Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính của Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.43 MB, 89 trang )






LUẬN VĂN:

Hoàn thiện quản lý tài chính của
Bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh











Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng có vai trò rất quan
trọng trong việc hỗ trợ các thành viên trong xã hội trước những rủi ro do những cú sốc vĩ
mô, cả những cú sốc về kinh tế và cú sốc về tự nhiên, gây ra. Do đó, BHXH và an sinh xã
hội là những lĩnh vực được chính phủ các quốc gia trên thế giới rất quan tâm. Chính sách
BHXH luôn được coi là một trong những công cụ quan trọng được chính phủ sử dụng
nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
ở Việt Nam, ngay từ khi giành được độc lập, Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
mới ra đời, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú trọng tới việc thực hiện chính sách
BHXH đối với người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.


BHXH Hà Tĩnh là một bộ phận cấu thành BHXH Việt Nam. BHXH Hà Tĩnh có
chức năng trực tiếp thực hiện các chế độ chính sách BHXH của Nhà nước đối với người
lao động trên địa bàn Hà Tĩnh. Trong những năm qua, BHXH Hà Tĩnh đã đạt được
những kết quả quan trọng. Số đơn vị sử dụng lao động và số người lao động tham gia
BHXH không ngừng tăng lên. Nguồn thu BHXH cũng gia tăng liên tục và là điều kiện
hết sức quan trọng để thực hiện các chế độ BHXH, hỗ trợ tích cực cho người lao động
trước những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, mất sức lao động, giảm thu nhập do hết
tuổi lao động Các chế độ BHXH của người lao động được thực hiện khá tốt. Những
thành công đó bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng
từ sự đổi mới quản lý BHXH, đổi mới quản lý tài chính của ngành BHXH Hà Tĩnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công quan trọng đó, quản lý BHXH nói chung
và quản lý tài chính BHXH nói riêng ở Hà Tĩnh còn có những hạn chế, cần được khắc
phục trong thời gian tới. Tình trạng nợ đọng kéo dài với số lượng lớn tiền đóng BHXH
của các đơn vị sử dụng lao động đã tồn tại trong thời gian dài nhưng vẫn chưa được khắc
phục. Cơ quan BHXH chưa kiểm soát hết số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc.
Nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn gian lận trong việc đăng ký tham gia BHXH cho
người lao động, gian lận trong việc kê khai quỹ lương đóng BHXH, Do đó, quyền lợi
của người lao động bị vi phạm. Quản lý chi các chế độ cho người hưởng BHXH vẫn còn
nhiều vấn đề phải khắc phục. Việc sử dụng kinh phí cho hoạt động trong cơ quan BHXH

chưa thật sự hiệu quả. Đây là những khó khăn lớn đối với quản lý tài chính của BHXH
Hà Tĩnh trong nhiều năm qua cần được giải quyết, bảo đảm cho người lao động được
tham gia BHXH và thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH thuận lợi hơn.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần có sự nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn
đề quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện quản lý tài
chính của BHXH Hà Tĩnh, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Hà
Tĩnh trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào nền kinh tế thế giới. Chính vì lẽ đó, tôi chọn vấn đề " Hoàn thiện quản lý tài
chớnh của Bảo hiểm xó hội Hà Tĩnh " làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có mong muốn và hy vọng đóng góp một phần

vào quá trình nghiên cứu chung đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của
BHXH Hà Tĩnh, bảo đảm thực hiện tốt hơn chính sách BHXH của Nhà nước trên địa bàn
Hà Tĩnh, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Tĩnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, hoạt động BHXH ở nước ta đã được tổ chức thực hiện theo
cơ chế mới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BHXH nói chung, tài
chính BHXH nói riêng. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- TS. Nguyễn Văn Châu (chủ nhiệm đề tài - 1996): "Thực trạng quản lý thu BHXH
hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thu".
- TS. Nguyễn Huy Ban (chủ nhiệm đề tài - 1999): "Chiến lược phát triển BHXH
phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020".
- Đỗ Văn Sinh (2005): “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án Tiến
sĩ kinh tế.
- Trần Quốc Toàn (năm 1999): “Quản lý tài chính BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ
An", Luận văn thạc sĩ kinh tế.
Với nhiều góc độ khác nhau, từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, các đề tài trên đã đề cập đến các lĩnh vực hoạt động của BHXH. Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ về "Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nâng cao
hiệu quả công tác thu" của TS. Nguyễn Văn Châu đã nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm
quản lý thu BHXH của một số nước trên thế giới, tổng kết đánh giá thực tiễn hoạt động

quản lý thu BHXH của Việt Nam giai đoạn trước năm 1995 và những năm đầu khi
BHXH Việt Nam mới thành lập và đi vào hoạt động từ 1995 đến 1996. Tác giả đã đưa ra
một số khuyến nghị để đổi mới nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở Việt Nam. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về "Chiến lược phát triển BHXH phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020" của TS. Nguyễn Huy Ban đã nghiên cứu mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển BHXH, việc thực hiện BHXH ở một số nước
trên thế giới và thực trạng chính sách BHXH ở Việt Nam, tác giả đã đưa ra những định
hướng cơ bản để phát triển BHXH ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh
nghiên cứu vấn đề quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, phân tích, đánh giá thực trạng quản

lý quỹ BHXH ở Việt Nam, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ
ở Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Toàn nghiên cứu về thực trạng quản
lý tài chính ở Nghệ An và đưa ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp tăng cường
quản lý tài chính BHXH ở Nghệ An.
Với nhiều góc độ khác nhau từ cách tiếp cận, mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, các đề tài trên đã đề cập đến một số lĩnh vực hoạt động của BHXH và có những liên
quan nhất định đến quản lý tài chính BHXH. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu này được
thực hiện khi chưa có Luật BHXH và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống đến công tác quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh. Để thực hiện đề tài, tác giả đã
đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, từ đó đề xuất các giải
pháp và kiến nghị của mình nhằm hoàn thiện quản lý tài chính phù hợp với đặc thù của
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Mục đích của đề tài là góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý
tài chính BHXH, đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh và đề xuất các
giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh.
Thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và phân tích rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH, quản lý tài chính
BHXH.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh.

