính trị nào cũng có thể là
vấn đề tổ chức và ngược lại…Không thể máy móc tách chính trị khỏi tổ chức,
chính trị là do những người thực hiện nhưng nếu thảo các văn bản lại do những
người khác, thỡ sẽ chẳng có hiệu quả gỡ cả [32, tr.147].
Nội dung huyện uỷ lónh đạo Hội chữ thập đỏ cấp huyện về củng cố xây dựng tổ chức
khá toàn diện nhưng chủ yếu là định hướng về xây dựng tổ chức, phát triển mạng lưới tổ
chức hội, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng hội viên, tỡnh nguyện viờn, thanh thiếu
niờn chữ thập đỏ trên tất cả các khâu tập hợp về số lượng, bồi dưỡng nâng cao nhận thức lựa
chọn địa bàn và đối tượng tham gia. Luôn luôn tuân thủ nguyên tắc Đảng thống nhất lónh
đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ đảng viên tham gia tổ chức hội, đồng thời
phát huy vai trũ sáng tạo nhạy bén của tổ chức hội trong việc xây dựng củng cố tổ chức và
cán bộ cho phù hợp với thực tế địa phương.
- Lónh đạo hoạt động của huyện hội. Huyện uỷ thường xuyên quan tâm lónh đạo các
mặt hoạt động của Hội, nhiệm vụ của Hội một cách toàn diện như: hoạt động công tác xó
hội và tham gia phũng ngừa ứng phú thảm hoạ thiờn tai, hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, hiến máu nhân đạo, hoạt động đoàn kết hữu nghị quốc tế, tuyên truyền các giá trị nhân
đạo…để giúp hội thực hiện đúng chủ trương, nghị quyết của huyện uỷ.
- Lónh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể khác trong hệ thống chính trị phối
hợp tạo điều kiện cho huyện hội hoạt động. Quyền lực của Đảng được thụng qua chớnh
quyền và cỏc tổ chức chớnh trị xó hội khỏc nhằm khẳng định vai trũ lónh đạo của mỡnh đối
với tổ chức hội, Đảng hoá thân vào nhà nước thông qua vai trũ Đảng là hạt nhân chính trị.
Trọng tõm sự lónh đạo của huyện uỷ đối với chính quyền là sự thể chế hoá quan điểm
đường lối của Đảng thành các chủ trương, quyết sách của chính quyền và các tổ chức đoàn
thể liên quan đến hoạt động nhân đạo do Hội chữ thập đỏ chủ trỡ hoặc làm nũng cốt.
1.2.2.2. Phương thức lónh đạo của huyện uỷ đối với Hội chữ thập đỏ cấp huyện
Có đường lối đúng có tổ chức hợp lý mà khụng cú phương thức lónh đạo phù hợp thỡ
hiệu quả lónh đạo thấp, thậm chí vô hiệu hoá cả đường lối, chủ trương. Chớnh vỡ vậy, Chủ
tịch Hồ Chớ Minh là lónh tụ thiờn tài của Đảng ta, cũng là người đầu tiên nêu ra tư tưởng về
phương thức lónh đạo của Đảng trong các khái niệm “cách tổ chức”, “sách lược của Đảng”,
“cách lónh đạo’’, “lề lối làm việc”…điều đó có nghĩa là nói “ cách lónh đạo” là đề cập đến
phương thức lónh đạo. Vỡ thế cỏc huyện uỷ phải thực hiện phương thức lónh đạo đúng đắn
với các cách thức phương pháp lónh đạo chủ yếu sau:
- Lónh đạo huyện Hội chữ thập đỏ bằng chủ trương, nghị quyết, Chỉ thị. Đây là phương
thức lónh đạo cơ bản, phổ biến nhất, xuất phỏt từ bản chất sự lónh đạo của Đảng đối với tổ chức
hội nói riêng, hệ thống chính trị nói chung.
