Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với án ma túy trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.92 KB, 133 trang )






LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hành quyền cụng
tố của Viện kiểm sỏt nhõn dõn đối với án ma túy
trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An






MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma tuý và tội phạm ma tuý từ lâu đó trở thành hiểm họa của loài người. Các hoạt
động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy, chất hướng
thần đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đến sức khỏe và hạnh phúc của con người, cản
trở sự phát triển lành mạnh đối với kinh tế, chính trị, văn hóa, xó hội, đe dọa sự ổn định
về an ninh và chủ quyền của các quốc gia. Các hoạt động buôn bán ma túy trái phép đó
tạo điều kiện cho các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia thâm nhập, làm ô nhiễm và phá
hoại bộ máy nhà nước; làm phát sinh tội phạm; gây bất ổn trong mỗi gia đỡnh và cộng
đồng, khiến hàng trăm ngàn thanh thiếu niên, thế hệ tương lai của đất nước nghiện ngập, dẫn
đến tình trạng biết bao gia đình điêu đứng khi trong nhà có người nghiện. Tai hoạ ma tuý
đang rỡnh rập mọi người, mọi nhà, tạo ra tâm lý lo lắng và căng thẳng trong xó hội; nú cũn là
một trong những con đường chính lây lan HIV/AIDS, căn bệnh thế kỷ mà loài người đang
phải đối đầu và chống chọi.
Nhận thấy sự cần thiết phải huy động sức mạnh của các quốc gia cùng tham gia


phũng, chống và kiểm soỏt ma tỳy, Liờn Hợp quốc đó ban hành 3 Cụng ước (1961, 1971
và 1988) về phũng, chống và kiểm soỏt ma tỳy.
Ở Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, bên cạnh việc tập trung sức người,
sức của kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ đó quan tõm đến việc ngăn chặn
thuốc phiện. Ngày 05/3/1952, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 150-TTg quy
định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Bộ luật Hỡnh
sự năm 1985 và nhất là Bộ luật Hỡnh sự năm 1999 của nước ta đó hỡnh thành hệ thống cỏc
quy định tội phạm về ma túy. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã có những
chủ trương và giải pháp chiến lược để đấu tranh phòng, chống đối với tội phạm ma tuý.
Ngày 01/9/1997, Chủ tịch nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết
định số 789/QĐ-CTN tham gia 3 Công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy.
Ngày 28/5/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 686/TTg thành lập Ủy
ban quốc gia phũng, chống ma tỳy (nay là Ủy ban quốc gia phũng, chống tệ nạn ma tỳy,
mại dõm). Ngày 21 tháng 12 năm 1999 Quốc hội nước Cộng Hoà XHCNVN thông qua

Bộ luật hỡnh sự, trong đó qui định các Tội phạm về Ma tuý thành một chương riêng, đó
là chương XVIII (từ điều 192 đến điều 201). Ngày 09/12/2000, Quốc hội thụng qua Luật
Phũng, chống ma tỳy. Ngày 26 tháng 11 năm 2003 Quốc hội thụng qua Bộ luật tố tụng
hỡnh Sự qui định trỡnh tự, thủ tục tiến hành cỏc hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành ỏn hỡnh sự.
Ngày 10/3/2005, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 49/2005/QĐ-TTg phê
duyệt Kế hoạch tổng thể phũng, chống ma tỳy đến năm 2010, với mục tiêu đến năm 2015
cơ bản thanh toán tệ nạn ma túy trong cả nước Tất cả các chủ trương, chính sách và các
văn bản quy phạm pháp luật này đó gúp phần tớch cực vào cuộc đấu tranh phũng, chống
ma tỳy.
Trong quỏ trỡnh đấu tranh phũng chống tội phạm về ma tỳy, cỏc cơ quan bảo vệ
pháp luật đó phỏt hiện, điều tra và triệt phá nhiều ổ nhóm, đường dây và tổ chức tội phạm
ma túy có quy mô xuyên quốc gia và quốc tế, bắt giữ nhiều tên tội phạm đặc biệt nguy
hiểm và xử lý nghiêm minh trước pháp luật, góp phần làm ổn định tỡnh hỡnh an ninh trật
tự, đem lại lũng tin cho nhõn dõn về cụng tỏc phũng, chống ma tỳy. Trong cuộc đấu tranh

này, có không ít người vì nhiệm vụ mà phải hy sinh tính mạng của mình hoặc phải mang
thương tích suốt đời vì sự bình yên của nhân dân, của quốc gia, dân tộc.
Kết quả thực hành quyền công tố trong đấu tranh phũng, chống tội phạm ma tỳy
của Viện Kiểm sát nhân dân cho thấy hiện nay nguồn ma túy chủ yếu được thẩm lậu từ
nước ngoài vào nước ta bằng nhiều đường khác nhau. Phần lớn các vụ án ma túy đều có
sự tham gia của các đối tượng người dân tộc ít người sinh sống trên địa bàn các huyện
miền núi, biên giới, trong các vụ án đó họ giữ vai trũ tạo nguồn.
Nghệ An là một tỉnh ở BắcTrung bộ, có 17 huyện, 01 thành phố, 02 thị xã, trong
đó có 6 huyện biên giới là: Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn,Thanh Chương,
Quế Phong (các huyện này có đường biên giới tiếp giáp với Nước Cộng hũa Dân chủ
nhân dân Lào, với tổng chiều dài 419,5 km). Tại các huyện này có đông đồng bào dân tộc
ít người sinh sống. Những năm gần đây, được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư nhiều
chương trình dự án nên tình hình kinh tế - xã hội ở các huyện biên giới của tỉnh Nghệ An
đã có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện này vẫn còn
hết sức khó khăn. Kinh tế chậm phát triển do tập quán canh tác lạc hậu, dân trí thấp, do

vậy việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để đưa các tiến
bộ khoa học - kỹ thuật vào các huyện này gặp nhiều cản trở; văn hoá- xã hội còn nhiều
hạn chế cũng là nguyên nhân để bọn tội phạm ma tuý lợi dụng để lôi kéo người dân tiếp
tay và hỗ trợ cho chúng trong quá trình thực hiện tội phạm. Các huyện biên giới của tỉnh
Nghệ An luôn được xác định là tuyến, địa bàn trọng điểm về ma túy của cả nước, vỡ cú
cỏc yếu tố: địa bàn sản xuất ma túy, tuyến thẩm lậu ma túy từ nước ngoài vào, địa bàn
trung chuyển và cũng là địa bàn tiêu thụ lớn. Khảo sát, nghiên cứu hồ sơ các vụ án về tội
phạm ma túy trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An cho thấy tỡnh trạng người
dân tộc ít người phạm tội chiếm tỷ lệ rất cao trong số các vụ án cũng như đối tượng phạm
tội được phát hiện hàng năm. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh Nghệ An
luôn chủ động phũng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ma túy, nhiều đường dây, ổ
nhóm tội phạm ma túy hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia, nhiều địa bàn nóng bỏng về
ma túy được phát hiện, điều tra và triệt phá, nhất là các địa bàn đồng bào dân tộc ít người
sinh sống, nhưng do đặc điểm địa lý phức tạp, đối tượng phạm tội là người dân tộc ít