- Đề xuất các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh,
đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý tài chính BHXH.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ nghiên cứu về quản lý tài chính của BHXH Hà
Tĩnh (ở cấp tỉnh). Do vậy, quản lý tài chính BHXH được nghiên cứu ở đây gồm quản lý
thu BHXH, quản lý chi BHXH và quản lý chi cho hoạt động trong cơ quan BHXH. Các
nội dung khác của quản lý tài chính BHXH như quản lý quỹ BHXH, quản lý hoạt động
đầu tư và tăng trưởng quỹ BHXH không đề cập đến trong đề tài này.

Về thời gian, đề tài nghiên cứu quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh từ năm 1995
đến nay. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu ở giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu được cập
nhật đến năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn,
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê phân
tích, đánh giá trên cơ sở các báo cáo tổng hợp, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt
động BHXH Hà Tĩnh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về
BHXH và quản lý tài chính BHXH.
- Làm rõ nội dung quản lý tài chính BHXH.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh, chỉ rõ các kết quả,
hạn chế và những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính BHXH Hà Tĩnh
trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 08 tiết.





Chương 1
khái quát về bảo hiểm xã hội
và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội


1.1. khái quát chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
BHXH là một hoạt động đã xuất hiện từ rất lâu. Ngay từ thế kỷ 13, BHXH đã có
những mầm mống đầu tiên trên thế giới. Đến thế kỷ 19, đạo luật đầu tiên về BHXH xuất
hiện ở Đức. Trong quá trình phát triển, các chế độ BHXH và đối tượng BHXH ngày càng
được mở rộng. Theo đó, khái niệm BHXH cũng có nhiều thay đổi và ngày càng được
hoàn chỉnh.
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và cũng có rất nhiều
khái niệm BHXH được đưa ra.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra một định nghĩa về BHXH được chấp
nhận rộng rãi nhất.
BHXH là hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình
thông qua nhiều biện pháp công nhằm tránh tình trạng khốn khó về mặt kinh tế và
xẫ hội do bị mất hoặc giảm đáng kể thu nhập vì bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động,
mất sức lao động và tử vong; chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ
(ILO, 1984) [44, tr.13].
Khái niệm BHXH này giống khái niệm BHXH của Việt Nam.
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người
lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở
một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ
của Nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [45].
Khái niệm BHXH còn được ghi rõ trong Luật BHXH, được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/6/2006, như sau: “BHXH là
sự sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị

giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [49, tr.10].
Như vậy, BHXH được coi là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập

trung được dồn tích từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động, theo
quy định của pháp luật, nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết những nhu cầu sinh sống thiết
yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp những rủi ro dẫn đến việc giảm hoặc
mất khả năng thanh toán từ thu nhập theo lao động. Đó là xét theo góc độ kinh tế. BHXH
còn có thể xét dưới góc độ xã hội hay góc độ pháp lý.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được coi là sự liên kết của những người lao động xuất
phát từ lợi ích chung của xã hội, của người lao động và người sử dụng lao động. Khi
tham gia quan hệ này, người lao động sẽ được hưởng một khoản trợ cấp nhất định nếu có
những biến cố rủi ro, trên cơ sở sự đóng góp của các bên.
Dưới góc độ pháp lý, BHXH được tiếp cận như trong Luật BHXH Việt Nam đã
xác định.
Nghiên cứu về BHXH, chúng ta có thể thấy có nhiều tác giả nước ngoài cũng đã
đưa ra các định nghĩa khác về BHXH hoặc bảo trợ xã hội, áp dụng riêng cho các điều
kiện ở các nước đang phát triển. Các tác giả này có chung một quan điểm là BHXH
không chỉ dừng ở việc mất đột ngột thu nhập theo dự kiến mà còn tính đến cả việc ngăn
chặn và giảm nghèo kinh niên và mang lại mức sống tối thiểu.
Cách tiếp cận BHXH mà mỗi nước lựa chọn còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính
sách quốc gia và điều kiện cơ cấu cụ thể của nền kinh tế.
Mặc dù khái niệm BHXH của Việt Nam được xác định trong từ điển Bách khoa
toàn thư Việt Nam cũng tương tự khái niệm BHXH mà ILO đưa ra, nhưng thực tế trong
quá trình thảo luận, xây dựng chính sách, cũng có nhiều định nghĩa BHXH khác do các tổ
chức quốc tế và trong nước đưa ra, đề cập đến các mặt khác nhau của BHXH ở Việt
Nam.
Trong đó, có nhiều định nghĩa quá rộng hoặc quá chung không thể áp
dụng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Các định nghĩa khác nhau này phản
ánh không chỉ tầm nhìn khác nhau về phát triển BHXH ở Việt Nam mà còn
phản ánh cách diễn giải khác nhau đối với các kinh nghiệm quốc tế và ý nghĩa

của những kinh nghiệm đó đối với quá trình hoạch định chính sách quốc gia
[44, tr.13].