- Lónh đạo huyện hội thông qua công tác tổ chức cán bộ đối với huyện hội. Đây là
cách thức lónh đạo có tính chất then chốt và hiệu quả bảo đảm tính nguyên tắc và cũng phù
hợp với đặc trưng của tổ chức hội. Bởi vỡ, nhõn đạo là một tiêu chuẩn của văn minh, mà
Đảng ta luôn phấn đấu để hướng tới sự dân chủ và văn minh nên tính nhân đạo phải gắn liền
với tính giai cấp.
- Lónh đạo huyện hội bằng công tác tư tưởng, tổ chức của Đảng. Đây là phương thức
lónh đạo có tính chất đặc thù, vừa thể hiện tính dân tộc và quốc tế, thể hiện sự đảm bảo hoạt
động của hội phù hợp với 7 nguyên tắc của phong trào và luật hoạt động chữ thập đỏ Việt
Nam.
- Lónh đạo huyện hội bằng công tác kiểm tra. Đây là phương thức hoạt động mang
tính chất nguyên tắc nhằm kịp thời phát hiện sự sai sót, sai lệch để hoàn chỉnh các quyết
định phát huy những nhân tố mới, mặt tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những thiếu sót,
khuyết điểm.
- Lónh đạo huyện Hội chữ thập đỏ bằng nhà nước và các cơ quan chức năng. Đây là
sự tác động lónh đạo của Đảng thông qua chức năng thể chế hoá chủ trương, nghị quyết của
huyện uỷ đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể xó hội nhằm tạo điều kiện để hội
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sự lónh đạo của huyện uỷ mà trực tiếp là ban thường vụ huyện uỷ đối với huyện hội
cũn được thông qua các cấp uỷ đảng ở các ngành, các địa phương qua các ban của Đảng gắn
với chức năng nhiệm vụ của mỡnh nhằm đảm bảo sự thống nhất, lónh đạo đối với huyện
hội.
Chương 2
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN UỶ ĐỐI VỚI HỘI CHỮ THẬP ĐỎ
CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HOÁ - THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI CHỮ THẬP ĐỎ CẤP HUYỆN Ở
TỈNH THANH HOÁ
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xó hội tỉnh Thanh Hoỏ
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thanh Hoá là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, có toạ độ địa lý 19,180 - 20,400 vĩ Bắc;
104,220 - 106,050 kinh éụng, cỏch thủ đô 153km về phía Nam. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh
là 11.106 km
2
, chiếm 3,37% diện tích cả nước. Phía Bắc giáp với 3 tỉnh Hoà Bỡnh, Ninh
Bỡnh, Sơn La; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND
Lào); phía éụng giỏp biển éụng. Do Thanh Hoỏ nằm ở cửa ngừ nối liền Bắc bộ với Trung bộ
và với Nam bộ nên có đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 1 chạy qua vùng đồng bằng và ven
biển của tỉnh, tạo điều kiện giao lưu với các tỉnh và thành phố trong cả nước, đường chiến
lược 15A xuyên suốt vùng trung du và miền núi trong nội bộ tỉnh, đường 217 nối liền Thanh
Hoá với tỉnh Hủa Phăn - Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào. Ngoài ra cũn cú đường quốc lộ
1A, quốc lộ 47, quốc lộ 10 và đường sắt Bắc Nam dài 97km. Hệ thống sông ngũi chớnh
gồm cú 20 con sụng lớn nhỏ, lớn nhất là sụng Mó dài 242 km, sụng Chu dài 125 km, sông
Luồng dài 105 km, sông Bưởi dài 130 km, sông Lũ dài 75,5 km, sụng Cầu dài 87,5 km,
sụng Âm dài dài 79 km, sụng Yờn dài 94,2 km, sụng Rạng dài 34,5 km.