người có những phong tục, tập quán sống đặc thù làm cho công tác phũng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm ma túy thuộc địa bàn các huyện biên giới luôn gặp khó khăn. Trong
khi đó lại chưa có những nguyên cứu lý luận, cụng tỏc tổng kết rỳt kinh nghiệm cũn
nhiều hạn chế làm cho cụng tỏc phũng, chống tội phạm ma tỳy trờn địa bàn các huyện
biên giới của Tỉnh Nghệ An chưa đạt hiệu quả cao.
Từ những lý do nờu trờn, tỏc giả lựa chọn đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn thực
hành quyền cụng tố của Viện kiểm sỏt nhõn dõn đối với án ma túy trên địa bàn các huyện
biên giới tỉnh Nghệ An" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu của đề tài
Đấu tranh phũng, chống ma tỳy từ lõu đó mang tớnh toàn cầu cả mặt lý luận và
thực tiễn. Để tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận nhằm nâng cao hiệu quả công tác phũng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy, thời gian qua đó có nhiều chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu khoa học, nhiều luận án tiến sĩ,
nhiều luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu về tội phạm ma túy, về thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án hình sự nói chung về án ma tuý nói riêng,
trong đó có cỏc cụng trỡnh sau:

- Nghị quyết 49/ NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến l-
ược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Đại học Quốc gia Hà Nội- Khoa Luật: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng
chủ biên.
- Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao: "Sổ tay kiểm sỏt viờn
hỡnh sự" Tập 1 năm 2006.
- “Hiểm hoạ ma tuý và cuộc chiến mới” của GS,TS Nguyễn Xuân Yêm, TS Trần
Văn Luyện ( Năm 2001).
- “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở việt nam
từ năm 1945 đến nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ.
- “Công tác kiểm sát điều tra án ma tuý” của TS Dương Thanh Biểu (năm 2001).
- Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Hồng Thanh về “Hoàn thiện pháp luật về quyền

công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo chiến lược cải cách tư pháp” (năm 2006).
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Mai Nga “Nâng cao hiệu quả quan hệ
phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Cảnh sát điều tra trong giải quyết các vụ
án ma tuý” (Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2006).
- Luận văn thạc sĩ luật học của Trịnh Duy Tám về “áp dụng pháp luật về thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của viện kiểm sát nhân dân ở việt nam hiện
nay” (năm 2006)
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Đỡnh Trung về “ Thực hiện phỏp luật
phũng chống ma tuý trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay” (Năm 2006).
- Luận án tiến sĩ Luật học của Lê Thị Tuyết Hoa về “ Quyền công tố ở Việt Nam”
(Năm 2002).
Các công trỡnh trờn thường được các tác giả nghiên cứu ở nhiều phương diện và
cấp độ khác nhau như: tội phạm học, hỡnh phỏp học, luật học. Mặc dù đó cú một số cụng
trỡnh nghiờn cứu về vấn đề thực hành quyền công tố và vấn đề phũng, chống ma tuý ở
một số địa phương nhưng cho đến nay chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu một cỏch cú
hệ thống dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật về hoạt động thực hành
quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân đối với án ma túy trên địa bàn các huyện biên

giới tỉnh Nghệ An. Đây là vấn đề cần được tập trung nghiên cứu bởi công tác đấu tranh
phũng, chống ma tuý ngoài đặc điểm chung thỡ ở mỗi địa phương, mỗi loại đối tượng lại
có những đặc điểm riêng như địa lý, kinh tế, xó hội, tập quỏn, lối sống, phương thức thủ
đoạn phạm tội Hơn nữa, Nghệ An là một địa bàn nóng bỏng, phức tạp về tội phạm ma
túy, nhất là tại các huyện biên giới, nhưng công tác tổng kết rút kinh nghiệm chưa được
tiến hành một cách đầy đủ, khoa học. Vỡ vậy, việc nghiờn cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết
thực trong cụng tỏc phũng, chống tội phạm ma tỳy và thực hành quyền công tố của
VKSND đối với án ma tuý trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Về mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quyền công tố và thực hành quyền công tố của VKSND đối với ỏn ma tuý; tổng kết thực

tiễn cụng tỏc thực hành quyền cụng tố của VKSND đối với tội phạm ma túy trên địa bàn
các huyện biên giới của tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất và luận giải các giải pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội phạm ma túy
trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An nói riêng và toàn quốc nói chung.
- Về nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, thực hành quyền công
tố của VKSND đối với án ma túy.
+ Đánh giá thực trạng công tác thực hành quyền công tố của VKSND đối với án
ma túy trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An.
+ Đề xuất và luận giải các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực
hành quyền công tố đối với án ma túy trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của cụng
tỏc thực hành quyền công tố của VKSND đối với án ma túy trên địa bàn các huyện biên
giới tỉnh Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân thuộc các huyện biên giới tỉnh Nghệ An từ năm 2005 đến tháng
6 năm 2009.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát về đấu tranh phũng, chống tội phạm ma
tỳy; cỏc học thuyết chớnh trị và phỏp lý về tổ chức bộ mỏy nhà nước nói chung và các cơ
quan tư pháp nói riêng.
Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau: phân tích, tổng hợp, khảo sát, thống kê, so sánh và một số phương pháp
khác.
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là công trỡnh nghiờn cứu khoa học phỏp lý nhằm bổ sung về mặt lý luận về

thực hành quyền công tố của VKSND đối với án ma túy. Kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và áp dụng vào thực tiễn công tác thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong đấu tranh phũng chống tội phạm ma tỳy
trong tỡnh hỡnh mới. Qua đó luận văn đó rút ra những điểm mới, đó là:
- Rút ra đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội ma túy.
- Đưa ra những dự báo và giải pháp để đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm ma tuý
trên địa bàn các huyện biên giới tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất và luận chứng một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả công
tác thực hành quyền công tố của VKSND đối với ỏn ma tuý trờn địa bàn các huyện biên
giới tỉnh Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.







Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CễNG TỐ ĐỐI
VỚI ÁN MA TUÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CÔNG TỐ, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là một khỏi niệm phỏp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất
hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các
kiểu nhà nước, từ nhà nước chủ nô đến các kiểu nhà nước hiện đại. Quyền công tố gắn liền

với bản chất của nhà nước và là một bộ phận không thể tách rời của công quyền. Xuất phát
từ quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước buộc tội đối với
những người đó thực hiện hành vi phạm tội, vỡ vậy có thể khẳng định rằng: lúc nào xuất
hiện nhà nước thỡ lỳc đó quyền công tố cũng xuất hiện. Bởi vỡ, nhà nước nào cũng ban
hành pháp luật để nhằm quản lý xó hội, điều chỉnh các quan hệ xó hội theo ý chớ của giai
cấp thống trị. Cựng với sự ra đời của nhà nước, xó hội phõn chia thành nhiều giai cấp khỏc
nhau, giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để chuyên chính với giai cấp đối kháng,
nhằm củng cố quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế của giai cấp cầm quyền. Những hành vi
và việc làm trái với ý chớ của giai cấp thống trị xó hội, gây thiệt hại đến lợi ích của giai cấp
thống trị, đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật và hành vi vi phạm đó phải bị trừng trị.
Quyền trừng trị đó nằm trong tay nhà nước mà không một cá nhân nào có thể thay thế
được.
Việc nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố cú ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sõu sắc, nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp, xây dựng Nhà Nước pháp quyền
xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta
sử dụng thuật ngữ thực hành quyền công tố khi đề cập đến chức năng của viện kiểm sát
nhân dân (Điều 138 Hiến pháp năm1980). Thời gian qua chưa cú một tài liệu chớnh thức
nào ghi nhận rừ ràng, cụ thể khỏi niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố và thực hành

quyền cụng tố. Tỡnh hỡnh trờn là do chúng ta chưa có sự thống nhất trong nhận thức về khái
niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố dẫn đến sự thiếu thống nhất trong nhận thức về hoạt
động thực hành quyền công tố, chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta chính thức
giải thích khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố. Bởi vậy, để làm rừ thế nào
hoạt động thực hành quyền công tố, cần phải làm rừ thế nào là quyền cụng tố.
Công tố là một từ ghép Hán - Việt được hỡnh thành bởi hai từ đơn công và tố. Theo
Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học xó hội xuất bản năm 1994 tại các trang
200, 204, 973 thỡ: “tố” có nghĩa là nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái,
phạm pháp của người khác, cũn “công” có nghĩa là thuộc về Nhà nước chung cho mọi
người, khác với “ tư ”, “công tố” là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu

ý kiến trước tũa ỏn”. “Công tố” theo Từ điển tiếng Việt là một khái niệm bao gồm bốn
nội dung: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu trước tũa ỏn.
Trong tiếng Anh, công tố (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt nhà nước đại
diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý để bảo vệ lợi ích của nhà
nước, tập thể và công dân. Như vậy, công tố là một trong những hỡnh thức cỏo buộc
người khác thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Trong công tố, người thực
hiện sự cáo buộc ấy là nhà nước, đối tượng bị cáo buộc không chỉ là một con người cụ
thể mà cũn cú thể là một phỏp nhõn và việc cỏo buộc này khụng hạn chế trong một lĩnh
vực nào mà nú được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo hành vi
vi phạm được thực hiện đó xõm phạm tới quan hệ phỏp luật đó. Vỡ vậy công tố, có thể
hiểu: là sự cáo buộc của nhà nước đối với người đó cú hành vi vi phạm phỏp luật trước
tũa ỏn. C.Mác nhấn mạnh:
Quyền cụng tố thể hiện rừ mối quan hệ giữa nhà nước với người phạm tội
và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra; Sự trừng phạt
là quyền của nhà nước không thể chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền của nhà
nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng là nghĩa vụ của người đó đối với
nhà nước, bởi vỡ bản chất phạm tội của hành vi khụng phải là việc xõm phạm
đến rừng cây với tính cách là thứ vật chất mà là việc xâm phạm đến hệ thần
kinh của nhà nước, đến quyền sở hữu [14, tr. 218-219].

Việc xác định quyền công tố, và theo đó là thực hành quyền công tố, cú ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng. Quyền công tố là quyền của nhà nước đưa các vụ việc vi
phạm trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra cơ quan xét
xử. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho phép viện kiểm sát nhân danh lợi ích nhà nước,
lợi ích xó hội đưa vụ án ra tũa để xét xử thỡ nơi đó có việc thực hành quyền công tố.
Thực hành quyền công tố là quá trỡnh truy cứu trỏch nhiệm phỏp lý đối với người vi
phạm, nờn quỏ trỡnh này bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có
phán quyết có hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền
công tố ở giai đoạn sớm hơn. Như vậy, quyền công tố chính là quyền của nhà nước nhân
danh lợi ớch xó hội để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp

luật ra trước tũa ỏn.
Tóm lại: quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho cơ quan công tố đưa vụ án ra
tũa để xét xử, nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước,lợi ích công cộng quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân được thực hiện trong lĩnh vực tố tụng hỡnh sự.
Để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố trong tố tụng hỡnh sự cần phải nhận
thức sõu sắc rằng: Quyền cụng tố là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hỡnh sự
đối với người phạm tội. C.Mác đó viết: “Sự trừng phạt là quyền của nhà nước không thể
chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền của nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời
cũng là nghĩa vụ của người đó đối với nhà nước” [14, tr.218-219]. Không thể đồng nhất
quyền công tố với việc thực hành quyền công tố, bởi thực hành quyền công tố là việc sử
dụng các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự của viện kiểm sát nhân
dân buộc tội đối với người phạm tội trước tũa ỏn. Khi bản án kết tội đó cú hiệu lực phỏp
luật, khụng bị khỏng nghị, tức là quyền tài phỏn chấm dứt thỡ quyền cụng tố cũng bị triệt
tiờu.
Như vậy, phạm vi quyền cụng tố trong tố tụng hỡnh sự bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Đối tượng, nội dung của quyền công tố trong tố tụng hỡnh sự, hiện nay cũn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, theo đó cũng có nhiều quan niệm khác
nhau về đối tượng, nội dung của thực hành quyền công tố. Ở đây cần nhắc đến luận điểm
nổi tiếng của Roussseau rằng:

“Cơ quan tư pháp không được có một chút quyền lập pháp hay hành pháp nào cả. Nhưng
chính do đó mà cơ quan tư pháp có quyền cao hơn cả, vỡ nú khụng làm gỡ cả nhưng có
thể ngăn ngừa tất cả” và “nếu được điều hũa một cỏch thụng minh sẽ là chỗ dựa vững
chắc cho một thể chế tốt” [26, tr.174 ].
Từ sự phân tích trên cho thấy nội dung của quyền cụng tố là sự buộc tội, cũn việc
tiến hành những biện phỏp gỡ do luật định và cơ quan nhà nước nào được giao nhiệm vụ
thực hiện các biện pháp pháp lý ấy để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội
là thực hành quyền công tố. Vỡ vậy, xuất phỏt từ bản chất của quyền cụng tố và đối tượng tác
động của quyền công tố như đó nờu trờn, chỳng tụi quan niệm rằng: Nội dung quyền công tố

trong TTHS chính là sự buộc tội của nhà nước đối với người đó thực hiện tội phạm.
V.I.Lê nin khi đề cập đến quyền của Uỷ viên công tố đó viết : uỷ viên công tố có
quyền và bổn phận duy nhất là đưa vụ án ra toà.
Quyền công tố được thể hiện rừ nột trong TTHS Việt Nam và cơ quan duy nhất
thực hiện quyền này đó là viện kiểm sát. Điều 23 BLTTHS quy định: Viện kiểm sát thực
hành quyền cụng tố trong tố tụng hỡnh sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra
trước toà án.
Thực hành quyền công tố được xác định là chức năng của viện kiểm sát trong các
giai đoạn tố tụng. Điều đó được khẳng định trong pháp luật TTHS Việt Nam và Luật Tổ
chức VKSND, về công tác thực hiện chức năng của viện kiểm sát trong TTHS. Những
quy định trên đây của pháp luật hiện hành cũng cho thấy quyền công tố trong TTHS phát
sinh từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị
Như vậy: quyền cụng tố trong tố tụng hỡnh sự là quyền của nhà nước giao cho
viện kiểm sát thực hiện theo quy định của pháp luật để truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự đối
với người phạm tội, thực hiện sự buộc tội đối với người đó trước tũa ỏn.
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Trong khoa học luật TTHS, việc xác định quyền công tố và theo đó là thực hành
quyền công tố có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Thời gian qua mặc dự
vẫn cũn cú ý kiến khỏc nhau, nhưng vấn đề về quyền công tố cũng đó được quan tâm
nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiờn, cho đến nay, nhận thức

của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn của các cơ quan tư pháp cũn
nhầm lẫn giữa quyền cụng tố và thực hành quyền cụng tố.
Trong TTHS, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết
thúc khi bản án đó cú hiệu lực phỏp luật, khụng bị khỏng nghị. Căn cứ vào các quy định
của pháp luật, viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố, và chỉ có viện
kiểm sát là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không chịu sự can thiệp
của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ ỏn hỡnh sự
của cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thỡ viện kiểm sỏt cú quyền hủy bỏ.

Quyết định khởi tố vụ án hỡnh sự của tũa ỏn đều phải được gửi cho viện kiểm sát xem xét,
nếu có vi phạm pháp luật thỡ viện kiểm sỏt cú quyền khỏng nghị.
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, cũn việc quyết định là do viện kiểm sát; cơ
quan điều tra có quyền độc lập thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài
liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là do viện kiểm sát chịu trách
nhiệm. Trong trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, viện kiểm sát có quyền yêu cầu
cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ; có quyền đỡnh chỉ vụ ỏn; yờu cầu cơ quan có
thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chớnh người đó cú hành vi vi phạm phỏp luật.
Khi cú đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó
trước tũa ỏn thỡ viện kiểm sỏt quyết định truy tố bị can ra tũa. BLTTHS nước ta đó quy
định thẩm quyền công tố của viện kiểm sát trong TTHS rất lớn là được áp dụng các biện
pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội (Điều 23BLTTHS). Như
vậy, về thực hành quyền công tố là chức năng mà không cơ quan nhà nước nào làm thay
Viện kiểm sát. Về vấn đề này, tháng 7 năm 1967, khi Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo
luận Báo cáo của VKSNDTC, Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc
hội lúc đó đó kết luận: “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội hay
không, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là
Viện kiểm sát phải trông nom bảo đảm làm cho tốt” [37].

Như vậy: Thực hành quyền công tố là việc viện kiểm sát sử dụng các biện pháp
do luật định để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội, đưa người phạm
tội ra xét xử trước tũa ỏn và bảo vệ sự buộc tội đó.
Cần nhấn mạnh rằng, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi cú tội phạm xảy ra
(vỡ lỳc đó xuất hiện mối quan hệ giữa nhà nước với người phạm tội) và kết thúc khi
bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị (quyền truy cứu trách nhiệm hỡnh
sự đó đạt được thông qua bản án có hiệu lực pháp luật). Tuy nhiên, trên thực tế không
phải trong mọi trường hợp quyền công tố kéo dài đến tận khi bản án có hiệu lực pháp
luật mà nó có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn theo quy định của

BLTTHS. Điều này có nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được đưa ra xét xử trước
tũa ỏn, khi chấm dứt quyền cụng tố thỡ đồng thời cũng không có việc thực hành
quyền công tố. Vỡ vậy, có thể hiểu hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi
khởi tố vụ án và trong suốt quá trỡnh tố tụng, nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội. Đó chính là phạm vi thực hành quyền công tố.
Không phải trong mọi trường hợp quyền công tố đều chấm dứt khi bản án có hiệu
lực, không bị kháng nghị mà quyền công tố có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn
khi có một trong các căn cứ để đỡnh chỉ vụ ỏn. Theo đó, việc thực hành quyền công tố cũng
chấm dứt ở giai đoạn tố tụng đó.
Từ những lập luận trên cho phép kết luận rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố
bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị hoặc vụ án được đỡnh chỉ khi cú một trong những căn cứ do pháp luật tố tụng hỡnh
sự qui định.
Như vậy, những quyền năng pháp lý mà viện kiểm sỏt tự quyết định và liên quan
đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thỡ đó là những quyền năng thuộc nội dung thực hành
quyền công tố; những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sỏt sử dụng để phát hiện và yêu
cầu xử lý vi phạm phỏp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Tuy vậy, việc xác định và phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, bởi vỡ
cú những hành vi tố tụng thể hiện sự đan xen giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Chẳng hạn, quyết định khỏng nghị phỳc