Tuy nhiên, kết quả đạt được của quá trình thảo luận về định nghĩa BHXH thích
hợp nhất ở Việt Nam được thể hiện ở bốn điểm. Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau
giữa chính sách BHXH và chính sách giảm nghèo. Thứ hai, cần xác định rõ các đối tượng
hưởng lợi dự định của các chương trình và chính sách này. Thứ ba, cần phải chú ý đến vai
trò thích hợp của Nhà nước trong việc cải cách các chương trình BHXH. Thứ tư, cần xem xét
tính chất tái phân phối của chính sách BHXH trong điều kiện các nước đang phát triển [44,
tr.13].
Khái niệm BHXH được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của luận văn này là khái
niệm BHXH đã được ghi trong Luật BHXH Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006.
Điểm cần nói thêm ở đay là cần phân biệt khái niệm BHXH và khái niệm an sinh
xã hội, phân biệt BHXH và bảo hiểm thương mại.
An sinh xã hội là một thuật ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935.
Theo đó, an sinh xã hội là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá nhân.
Đồng thời, tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài
năng đến tột độ.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng xác định:
An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn
về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm về thu nhập gây ra bởi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, bảo đảm
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con [46].
Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng hơn khái
niệm BHXH. Đây là một khái niệm “mở” nên có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực cuộc sống
của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng
cao chất lượng cuộc sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển của toàn
bộ xã hội.

Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên

của mình. Trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập đáng kể do
gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc
làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già cũng như các trường hợp bị thiên tai
địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình vì đã có những
hành động xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, BHXH là một trong nhiều nội dung của an sinh
xã hội.
ở Việt Nam, thuật ngữ an sinh xã hội được tiếp cận dưới nhiều tên gọi khác nhau
như bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an toàn xã hội.
Một điểm nữa, BHXH khác bảo hiểm thương mại như thế nào?
Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã
thoả thuận trước trên hợp đồng.
ở đây, có thể thấy BHXH và bảo hiểm thương mại về cơ bản giống nhau ở một số
điểm sau:
Thứ nhất, BHXH và bảo hiểm thương mại đều có chức năng bảo đảm bảo vệ con
người, khắc phục, hạn chế tổn thất về thu nhập khi có rủi ro xảy ra đối với ngưòi tham gia
đóng bảo hiểm.
Thứ hai, nguyên tắc hưởng BHXH và bảo hiểm thương mại đều dựa trên cơ sở đóng
góp của người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, quỹ BHXH và bảo hiểm thương mại đều được sử dụng để chi trả bồi thường
cho người tham gia bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra đối với họ.
Tuy nhiên, BHXH và bảo hiểm thương mại có những điểm khác nhau:
Một là, BHXH là một hoạt động mang tính chất xã hội phi lợi nhuận, phục vụ lợi
ích của người lao động và của cả cộng đồng. Trong khi đó, bảo hiểm thương mại là hoạt
động kinh doanh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Trong bảo hiểm thương mại, người được

hưởng lợi bao gồm cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng - những người mua bảo

hiểm.
Hai là, BHXH là một hoạt động thoả thuận và không thoả thuận. Điều đó có nghĩa
là trong BHXH có cả bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Trong bảo hiểm thương
mại chỉ có bảo hiểm tự nguyện.
Ba là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi, toàn
xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng “có
giới hạn”, một “nhóm đóng bảo hiểm”.
Bốn là, BHXH chỉ bảo đảm cho các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại
cung cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho các rủi ro tài sản và trách nhiệm
dân sự.
Năm là, sự tương hỗ trong BHXH được thực hiện trong một cộng đồng rộng rãi,
toàn xã hội. Sự tương hỗ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một cộng đồng
“có giới hạn “, một “ nhóm đóng bảo hiểm “.
Sáu là, BHXH chỉ bảo đảm các rủi ro bản thân, trong khi bảo hiểm thương mại cung
cấp dịch vụ bảo đảm cho các rủi ro bản thân và cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân
sự.
1.1.2. Bản chất bảo hiểm xã hội
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào,
nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người
trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng để quản lý xã hội, Nhà nước phải can
thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đặc biệt là để giải
quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện
những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho
giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau,
tai nạn, trả lương khi người lao động đến tuổi hưu, đồng thời bản thân người lao động
cũng phải có trách nhiệm giành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có
những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi là một người chủ sử dụng lao động của
mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng góp của người sử dụng lao động và
người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ


gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo
đảm đời sống cơ bản cho người lao động.
Như vậy BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một nhu cầu khách quan. Nền kinh
tế hàng hoá càng phát triển thì càng đòi hỏi sự phát triển và đa dạng của BHXH. Nền
kinh tế hàng hoá phát triển là nền tảng, cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ
sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban
hành các chế độ chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm
vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có
trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình của họ
được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy
định.
Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia
BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau. Phân phối trong BHXH vừa mang
tính chất bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. những biến cố xảy ra mang tính tất
nhiên đối với con người là thai sản, tuổi già và chết, trong trường hợp này BHXH phân
phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ
cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, là sự phân phối mang tính không bồi hoàn, có nghĩa là chỉ khi
nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…
thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng lấy số đông bù cho số ít, tức là dùng
số tiền đóng góp nhỏ của số đông người tham gia BHXH để bù đắp chia sẻ cho một số ít
người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp từng người, khi họ gặp phải những biến cố
rủi ro tổn thất.
Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao, lấy hiệu
quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức, triển khai thực
hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người
lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp
vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động; giải quyết các chế độ,