* Địa hỡnh:
Thanh Hoá có địa hỡnh đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng rừ rệt:
- Vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 839.037 ha, chiếm 75,44% diện tích
toàn tỉnh,độ cao trung bỡnh vựng nỳi từ 600 -700m, độ dốc trên 25
o
; vùng trung du có độ
cao trung bỡnh 150 - 200m, độ dốc từ 15-20
o
.
- Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện tích
toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống sông Mó, sông Bạng, sông Yên và sông Hoạt. Độ
cao trung bỡnh từ 5- 15m, xen kẽ cú cỏc đồi thấp và núi đá vôi độc lập. Đồng bằng sụng Mó
cú diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
- Vùng ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh, với bờ
biển dài 102 km, địa hỡnh tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông.
Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bỡnh 3-6 m, cú bói tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu
nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia) ; có những vùng đất đai rộng
lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế
biển.
* Khí hậu
Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài ra cũn chịu giú Lào,
khụ núng vào mựa hạ, thường gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Mưa, bóo tập trung chủ
yếu vào từ thỏng 4 đến tháng 10 với lượng mưa trung bỡnh hàng năm khoảng 2500mm. Các
hiện tượng gió lốc, mưa đá có xảy ra vào tháng 4. Nhiệt độ trung bỡnh hàng năm từ 22
0
C
đến 24,3
0
C. Hàng năm có 9 tháng nhiệt độ trung bỡnh trờn 20
0
C, có 3 tháng nhiệt độ dưới
20
0
C. Tháng lạnh nhất là tháng 11 và tháng 12, sương muối thường xảy ra vào tháng 1.
Hàng năm, Thanh Hoá thường phải hứng chịu từ hai đến ba cơn bóo lớn, lũ lụt lớn, giú lốc,
nhiễm mặn, sạt lở đất, mưa đá, gây thiệt hại lớn cả người và của hàng ngàn tỷ đồng.
2.1.1.2. Kinh tế
Với tiềm năng đa dạng và phong phú về tài nguyên (tự nhiên, nhân văn), Thanh Hoá
có thể xây dựng một nền kinh tế toàn diện, có nhiều ngành nghề, có nhiều sản phẩm hàng
hoá. Nghị quyết Đại hội Tỉnh đảng bộ lần thứ XVI đó xỏc định chiến lược phát triển kinh tế,
xây dựng các trung tâm kinh tế trọng điểm: Bỉm Sơn, Thành phố Thanh Hoá - Sầm Sơn,
Nghi Sơn, Lam Sơn, phân vùng kinh tế: kinh tế ven biển: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá,
thị xó Sầm Sơn, Tĩnh Gia (nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản và sản xuất nông nghiệp,dịch vụ);
11 huyện miền núi: Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá
Thước, Cảm Thuỷ, Thạch Thành, Ngọc Lặc, Như Xuân, Như Thanh (phát triển kinh tế lâm
sinh, chăn nuôi); vùng đồng: Hà Trung, Nông Cống, Triệu Sơn, Thiệu Hoá, Đông Sơn, Yên
Định, Vĩnh Lộc (các vùng thâm canh về nông nghiệp, chăn nuôi, ngành nghề thủ công, dịch
vụ).
Cùng với nhịp độ phát triển của cả nước, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Thanh Hoá liên tục tăng và giữ vững ổn định trên 10%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực: tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm cụ thể:
Nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ trong GDP năm 2005 tương ứng là
31,6% - 35,1% - 33,3%. Thu nhập bỡnh quõn đầu người là 574$/ người/năm (năm 2008).
2.1.1.3. Văn hoá - xó hội
Thanh hoá - cái nôi của nền văn hoá dân tộc, nổi tiếng trong lịch sử là vùng đất địa
linh nhân kiệt, địa lợi nhân hoà. Với gần 3,7 triệu dân gồm 7 dân tộc chính phân bố trên địa
bàn 27 huyện thị thành phố, có gần 1 triệu dân sống ở 11 huyện miền núi. Nơi đây là vùng
đất cách mạng, đó đóng góp một phần lớn sức người sức của trong các cuộc kháng chiến
bảo vệ tổ quốc, vỡ thế hậu quả mà chiến tranh để lại hết sức nặng nề. Toàn tỉnh cú 200
nghỡn người thuộc diện các đối tượng chính sách, 9500 người nhiễm chất độc da cam, 100
nghỡn người bị tàn tật, 13 nghỡn trẻ mồ cụi và hàng ngàn người già cô đơn.