thẩm hỡnh sự của viện kiểm sỏt đối với bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật.
Vỡ một quyết định kháng nghị có thể bao hàm đồng thời hai nội dung, một là có sự vi phạm
trong việc áp dụng Bộ luật hỡnh sự, hai là vi phạm nghiờm trọng về TTHS; hoặc chỉ thể hiện
một trong hai nội dung trên nhưng đều làm phát sinh một trỡnh tự xột xử mới, xột xử phỳc
thẩm hỡnh sự. Chớnh vỡ lẽ đó, theo luật định, viện kiểm sát thực hiện đồng thời hai chức
năng, chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Hiện nay trong lý luận và thực tiễn cũn cú một số quan điểm khác nhau về thực hành
quyền công tố và chủ thể thực hành quyền công tố. Nhưng theo chúng tôi, chỉ có cơ quan

nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với
người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra tội phạm và giai đoạn xét xử hỡnh sự tại tũa ỏn
thỡ đó là cơ quan thực hành quyền công tố. Như vậy, có thể quan niệm rằng: nội dung thực
hành quyền công tố là việc viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập
nhằm truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, được
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trỡnh tố tụng.
+ Mối quan hệ giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng
hỡnh sự:
Làm rừ mối quan hệ giữa quyền cụng tố và thực hành quyền cụng tố trong TTHS
cú ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng để nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về quyền
công tố và thực hành quyền công tố và tỡm kiếm những giải phỏp nõng cao chất lượng tổ
chức thực hành quyền công tố.
Quyền công tố xuất hiện với sự ra đời của nhà nước, là một loại quyền lực nhà
nước được dùng để buộc tội, yêu cầu trừng phạt các hành vi phạm tội một cách công khai
bằng con đường Tũa ỏn. Quyền cụng tố luụn gắn liền với bản chất của từng kiểu nhà
nước. Trong TTHS Việt Nam, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội nên nội dung của quyền này chính là sự buộc tội đối với người cụ thể đó
thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS.
Thực hành quyền công tố được hiểu là việc nhà nước tổ chức ra đại diện và giao
cho nó những quyền năng pháp lý để thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm đối
với người phạm tội. Việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở mỗi quốc gia là khác nhau,
điều đó tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Ở một số nước, việc

thực hành quyền công tố được giao cho một vài cơ quan thực hiện (Vương quốc Anh),
cũn phần lớn là do một cơ quan đảm nhiệm đó là Viện công tố. Ở Việt Nam, cơ quan duy
nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố là Viện kiểm sát.
Từ những vấn đề vừa trỡnh bày trờn đây cho thấy: mối quan hệ giữa quyền cụng tố
và thực hành quyền tố trong tố tụng hỡnh sự là mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà
nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy.
Như vậy, những căn cứ làm phát sinh quyền công tố cũng là những căn cứ để thực

hành quyền công tố, đó là có hành vi phạm tội đó xảy ra và con người cụ thể đó thực hiện
tội phạm đó.
Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố thỡ cũng đồng thời cũng làm chấm
dứt việc thực hành quyền công tố.
Mối quan hệ giữa quyền cụng tố và thực hành quyền cụng tố trong tố hỡnh sự gắn bú
rất mật thiết với chớnh sỏch hỡnh sự và đường lối xử lý tội phạm của nhà nước. Quyền công tố
trong TTHS là quyền lực nhà nước có nội dung là sự buộc tội đối với người thực hiện tội
phạm, cũn thực hành quyền cụng tố trong TTHS là tổng hợp cỏc quyền năng pháp lý để thực
hiện quyền buộc tội ấy, là chức năng của một cơ quan nhà nước (Viện kiểm sát). Vỡ vậy, trong
nhận thức và hành động trên thực tiễn chúng ta không thể nhầm lẫn giữa quyền lực nhà nước
với các quyền năng cụ thể mà pháp luật quy định để thực hiện quyền lực ấy. Khi tội phạm xảy
ra cũng là lúc làm phát sinh quyền trừng trị của Nhà nước đối với người phạm tội đó thực hiện
tội phạm đó, tức là xuất hiện quyền công tố trước một tội phạm cụ thể. Vỡ vậy, phạm vi tác
động của quyền công tố thường lớn hơn phạm vi tác động của thực hành quyền công tố. Do
đó, để đấu tranh phũng chống tội phạm cú hiệu quả thỡ cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung,
trong đó có cơ quan công tố cần rút ngắn khoảng cách giữa số tội phạm xảy ra với số vụ án
được khởi tố, số người phạm tội thực tế với số bị can được khởi tố.
Tránh nhầm lẫn giữa việc một số cơ quan nhà nước có quyền tiến hành một số
quyền năng pháp lý như khởi tố vụ án, khởi tố bị can…, để cho rằng đó cũng là cơ quan
thực hành quyền công tố. Bởi vỡ, cơ quan nhà nước nào được thực hiện tổng hợp các
quyền năng tố tụng, được sử dụng để đưa các vụ án ra Tũa và thực hiện sự buộc tội mới
hợp thành việc thực hành quyền công tố.

1.1.3. Khỏi niệm ma tuý, ỏn ma tuý và đặc điểm Thực hành quyền công tố
của viện kiểm sát nhân dân đối với án ma tuý
1.1.3.1. Khái niệm ma tuý
Ma tuý là cỏc chất gõy nghiện, chất hướng thần được qui định trong danh mục do
chính phủ ban hành.
Chất gõy nghiện là chất kớch thớch hoặc ức chế thần kinh, dễ gõy tỡnh trạng
nghiện đối với người sử dụng.

Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử
dụng nhiều lần có thể dẫn tới trỡnh trạng nghiện đối với người sử dụng.
Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trỡnh điều chế, sản xuất
ma tuý, được qui định trong danh mục do chính phủ ban hành .
Các chất ma tuý được qui định trong Bảng I,II,III,IV Công ước Liên hợp quốc
năm 1971 (Ban hành kèm theo nghị định số 67/2001/NĐ- CP ngày 01/10/2001 của Chính
phủ Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam).
Án ma tuý: là các vụ án do các cơ quan tố tụng thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hỡnh sự đối với các hành vi phạm tội được qui định trong chương XVIII của Bộ luật Hỡnh sự
ngày 21/12/1999 của Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
1.1.3.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với
án ma tuý
Thứ nhất, Thực hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với án ma tuý là
hoạt động chỉ do viện kiểm sát nhân dân tiến hành theo pháp luật quy định.
Dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thực hành quyền công tố của
viện kiểm sát nhân dân là hoạt động áp dụng pháp luật. Đây là hỡnh thức thực hiện phỏp
luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền
nhằm cá biệt hóa những qui định của pháp luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá
nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể.
Theo quy định của pháp luật thỡ viện kiểm sỏt nhõn dõn cỏc cấp là cơ quan có
chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua việc
thực hiện chức năng này, viện kiểm sát nhân dân góp phần thực hiện quyền lực nhà nước,
trực tiếp thực hiện quyền tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ

XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm
phạm tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được
xử lý nghiờm minh trước pháp luật.
Là cơ quan duy nhất nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan tư pháp và thực hành quyền công tố’hoạt động thực hành quyền công tố

của viện kiểm nhân dân đối với ỏn hỡnh sự núi chung, án ma tuý nói riêng được quy định
tại Điều 12, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Theo đó, khi thực hành
quyền công tố viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ ỏn hỡnh sự, khởi tố bị can; yờu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc
thay đổi quyết định khởi tố vụ án hỡnh sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét
thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật
này;
3. Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của Bộ
luật này; nếu hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thỡ khởi tố về hỡnh sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và
các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các
quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không
phê chuẩn thỡ trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rừ lý do;
5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra;
yêu cầu cơ quan điều tra truy nó bị can;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đỡnh chỉ hoặc tạm đỡnh chỉ vụ ỏn.
Như vậy, theo quy định của pháp luật ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất
được phát động quyền công tố một cách độc lập, tức là cơ quan quyết định việc khởi tố hay
không khởi tố vụ án hỡnh sự, khởi tố bị can. Theo luật định, ở nước ta có nhiều cơ quan
được quyền khởi tố, đó là: cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tũa ỏn và một số cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như bộ đội biên phũng, hải quan,
kiểm lõm. Tuy nhiờn, quyền quyết định việc khởi tố vụ án hỡnh sự độc lập thỡ chỉ cú
viện kiểm sỏt. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định không

khởi tố vụ án hỡnh sự khụng cú căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đối với những quyết
định khởi tố vụ án của tũa ỏn không có căn cứ thỡ viện kiểm sát cùng cấp có quyền
kháng nghị lên tũa ỏn cấp trên. Trong mọi trường hợp viện kiểm sát đều có quyền tự
mỡnh khởi tố vụ ỏn hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án.

Trong quỏ trỡnh điều tra, pháp luật tố tụng đó quy định cho cơ quan điều tra có
quyền ra các quyết định bắt, tạm giữ, ra lệnh tạm giam hoặc đề nghị áp dụng các biện
pháp ngăn chặn khác, hạn chế một số quyền của người phạm tội nhằm phục vụ cho việc
điều tra thu thập tài liệu chứng cứ, ngăn chặn người phạm tội tiếp tục phạm tội hoặc tiêu
hủy chứng cứ. Nhưng cơ quan điều tra không được áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam khi không có xét phê chuẩn của Viện kiểm
sát. Pháp luật hiện hành đũi hỏi Viện kiểm sỏt phải nghiờn cứu, xem xột tớnh cú căn cứ
và tính hợp pháp để phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều
tra; kịp thời hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trái pháp luật của cơ quan điều tra. Trong
mọi trường hợp, khi thực hiện các quyền năng này pháp luật cũng yêu cầu Viện kiểm sát
cần quán triệt tư tưởng nhanh chóng, chính xác và khách quan để phúc đáp được các yêu
cầu đối với quá trỡnh điều tra vụ án hỡnh sự trỏnh oan, sai, lọt tội phạm, nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phũng chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.
Để bảo đảm chất lượng công tác thực hành quyền công tố, pháp luật hiện hành đó cú những
quy định cho Viện kiểm sát có quyền độc lập trong việc thu thập tài liệu chứng cứ để làm
rừ cỏc tỡnh tiết của vụ ỏn xảy ra. Cỏc quyền đó là: quyền đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 112 BLTTHS, Điều 12 Luật Tổ chức
VKSND). Đề ra yêu cầu điều tra được hiểu là mệnh lệnh của cơ quan công tố đối với cơ
quan điều tra trong quá trỡnh điều tra, mệnh lệnh này có thể đặt ra ngay từ khi Viện kiểm
sát nhận được tin báo, tố giác về tội phạm nhằm yêu cầu cơ quan điều tra làm rừ cú tội phạm
xảy ra hay khụng. Hoặc sau khi khởi tố vụ ỏn hỡnh sự để củng cố chứng cứ về hành vi phạm
tội của các bị can, khi trả lại hồ sơ để điều tra lại hoặc điều tra bổ sung.
Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi cung bị can,
lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, trưng cầu giám định, nhưng chỉ trong những
trường hợp: sau khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát,

xét cần phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ để làm rừ nội dung vụ ỏn hoặc để củng cố
chứng cứ, bảo đảm cho việc ra các quyết định về vụ án như quyết định truy tố bị can,
quyết định đỡnh chỉ vụ ỏn cú căn cứ và đúng pháp luật; khi Tũa ỏn trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung, xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho cơ quan điều tra mà Viện kiểm sát có