chính sách và chi BHXH cho người được hưởng, quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự ngiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục
vụ cho mọi thành viên trong xã hôi, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động
BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của con người,
được thể hiện trên các mặt sau:
Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an
toàn xã hội. Người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi
họ bị suy giảm mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Việc thay đổi hoặc bù đắp
chắc chắn sẽ xảy ra với mọi người lao động tham gia BHXH đến khi họ hết tuổi lao động
được hưởng lương hưu hoặc khi họ chết (được hưởng tiền tuất mai táng phí). Việc bù đắp
cũng chỉ xảy ra đối với một số người với một số chế độ BHXH còn lại như ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm… Nhờ có sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động nhanh chóng khắc phục được những
tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao
động, hoạt động bình thường của bản thân. Đây là vai trò cơ bản nhất của BHXH, nó
quyết định nhiệm vụ, tính chất và phương thức hoạt động của BHXH.
Hai là, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự
chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập
cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chuyển dịch
thu nhập của người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu,
gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH
góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Ba là, BHXH góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản
xuất và đời sống xã hội của con người. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp ngăn
ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị, tổ chức kinh tế đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn
lao động, về vệ sinh công nghiệp bắt buộc mọi người lao động phải tuân thủ. Quỹ BHXH
kịp thời hỗ trợ cho người lao động được nghỉ ngơi, điều dưỡng để nâng cao sức khoẻ.


Bốn là, BHXH làm cho mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động
và Nhà nước ngày càng gắn bó. Thông qua hoạt động của BHXH người lao động có trách
nhiệm hơn trong công việc, họ tích cực lao động, tạo ra năng suất lao động cao hơn. Bởi
vì chính người sử dụng lao động đã tham gia đóng góp BHXH để người lao động được
hưởng thì tạo ra một niềm tin yêu của người lao động đối với người sử dụng lao động,
khuyến khích người lao động phấn khởi, yên tâm, nhiệt tình trong công tác, gắn bó với
người sử dụng lao động hết đời này sang đời khác. Đối với Nhà nước thông qua việc tổ
chức hoạt động BHXH đã đảm bảo cho người lao động mọi tổ chức, mọi đơn vị bình
đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong đời sống xã hội, góp phần
làm cho sản xuất ổn định, nền kinh tế, chính trị và xã hội phát triển và an toàn.
Năm là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế phát sinh
trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung, quỹ được hình thành từ sự đóng
góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước, quỹ được sử
dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, một phần dùng để
chi quản lý sự nghiệp BHXH.
Hầu hết các nước trên thế giới đều thiết kế mô hình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH
theo nguyên tắc dồn tích và có tính chuyển dịch thu nhập giữa mọi người tham gia
BHXH và qua các thế hệ. Một số ít nước thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi". Do
tính chất hoạt động của bảo hiểm là các biến cố rủi ro phát sinh không đều về thời gian.
Vì vậy ngay trong mô hình quỹ được thiết kế theo nguyên tắc "tọa thu, tọa chi" thì trong
khoảng thời gian nhất định, quỹ BHXH thiết kế theo theo nguyên tắc dồn tích thì luôn
luôn có số dư tạm thời nhàn rỗi rất lớn. Đây chính là một nguồn vốn trong nước rất quan
trọng được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là
sự tiết kiệm tạm thời trong chi tiêu tạo ra được một nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế
của đất nước. Nguồn vốn này càng trở nên rất quan trọng đối với những nước đang thiếu
nguồn vốn đầu tư, đặc biệt nguồn vốn trong nước mà nguồn vốn là một trong những yếu
tố quan trọng của sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Điều kiện quan trọng của người lao động được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi về
BHXH, ngoài việc người lao động phải đóng góp thì người sử dụng lao động cũng phải

đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH. Điều đó đã làm cho người lao động gắn bó với người

sử dụng lao động, làm cho quá trình sản xuất được ổn định, bền vững, có năng suất cao
hơn. Mặt khác khi chính sách BHXH được áp dụng đối với người lao động sẽ tạo ra được
một thị trường lao động xã hội hợp lý, có hiệu quả, tạo ra được một thị trường lao động
năng động. Bởi vì người lao động có thể làm việc ở bất cứ đơn vị nào, thuộc mọi thành
phần kinh tế, mọi loại hình sở hữu thì họ vẫn được quyền tham gia và hưởng thụ tất cả
mọi chế độ về BHXH. Chính điều đó tạo điều kiện người lao động và người sử dụng lao
động được tự do thỏa thuận về điều kiện làm việc phù hợp với nhu cầu trình độ, nghề
nghiệp, tay nghề, thu nhập với từng người lao động. Đó là những yếu tố quan trọng vừa
để khai thác, sử dụng triệt để nguồn lực lao động, vừa để nâng cao hiệu suất công tác,
năng suất lao động, tiết kiệm chi phí xã hội (về đào tạo, các nguồn lực khác…) làm tăng
của cải vật chất và tăng tích luỹ cho nền kinh tế.
1.2. Quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính bảo hiểm xã hội
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Vận dụng khái niệm này vào lĩnh vực tài chính BHXH, chúng ta có thể xác định
khái niệm quản lý tài chính BHXH như sau:
“Quản lý tài chính BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý BHXH tới lĩnh vực
tài chính BHXH nhằm đạt mục tiêu trong một thời kỳ nhất định".
Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý tài chính BHXH là cơ quan BHXH
các cấp từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định 19/CP, ngày 16/02/1995 của
Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở Trung ương là
BHXH Việt Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Đối tượng quản lý ở đây là lĩnh vực tài chính BHXH, bao gồm năm lĩnh vực. Một
là, toàn bộ sự vận động của quỹ BHXH nói chung; hai là, các hoạt động tài chính về thu
BHXH; ba là, các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH; bốn là, các hoạt động tài
chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị, tăng trưởng quỹ BHXH và sử dụng lợi nhuận

phát sinh từ những hoạt động đó; năm là, hoạt động tài chính trong các cơ quan BHXH.

Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất trong toàn hệ thống, hạch toán độc
lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà nước bảo hộ. Toàn bộ tiền thu BHXH và một
số nguồn thu khác như các khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư… đều được hình thành
quỹ BHXH tập trung. Khi đó nhu cầu về chi, tất cả các khoản chi (bao gồm chi BHXH,
chi cho quản lý bộ máy, chi đào tạo, chi đầu tư, chi các chương trình) được cấp phát và
quản lý thống nhất từ quỹ BHXH [7], phải đảm bảo nguyên tắc thu lớn hơn chi, đảm bảo
cho sự tồn tại của quỹ BHXH. Nói chung, những hệ thống BHXH nhận được đóng góp
của cả người tham gia BHXH và chủ sử dụng lao động của họ. Thu nhập có thể cũng
được trích ra từ những khoản thuế đặc biệt để hỗ trợ cho hệ thống BHXH. Các đóng góp
cho một hệ thống BHXH có thể là một mức thống nhất hoặc có thể là những mức phụ
thuộc vào tiền lương và tiền công. Một nguồn thu nhập khác là những khoản phạt đối với
các chủ sử dụng lao động đã không tuân thủ các quy định của hệ thống BHXH. Lý tưởng
nhất là không tồn tại loại thu nhập này. Bên cạnh các khoản thu trên, quỹ BHXH cần
thiết phải được bổ sung bởi kết quả của những hoạt động đầu tư tài chính, có như vậy quỹ
BHXH mới đảm bảo nguồn tài chính chi trả cho các đối tượng trong điều kiện ảnh hưởng
của lạm phát.
Quản lý các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý đối
tượng hưởng các chế độ và quản lý lưu chuyển tiền trong quá trình thực hiện chi trả các
chế độ BHXH với quan điểm tiền phải được chi trả trực tiếp đến tận tay đối tượng được
hưởng.
Khi xem xét tài chính BHXH, bên cạnh quản lý thu, quản lý chi, vấn đề quan trọng
là xác định tỷ lệ đóng góp và tỷ lệ hưởng thụ. Đóng góp của người lao động cho BHXH
tạo ra sự giảm sút trong các thu nhập có thể tiêu dùng của họ và những phúc lợi được trả
định kỳ sẽ thay thế ít nhất một phần các thu nhập này. Sự giảm sút trong thu nhập có thể
chi tiêu dẫn đến sự giảm sút mức chi tiêu theo ý muốn và đặc biệt làm giảm cầu về những
mặt hàng cao cấp và bán cao cấp. Cầu bị giảm đi có thể có tác dụng làm dịu sự lạm phát.
ở một số nước, người ta đã sử dụng việc tăng mức đóng góp BHXH để đạt được mục tiêu
này. Việc bù đắp thu nhập bằng những phúc lợi định kỳ cho phép người lao động và

những người ăn theo họ trụ lại được trong những tình huống khó khăn bất ngờ (như ốm
đau, hưu trí) cho phép hưởng phúc lợi. Nói cách khác, việc chi trả phúc lợi định kỳ cho

phép họ duy trì việc tiêu dùng của họ, mặc dù là ở mức độ hạn chế (nếu chi trả một cục,
thường bị sử dụng - ít nhất là một phần - cho một sự tiêu dùng gia tăng một lần). Tác
dụng của việc chi trả định kỳ là góp phần ổn định suốt đời (thông qua các giai đoạn ốm
đau và nghỉ hưu) mức tiêu dùng của người lao động và những người ăn theo họ. Chương
trình BHXH dựa trên hệ thống tài chính thu bao nhiêu chi bấy nhiêu, điều tiết khoản thu
nhập phải đóng BHXH bằng cách chuyển nó cho các hộ gia đình nơi thu nhập thấp của
người chủ hộ bị đình lại do xẩy ra một sự kiện bất ngờ mà hệ thống phải bảo hiểm.
Những hệ thống như vậy sẽ giúp duy trì cầu và mức tiêu dùng chung, đặc biệt nếu thất
nghiệp là một trong số những sự kiện được BHXH, và những phân tích kinh tế về ảnh
hưởng của chúng phải tính đến cả hai: đóng góp và hưởng lợi, vấn đề đặt ra là phải xác
định đúng đắn mức đóng và mức thụ hưởng.
Tuy nhiên, với tư cách là một quỹ tài chính tập trung, là một trung gian tài chính vô
vi lợi [8], BHXH không thể chỉ chờ đợi vào cân đối giữa đóng góp của các bên tham gia
BHXH và hưởng lợi các đối tượng hưởng thụ. Tài chính BHXH cần phải bao gồm các
hoạt động tài chính liên quan đến việc bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH và sử
dụng lợi nhuận phát sinh từ những hoạt động đó. Các biện pháp đầu tư thực hiện bảo toàn
giá trị và tăng trưởng quỹ giá trị và có hiệu quả kinh tế - xã hội. Tác động tiềm tàng về
tiền tệ và tài khoá của việc đầu tư BHXH (và đặc biệt là của việc đầu tư hay phân bổ đầu
tư) có nghĩa là việc đầu tư phải được điều phối không mâu thuẫn với chính sách của
Chính phủ. Theo cách này, quỹ dự phòng BHXH có thể được sử dụng tốt nhất để góp
phần tăng trưởng kinh tế. ở đây nhất thiết không được có sự xung khắc giữa yêu cầu đầu
tư của hệ thống BHXH và những mục tiêu tạo vốn trong nước của một quốc gia. Có thể
xây dựng một chính sách đầu tư đáp ứng được cả hai điều kiện này. Những khoản dự trữ
sẽ được tích luỹ để tạo ra thu nhập đầu tư, sẽ cho phép hạ thấp mức đóng góp và chúng
cần được đầu tư vào những dự án đem lại sự tăng trưởng kinh tế thực sự và tăng năng
suất. Ví dụ, theo hình thức tăng lãi trực tiếp của các doanh nghiệp hay lãi gián tiếp do cải
thiện cơ sở hạ tầng (như liên lạc viễn thông, đường sá hay các cơ sở chăm sóc y tế). Tuy