Đồng thời, ở một tỉnh kinh tế chậm phát triển, bỡnh quõn thu nhập đầu người thấp, tỷ
lệ hộ đói nghèo cao, có 7/61 huyện nghèo nhất nước, lại thường xuyên phải hứng chịu hậu
quả nặng nề của thiên tai.
Những yếu tố về tự nhiờn, kinh tế, xó hội ở trờn vừa là nguồn lực đồng thời cũng là
những khó khăn trở ngại đối với sự lónh đạo của các huyện uỷ trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xó hội nhằm phấn đấu xây dựng Thanh Hoá trở thành một tỉnh kiểu mẫu như
lũng mong muốn của Bác Hồ khi Người về thăm tỉnh.
2.1.2. Thực trạng cụng tỏc Hội chữ thập đỏ cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoỏ
2.1.2.1. Những ưu điểm trong hoạt động của các huyện hội
Thanh Hoá là một tỉnh có vị trí hết sức quan trọng về quốc phũng và an ninh biờn
giới quốc gia, phớa Tõy giỏp Lào, Sơn La, Hoà Bỡnh; phớa Bắc giỏp Ninh Bỡnh; phớa
Nam giáp Nghệ An, có 102 km chiều dài bờ biển, là tiềm năng cho việc phỏt triển kinh tế
biển. Trong lịch sử hỡnh thành và phỏt triển, người dân Thanh Hoá tự hào là cái nôi của nền
văn hoá Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hoá Việt nam trong thời kỳ đầu dựng nước, nơi đó
sinh ra những vị anh hùng dựng nước và giữ nước có Triệu Thị Trinh, Lê Lợi, Lê Hoàn…
Những tên tuổi ấy đó đi vào lịch sử của đất nước và trở thành niềm tựu hào của dân tộc, là
những mốc son lịch sử trường tồn với thời gian, gắn liền với những địa danh nổi tiếng: Khu
di tích Đông Sơn, khu di tích Lam Kinh, thành nhà Hồ, đền Bà Triệu…
Trong cuộc kháng chiến giữ nước Thanh Hoá luôn là vị trí chiến lược quan trọng, là
hậu phương vững chắc đóng góp sức người sức của cho thành công của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, cũng ácđịa danh với những chiến công hiển hách như Sầm Sơn, Lạch trường,
khu di tích Hàm Rồng…đây là những chứng tích về cuộc chiến đấu ngoan cường của các
lực lượng vũ trang tại Thanh Hoá đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quan và hải quân
của đế quốc xâm lược. Nhân dân Thanh Hoá đó phải hứng chịu những tổn thất nặng nề sau
chiến tranh với hàng vạn gia đỡnh liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc
da cam…
Cùng với sự phát triển và trưởng thành của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, ngày
23/11/1957 Hội chữ thập đỏ Thanh Hoá ra đời. Tiếp tục phát huy truyền thống nhân ái trên
quê hương xứ Thanh. Hội đó tích cực tham gia giúp đỡ, cấp cứu và chăm sóc thương bệnh
binh trong chiến tranh. Nhiều cán bộ, hội viên, người tỡnh nguyện đó hy sinh xương máu vỡ
nền độc lập của đất nước. Hoà bỡnh lập lại Hội lại tiếp tục sứ mệnh của mỡnh: chăm sóc,
giúp đỡ những đối tượng chính sách xó hội, nạn nhân chiến tranh, nạn nhân chất độc da
cam, những người có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân thiên tai… nhằm cải thiện đời sống của
nhân dân giúp họ hoà nhập.
Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, với mục đích và tôn chỉ của mỡnh Hội chữ
thập đỏ Thanh Hoá luôn đi đầu trong mọi hoạt động nhân đạo, được cấp uỷ, chính quyền địa
phương, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh quan tâm giúp đỡ, ủng hộ, được Trung ương Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam đánh giá cao và ghi nhận những thành tích của cán bộ, hội viên, thanh thiếu
niờn, tỡnh nguyện viờn chữ thập đỏ đó đạt được, góp phần xây dựng quê hương Thanh Hoá anh
hùng.
Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước các huyện hội trong tỉnh đó quan tâm đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của mỡnh cho phự hợp với điều kiện cụ thể của
địa phương trong từng giai đoạn cách mạng nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt
động. Kiên trỡ bỏm sỏt quan điểm đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, các nguyên tắc hoạt động của phong trào chữ thập đỏ quốc tế, xuất phát từ nhu cầu
của các đối tượng dễ bị tổn thương nên hoạt động của hội ngày càng thiết thực đạt hiệu
quả cao cả về mặt giá trị trợ giúp đối tượng và giá trị nhân đạo. Phương châm xó hội hoỏ
hoạt động nhân đạo thông qua việc phối hợp chặt chẽ với các ngành các cấp cùng làm
nhân đạo từ thiện đồng thời chuyển hướng từ cứu trợ nhân đạo khẩn cấp nặng tính từ
thiện, sang cứu trợ nhân đạo phát triển bền vững, coi đó là định hướng để thúc đẩy hoạt
động mà các huyện hội đang hướng tới.
* Thực trạng về mặt tổ chức
Cùng với sự phỏt triển của kinh tế xó hội mạng lưới tổ chức Hội chữ thập đỏ cấp
huyện đó khụng ngừng củng cố và phỏt triển cả về số lượng và chất lượng, cả về quy mô và
nội dung, phương thức hoạt động. Tiếp tục quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 14/CT-TW ngày
07/09/1987 của Ban Bí thư TW Đảng, Chỉ thị số 21 ngày 22/09/1988 của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ, Quyết định số 323 ngày 09/11/1988 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá về việc “Củng cố
tổ chức, phát huy tác dụng tích Hội chữ thập đỏ các cấp trong tỡnh hỡnh mới”.
Thực hiện nghị quyết Đại Hội đại biểu Hội chữ thập đỏ tỉnh Thanh Hoá khoá V, VI
và VII, nhận rừ tầm quan trọng của cụng tỏc tổ chức theo tinh thần nghị quyết Đại Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam khoá VII và VIII, các huyện hội đó cú kế hoạch, chương trỡnh cụng tỏc
củng cố xây dựng và phát triển tổ chức hội. Lấy tổ chức hội cơ sở làm nền tảng cho mọi
hoạt động công tác hội, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Vỡ vậy cỏc cấp hội luụn
quan tõm xõy dựng tổ chức hội khụng ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hàng
năm, thông qua sự chỉ đạo của tỉnh Hội, huyện hội chủ động xây dựng kế hoạch chỉ đạo rà
soát bổ sung đội ngũ cán bộ các cấp hội kịp thời. Đặc biệt là khối trường học tiếp tục thực
hiện thông tư liên tịch số 01 của Bộ Giáo dục và Đào tạo - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam ngày càng có hiệu quả. Thực tế đó khẳng định
được vai trũ chữ thập đỏ trong nhà trường đó gúp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhõn
cỏch toàn diện cho học sinh. Đó trở thành ý thức tự giỏc cao của thanh thiếu niên chữ thập
đỏ trong nhà trường, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa ngành giáo dục - Đoàn thanh
niên và Hội chữ thập đỏ thể hiện phong trào chữ thập đỏ mang tính xó hội hoỏ ngày càng
cao.