thể tự mỡnh khắc phục được. Khi cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra vụ án, thỡ
Viện kiểm sỏt chỉ tiến hành cỏc hoạt động kiểm sát điều tra, nếu cần làm rừ cỏc tỡnh tiết
nào đó của vụ án thỡ đề ra yêu cầu điều tra để cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Như
vậy, theo quy định của pháp luật ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được phát
động quyền công tố một cách độc lập, tức là cơ quan quyết định việc khởi tố hay khụng khởi
tố vụ ỏn hỡnh sự, khởi tố bị can.
Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án được cơ quan điều tra gửi sang Viện kiểm sát,
Viện kiểm sát phải thẩm định, kiểm tra lại toàn bộ quá trỡnh và kết quả điều tra, đánh giá
toàn bộ hệ thống chứng cứ để chứng minh có hay không có tội phạm, tính chất và mức độ
của hành vi phạm tội, người đó thực hiện tội phạm và cỏc tỡnh tiết khỏc của vụ ỏn. Chỉ trờn
cơ sở kết quả kiểm sát ấy, Viện kiểm sát mới tiến hành các hoạt động công tố như đỡnh chỉ
vụ ỏn, truy tố bị can ra Tũa bằng bản cỏo trạng. Khi tiến hành cỏc hoạt động này Viện kiểm
sát không phụ thuộc vào đề nghị truy tố của cơ quan điều tra mà thông qua chính kết quả
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật để thực hiện quyền công tố, đó là việc đưa ra
quyết định của mỡnh để giải quyết vụ án hỡnh sự. Đến lượt mỡnh, quyết định truy tố bị can
trước Tũa bằng bản cỏo trạng được xem như là hạt nhân của việc thực hành công tố và đó là
cơ sở để Viện kiểm sát tiếp tục thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn xét xử các vụ án hỡnh sự.
Theo qui định tại điều 16 - Luật Tổ chức VKSND năm 2002 qui định: Trong giai đoạn
xét xử các vụ án hỡnh sự, Viện kiểm sỏt nhõn dõn cú trỏch nhiệm thực hành quyền cụng tố,
bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hỡnh sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật,
nghiêm minh, kịp thời.
Tại điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 qui định: Khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hỡnh sự, Viện kiểm sát nhân dân có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Đọc bản cáo trạng, quyết định của viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải
quyết vụ án tại phiên toà;
2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về

việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;
3. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại phiên
toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tại điều 18 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 qui định: Khi thực
hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hỡnh sự, viện kiểm sỏt nhõn dõn cú những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân.
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; Kiểm sát bản án
và quyết định của toà án nhân dân theo qui định của pháp luật.
3. Yêu cầu toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hỡnh
sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Với những quy định của pháp luật như trên thỡ viện kiểm sỏt nhõn dõn cú quyền
ỏp dụng mọi biện phỏp cần thiết khi thực hành quyền cụng tố đối với cỏc vụ ỏn hỡnh sự.
Đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hỡnh sự được tuân theo
quy định của pháp luật; bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Thứ hai, thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân đối với án ma tuý phải
tuân thủ những quy định về trỡnh tự, thủ tục do phỏp luật quy định.
Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với quá trỡnh
điều tra tội phạm của cơ quan điều tra, hoạt động xét xử của Toà án nhân dân là một quá
trỡnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát đối với hoạt động tố tụng của cơ
quan Công an và Toà án.Đây là những hoạt động rất quan trọng có tính quyết định trong quá
trỡnh giải quyết những vụ ỏn hỡnh sự.
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng hỡnh sự đều có hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Chớnh vỡ vậy, pháp luật nói chung và
pháp luật tố tụng hiện hành nói riêng đó quy định rất chặt chẽ việc áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với ỏn hỡnh sự núi chung, ỏn

ma tuý nói riêng, như: Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp điều tra, các biện
pháp ngăn chặn, nhập - tách vụ án, đỡnh chỉ, tạm đỡnh chỉ vụ ỏn, thời hiệu điều tra, thời hạn

điều tra, thời hạn chẩn bị xét xử, thời hạn bắt buộc toà án phải đưa vụ án ra xét xử, trỡnh tự
thủ tục tại phiờn toà, việc toà án và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
phải tuân thủ pháp luật trong toàn bộ hoạt động xét xử.
Để bảo đảm việc điều tra vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, Viện kiểm sát
có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên khi có căn cứ cho
rằng điều tra viên đó không vô tư trong quá trỡnh tiến hành tố tụng. Trong trường hợp
hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm như tiêu hủy, đánh tráo vật chứng của vụ án,
làm sai lệch hồ sơ vụ án đang điều tra thỡ Viện kiểm sỏt cú quyền khởi tố vụ ỏn hỡnh
sự và khởi tố bị can đối với điều tra viên đó. Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS, Điều 12
Luật Tổ chức VKSND, thỡ Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc truy
tố bị can. Cơ quan điều tra có quyền đề nghị truy tố, nhưng trong mọi trường hợp nếu Viện
kiểm sát không truy tố thỡ vụ ỏn phải được đỡnh chỉ. Cơ quan điều tra có quyền đỡnh chỉ
điều tra nhưng trường hợp quyết định đỡnh chỉ điều tra của cơ quan điều tra không có căn
cứ thỡ Viện kiểm sỏt cú quyền hủy bỏ. Như vậy, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm
sát có toàn quyền quyết định số phận pháp lý của vụ ỏn hỡnh sự, đó là đưa hay không
đưa vụ án ra Tũa. Để thực hiện nhiệm vụ này, pháp luật hiện hành đó cú nhiều quy định
cho Viện kiểm sát tác động vào quá trỡnh điều tra, bảo đảm hoạt động điều tra phải được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, việc điều tra phải khách quan, toàn diện, phải
thu thập đầy đủ các chứng cứ, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, làm rừ cỏc tỡnh
tiết tăng nặng hoặc tỡnh tiết giảm nhẹ trỏch nhiệm hỡnh sự của bị can, xỏc định nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm, những vi phạm pháp luật trong quá trỡnh điều tra
phải được phỏt hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiờm minh.
Trong quỏ trỡnh điều tra, Viện kiểm sát phải chủ động bám sát các hoạt động điều tra
của cơ quan điều tra như trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can,
khám xét. Phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động thu thập, bảo quản, đánh giá các chứng cứ của
vụ án; kiểm sát chặt chẽ ngay từ đầu việc khởi tố vụ án hỡnh sự, khởi tố bị can và cỏc quyết
định khác của cơ quan điều tra như quyết định đỡnh chỉ, tạm đỡnh chỉ điều tra, quyết định

phục hồi điều tra vụ án thông qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát ra được các quyết định
công tố kịp thời, chính xác như hủy các quyết định không có căn cứ của cơ quan điều tra.