nhiên, nếu quỹ dự trữ được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để đáp ứng chi tiêu hiện tại
của Chính phủ như hiện nay ở nước ta, thì chắc chắn sẽ không có được mức lãi khả quan
cho quỹ BHXH. Sự kiểm soát của Chính phủ về đầu tư quỹ BHXH không có nghĩa là

phải sử dụng chúng một cách có hệ thống để bù đắp thiếu hụt ngân sách của Chính phủ.
Khi được sử dụng như vậy thì hệ thống BHXH phải được trả lãi theo lãi suất thị trường.
Lý tưởng nhất là quỹ được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng dài hạn có hiệu quả xã
hội cao và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Đối tượng quản lý tài chính BHXH được phân tích trên đây là đối tượng quản lý của
cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương. ở cấp tỉnh, đối tượng quản lý tài chính BHXH
chỉ gồm các hoạt động tài chính về thu BHXH, các hoạt động tài chính về chi chế độ
BHXH và các hoạt động chi cho hoạt động của cơ quan BHXH.
Sơ đồ 1.1 cho thấy hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH.
Sơ đồ 1.1: Hoạt động thu chi quỹ trong hệ thống BHXH



















1.2.2. Nội dung quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh
1.2.2.1. Quản lý thu bảo hiểm xã hội
Đóng góp của
chủ sử dụng
lao đ
ộng

Đóng góp người
tham gia BHXH
Ph
ạt

Hỗ trợ từ Nhà

ớc

Thu nhập từ
đ
ầu t
ư

Quỹ BHXH Tài sản đầu


chi tr
ả BHXH

chi qu

ản lý

phí đầu tư

Trợ cấp ngắn
hạn
* ốm đau
* Thai sản
* Dưỡng sức
* Một lần
* Lần đầu
* Mai táng phí

Trợ cấp dài
hạn
* Hưu trí
* Mất sức lao
động
* T
ử tuất


* Xây dựng kế hoạch thu BHXH
Thu BHXH là nguồn cơ bản hình thành quỹ BHXH, để thực hiện tốt công tác thu
BHXH cần phải xây dựng kế hoạch thu BHXH rõ ràng, cụ thể và sát với thực tế lao động
và quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương; trên
cơ sở tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia BHXH và tình hình phát triển kinh tế xã
hội để xác định số phải thu. Cơ sở xác định tổng số phải thu của kế hoạch thu chủ yếu là
tổng số lao động, tổng quỹ lương tham gia đóng BHXH và dự báo tình hình phát triển
kinh tế xã hội. Sau khi xây dựng được kế hoạch thu BHXH, cơ quan BHXH trình dự toán

thu BHXH với cơ quan quản lý có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở dự toán được phê
duyệt cơ quan BHXH phân bổ cho các đơn vị cấp dưới triển khai thực hiện theo kế hoạch
năm.
Việc tổng hợp theo dõi đối tượng tham gia BHXH, theo Luật BHXH thì các đối
tượng phải tham gia BHXH bắt buộc và phải đóng BHXH bao gồm cả người sử dụng lao
động và bản thân người lao động (kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công
tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ
quan và đơn vị) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế - xã hội dưới đây:
- Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, kể cả các doanh
nghiệp thuộc lực lượng vũ trang;
- Các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác;
- Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật;
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã;
- Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng
và trả công cho người lao động;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Mức đóng BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia
BHXH được quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ được thực

hiện từ năm 1995 đến 2006 là người người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền
lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, người lao động
đóng bằng 5% tiền lương tháng. Mức đóng BHXH do Luật BHXH, được Quốc hội nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, quy
định, theo đó, từ năm 2007 đến năm 2010, người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ
tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH. Từ năm 2010
trở đi, cứ hai năm một lần, đơn vị sử dụng lao động phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt

mức đóng là 18%. Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng. Từ năm 2010 trở đi,
cứ hai năm một lần, họ phải đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và các đơn vị sử dụng lao động.
Trong cơ chế thị trường, các đơn vị sử dụng lao động thường không tự giác tham gia
BHXH cho người lao động. Họ tìm cách né tránh hoặc gian lận. Việc quản lý chặt chẽ
buộc chủ sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ số liệu về lao động, quỹ lương. Đóng
đầy đủ BHXH là vấn đề rất quan trọng, vì đây là cơ sở để quỹ BHXH có nguồn lực tài
chính chi trả chế độ cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội. Để thuận lợi cho việc
quản lý, theo dõi quá trình tham gia BHXH, căn cứ vào đặc điểm, tính chất, hình thức
hoạt động của các đơn vị sử dụng lao động, người ta thường phân loại theo khối để quản
lý. Có nhiều cách phân loại, nhưng phổ biến là phân theo các khối sau:
+ Khối doanh nghiệp Nhà nước.
+ Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Khối hành chính sự nghiệp.
+ Khối Đảng, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Khối xã, phường, thị trấn.
+ Khối Hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể.
Bên cạnh đó, cơ quan BHXH phải thường xuyên thống kê, theo dõi, kiểm tra sự biến
động của các đơn vị sử dụng lao động và người lao động trong suốt quá trình hoạt động của
từng đơn vị; liên hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý trên địa bàn để khai thác triệt để các
đơn vị và người tham gia BHXH.

Về quản lý quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, mức đóng BHXH và quỹ
lương là cơ sở quan trọng để tính số thu BHXH. Nếu việc xác định mức đóng không
chính xác sẽ dẫn đến thu không đúng, không đủ số phải thu BHXH. Mức đóng của chủ sử
dụng lao động và người lao động được tính trên cơ sở trích một tỷ lệ nhất định của tổng
quỹ tiền lương. Để xác định mức đóng BHXH cơ quan BHXH phải theo dõi, kiểm tra
chặt chẽ diễn biến tiền công, tiền lương của từng cá nhân lao động trong các doanh
nghiệp, đối chiếu tổng quỹ lương hàng tháng để tính số tiền phải nộp BHXH.

Mức thu BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động tham gia
BHXH, theo điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của
Chính phủ được thực hiện từ năm 1995 đến năm 2007 là người sử dụng lao động đóng
15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH,
người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng.
Theo quy định hiện hành thì tiền lương của người lao động và quỹ tiền lương của
cơ quan, đơn vị được xác định căn cứ vào từng người lao động ở từng khu vực công tác,
theo các mức đóng khác nhau, cụ thể là:
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đảng, đoàn thể, hội quần
chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao
động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQHK11,
ngày 30/9/2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chức vụ,
bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo của Nhà nước bảng lương chuyên môn,
nghiệp vụ ngành Toà án, ngành kiểm sát; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004
của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức cơ quan đảng, mặt trận và các đoàn thể; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004
của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang; Nghị định số 204/CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định về hệ thống thang
lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các Công ty Nhà nước.
- Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký hợp đồng lao động thì đóng BHXH
tính trên tổng quỹ tiền lương hàng tháng, bao gồm lương theo hợp đồng đã ký kết với
người lao động có tham gia BHXH theo quy định và lương của người giữ chức vụ không
áp dụng chế độ hợp đồng lao động.

- Riêng Bộ quốc phòng, Bộ công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của
những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân
đóng bằng 5% mức lương tháng.
- Đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu người lao động
đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15% mức lương tháng đã đã
đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao động chưa tham gia BHXH ở trong

nước thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công
nhân viên chức trong nước.
* Tổ chức thực hiện thu BHXH
Đặc điểm của thu BHXH là số tiền thu rất lớn và của nhiều đối tượng khác nhau,
với nhiều hình thức như thu bằng tiền mặt, chuyển khoản, séc, uỷ nhiệm chi. Do vậy, hệ
thống BHXH phải thực hiện công tác hạch toán kế toán, thống kê, báo cáo và kiểm tra
toàn bộ số tiền thu BHXH theo đúng quy định của pháp luật, quản lý chặt chẽ đúng
nguyên tắc tài chính. Cơ quan BHXH phải phối hợp với hệ thống ngân hàng, kho bạc để
tổ chức thu BHXH. Khi các đơn vị sử dụng lao động nộp tiền BHXH vào ngân hàng, kho
bạc huyện, BHXH huyện phải chuyển toàn bộ số tiền đó vào tài khoản chuyên thu BHXH
của ngân hàng, kho bạc tỉnh. Định kỳ hàng tháng, ngân hàng, kho bạc, cơ quan BHXH
tỉnh phải chuyển số tiền thu BHXH lên tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Trung
ương. BHXH cấp huyện, tỉnh không được phép sử dụng tiền thu BHXH vào các mục
đích khác.
* Tổ chức kiểm tra thu BHXH
Kiểm tra thu BHXH nhằm rà soát, chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, đôn đốc thu
và phát hiện những bất cập trong quá trình quản lý. Theo pháp luật quy định, cơ quan
BHXH được quyền kiểm tra việc chấp hành thu BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động
được phân cấp thu và cơ quan BHXH cấp dưới trong việc thực hiện thu BHXH. Trên cơ
sở đó, cơ quan BHXH đưa ra những kiến nghị để các đơn vị sử dụng lao động và cơ quan
BHXH cấp dưới thực hiện đúng các quy định về thu BHXH và có các biện pháp thích
hợp, kịp thời xử lý các bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện thu BHXH. Đối với
những trường hợp có sai phạm lớn, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy
định của pháp luật.