Như vậy, pháp luật hiện hành đó quy định các nội dung hoạt động công tố của
Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hỡnh sự
đối với bị can có căn cứ và đúng pháp luật. Hoạt động này của Viện kiểm sát chỉ đúng
đắn khi kết quả điều tra của cơ quan điều tra được bảo đảm bởi hoạt động kiểm sát điều
tra của Viện kiểm sát một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Thực hành quyền công tố trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử của Viện
kiểm sát nhân dân đối với cỏc vụ ỏn hỡnh sự núi chung, án ma tuý nói riêng là chức năng
được nhà nước trao quyền cho VKSND thực hiện theo qui định của pháp luật. Nhằm mục
đích để việc giải quyết vụ ỏn hỡnh sự đảm bảo tính khách quan, kịp thời, đúng pháp luật,
chống bỏ lọt tội phạm và hành vi phạm tội, tránh oan, sai, thực hiện việc giải quyết vụ ỏn
Hỡnh sự đúng trỡnh tự thủ tục do phỏp luật tố tụng hỡnh sự qui định.
Thứ ba, thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân đối với án ma tuý là
sự thể hiện quyền lực nhà nước trong các giai đoạn tố tụng.
Bản thõn phỏp luật là sự thể hiện ý chớ của nhà nước, việc thực hành quyền công
tố của VKSND được coi là tiếp tục thể hiện ý chí đó trong quá trỡnh điều chỉnh của phỏp
luật, vỡ vậy, ở một chừng mực nhất định, thực hành quyền công tố của VKSND cũn
mang tớnh chớnh trị, nú phục vụ cho những mục đích chính trị nhất định của giai cấp
cầm quyền. Khỏc với cỏc hỡnh thức thực hiện phỏp luật khỏc, thực hành quyền công tố
của VKSND được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chớ của chủ thể bị áp dụng pháp luật.
Thực hành quyền công tố của viện kiểm nhân dân đối với ỏn ma tuý là hoạt động
thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cỏc vụ ỏn
hỡnh sự đối với tội phạm ma tuý của các cơ quan tiến hành tố tụng được tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật. Đây là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước trong việc thực hiện
chức năng duy trỡ trật tự xó hội, bảo vệ lợi ớch của giai cấp cầm quyền, cú biện phỏp truy
cứu trỏch nhiệm hỡnh sự đối với chủ thể đó cú hành vi gõy nguy hiểm cho xó hội và bị coi là
tội phạm.

Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi, bổ sung năm 2002) đã quy định chức năng của
VKSND; đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức

năng trên, Nhà nước ta đảm bảo cho VKSND tăng cường chức năng giám sát trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai,
không để lọt tội phạm.
Theo quy định tại Điều 112 BLTTHS năm 2003, thì VKSND có nhiệm vụ và thẩm
quyền khi tiến hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự như sau:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của pháp luật TTHS.
- Đề ra các yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định; nếu
hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác. Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết
định của cơ quan điều tra theo quy định pháp luật tố tụng. Nếu không phê chuẩn thì phải
nêu rõ lý do trong quyết định.
- Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ của cơ quan điều tra, yêu cầu cơ quan
điều tra truy nã bị can.
- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo phỏp luật tại phiờn toà hỡnh
sự theo qui định của Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, BLTTHS, Pháp lệnh Kiểm sát
viên VKSND.
Những quyết định của cơ quan VKS trong hoạt động thực hành quyền công tố các vụ
án hình sự là thể hiện quyền lực nhà nước, do vậy các quyết định đó phải được các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân chấp hành. Nhất là cơ quan điều tra phải có trách
nhiệm thi hành các quyết định của VKS; nếu cơ quan điều tra không nhất trí thì cũng phải
chấp hành nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp trên (được quy định tại Điều 330
BLTTHS năm 2003). Đối với Toà án nhân dân thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập, nhưng

khi quyết định của hội đồng xét xử trái với quan điểm của VKS hoặc quyết định không có
căn cứ, trái pháp luật thỡ VKS cú quyền kháng nghị, theo qui định tại điều 232 BLTTHS.

Theo qui định tại điều 23 Bộ luật TTHS năm 2003 thỡ viện kiểm sỏt nhõn dõn khi
thực hành quyền cụng tố và kiểm sỏt việc tuõn theo phỏp luật trong tố tụng hỡnh sự có
những nhiệm vụ và quyền hạn đó là: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hỡnh sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Luật Tổ chức VKSND năm 2002 đó sửa đổi bổ sung quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự. BLTTHS
năm 2003 đã cụ thể hóa quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND như sau:
- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
hình sự của cơ quan điều tra. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của cả quá trình kiểm sát
điều tra của VKSND. Với nhiệm vụ này, VKS phải:
+ Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; xem việc khởi tố đó của cơ quan
điều tra có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật hay không.
+ Kiểm sát các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra như: khám xét, hỏi cung bị
can, lấy lời khai nhân chứng, lấy lời khai người biết việc, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, các biện pháp điều tra, trình tự, thủ tục tiến hành các bước điều tra Xem các hoạt
động trên có đúng theo các quy định của pháp luật hay không; có đạt hiệu quả hay không.
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra xem có đúng trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật tố tụng hay không, nhất là có đúng với hướng dẫn liên ngành của Bộ
Công an và VKSNDTC hay không. Để từ đó thực hiện tốt quyền công tố như quy định
tại Điều 112 BLTTHS năm 2003.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng.
Những người tiến hành tố tụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra,
điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh
án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án nhân dân.

Những người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng,

người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định, người phiên
dịch.
- Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra như: sử dụng các biện pháp nghiệp vụ sai mục đích; để quá hạn thời hạn điều tra, bức
cung, nhục hình; vi phạm chế độ giam, giữ… Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý
nghiêm minh điều tra viên, cán bộ điều tra đã vi phạm pháp luật khi tiến hành điều tra,
tùy theo tính chất mức độ của vi phạm mà VKS có thể kiến nghị thủ trưởng cơ quan điều
tra có những hình thức kỷ luật phù hợp; nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu
tội phạm thì lập hồ sơ xử lý về mặt hình sự.
- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật. Thông qua kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử VKS phát
hiện những sơ hở, thiếu sót; những sơ hở đó có thể là nguyên nhân của tội phạm để các
cơ quan, tổ chức có những biện pháp chủ động ngăn ngừa vi phạm và tội phạm. Đây là
nhiệm vụ thường xuyên và có hiệu quả của ngành kiểm sát nhân dân.
VKSND thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án ma tuý thì đó cũng chính là chức năng của VKSND
trong quá trình thực hành quyền công tố các vụ án hình sự nói chung, đối với án ma tuý nói
riêng được pháp luật qui định; Đó là sự thể hiện việc thực hiện quyền lực nhà nước trong
suốt quá trỡnh tố tụng. Cỏc yờu cầu và quyết định của VKSND bắt buộc cơ quan nhà nước,
tổ chức xó hội hoặc cụng dõn phải chấp hành và thực hiện theo đúng qui định của pháp luật.
1.1.4. Vai trũ thực hành quyền cụng tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với
án ma tuý
Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với án ma tuý có vai trò
và nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN; bảo vệ quyền làm
chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm mọi hành vi vi phạm tới lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý
theo pháp luật.

×