Các phương thức kiểm tra hoạt động của BHXH gồm có: Kiểm tra của các cơ
quan quyền lực Nhà nước, kiểm tra chuyên ngành (gồm thanh tra nhân dân, kiểm tra của
tổ chức đảng, đoàn thể ). Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian kiểm
tra để có loại hình kiểm tra cho phù hợp: Theo thời gian thì có loại hình thường xuyên
hay định kỳ; kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm tra đột xuất; nếu theo phạm vi trách

nhiệm thì có kiểm tra nội bộ, kiểm tra của các cơ quan ngoài hệ thống theo quy định của
pháp luật (tổ chức thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra lao động ).
Nội dung kiểm tra thu BHXH gồm có hai nội dung:
- Kiểm tra việc chấp hành việc đóng, nộp BHXH tại đơn vị sử dụng lao động bao
gồm: Danh sách lao động tham gia BHXH; quỹ tiền lương tham gia BHXH; mức lương
của người lao động tham gia BHXH; thực hiện việc chuyển tiền nộp BHXH về cơ quan
BHXH.
- Kiểm tra việc thực hiện thu BHXH của cơ quan BHXH các cấp, bao gồm việc
quản lý lao động và quỹ lương tham gia BHXH của các đơn vị sử dụng lao động; chấp
hành quản lý và hạch toán tiền thu BHXH.
Cơ sở pháp lý để kiểm tra thu BHXH là:
- Luật BHXH và các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện [49].
- Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính
về hành vi vi phạm pháp luật lao động [31].
- Thông tư số 85/199/TT - BTC ngày 25/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy
chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam [22].
- Nghị định 113/2004/NĐ - CP ngày 16/4/2004 quy định xử phạt hành chính về
hành vi vi phạm pháp luật lao động [34].
- Nghị định 135/2007/NĐ - CP ngày 16/8/2007 quy định xử phạt hành chính trong
lĩnh vực BHXH [36].
1.2.2.2. Quản lý chi chế độ bảo hiểm xã hội
* Lập kế hoạch chi BHXH
Kế hoạch chi BHXH được xây dựng phải sát với nhu cầu chi ở từng địa phương
(tỉnh, huyện), đảm bảo đủ nguồn kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho người được

hưởng, tránh tồn đọng quá lớn trên các tài khoản ở BHXH tỉnh, huyện sẽ gây lãng phí
việc sử dụng vốn. Căn cứ để xây dựng kế hoạch chi hàng năm của BHXH các cấp đố là:
- Căn cứ vào đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH.
- Dự báo tăng giảm đối tượng hưởng BHXH trong năm đối với từng loại đối tượng
cụ thể.

- Dự báo tăng kinh phí chi trả BHXH do Nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu
hoặc thay đổi chính sách tiền lương cho người hưởng trợ cấp BHXH.
- Kế hoạch chi bộ máy căn cứ vào số lượng biên chế được giao, quỹ tiền lương
của cán bộ công chức viên chức; các chi phí chi hoạt động nghiệp vụ phục vụ thu chi
BHXH; chi đầu tư cơ sở vật chất nhu cầu mua sắm phương tiện phục vụ; nhu cầu xây
dựng sửa chữa cải tạo trụ sở phục vụ yêu cầu làm việc của cơ quan BHXH. Căn cứ để lập
dự toán là các quy định của Chính phủ, Bộ Tài Chính hướng dẫn quản lý tài chính đối với
BHXH.
Trên cơ sở xây dựng kế hoạch chi BHXH của các đơn vị dự toán, BHXH Việt
Nam kiểm tra và giao kế hoạch chi BHXH cho các cấp triển khai thực hiện.
* Tổ chức quản lý chi BHXH
Tổ chức quản lý chi BHXH gồm các nội dung sau:
Một là, quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Theo quy định hiện
hành, chế độ BHXH gồm có: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ
cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất.
Đối tượng hưởng các chế độ BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng
có thể là những người thân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ, chồng, con) trực tiếp
phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng
nhiều hay ít, tùy thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ
đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải. Điều
quan trọng nhất trong công tác quản lý chi BHXH là phải quản lý cụ thể, chính xác từng
đối tượng theo loại chế độ được hưởng và mức được hưởng, thời gian được hưởng của
họ.

Hai là, quản lý chi trả các chế độ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH phải phù
hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng
đối tượng, đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn.
Hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng đều bằng tiền mặt.
Khối lượng tiền mặt chi trả hàng tháng rất lớn, địa bàn chi trả rộng khắp các miền, vùng
trong cả tỉnh và đối tượng chi trả thường xuyên rất lớn, thời gian chi trả phải tập trung từ

1 đến 5 ngày trong tháng.
Có hai phương thức chi trả, đó là phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả
gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ
BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống BHXH chi
trả. Phương thức chi trả gián tiếp là việc chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH
được thực hiện bởi sử ủy quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao
động hoặc các đại diện pháp nhân thuộc ủy ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ thông
qua các đại lý chi trả.
Ba là, quản lý kinh phí chi BHXH. Để đạt được mục tiêu chi trả đầy đủ, kịp thời
cho các đối tưởng hưởng chế độ BHXH, một yêu cầu cần đặt ra là phải đảm bảo đủ
nguồn kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, đảm bảo được yêu cầu chi trả
các chế độ BHXH cho người được hưởng; tránh tồn đọng quá lớn tiền mặt trong chi trả.
Để có cơ sở quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả, BHXH các
huyện, Thành phố, Thị xã được mở các tài khoản chuyên chi BHXH ở hệ thống ngân
hàng. Các đơn vị chỉ được rút tiền từ các tài khoản trên để chi trả các chế độ BHXH,
không được sử dụng nguồn kinh phí này để chi trả cho bất kỳ một nội dung chi nào khác.
Nhờ đó mà BHXH tỉnh có thể kiểm tra, kiểm soát số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí
còn dư trên tài khoản của đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện.
* Kiểm tra thực hiện chi BHXH
Nội dung kiểm tra thực hiện chi BHXH gồm có:
- Kiểm tra việc giải quyết, thanh toán, chi trả các chế độ BHXH cho người được
thụ hưởng. Quá trình này liên quan trực tiếp đến người được thụ hưởng, đến cơ quan
BHXH và các cơ quan có liên quan như chủ sử dụng lao động, cơ quan giám định sức
khoẻ…

×