Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

BÁO CÁO KHOA HỌC : ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC RỈ MẬT KHÁC NHAU ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÚP NGỌN LÁ MÍA Ủ CHUA doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.7 KB, 8 trang )


NGUYỄN VĂN HẢI - Ảnh hưởng của các mức rỉ mật



1

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC RỈ MẬT KHÁC NHAU ĐẾN CHẤT LƯỢNG
BÚP NGỌN LÁ MÍA Ủ CHUA
Nguyễn Văn Hải
*
, Bùi Văn Chính và Nguyễn Hữu Tào
Viện Chăn Nuôi - Thụy Phương - Từ Liêm - Hà Nội
*
Tác giả liên hệ: Nguyễn Văn Hải
Tel. (04) 38.386.126 / 0982.390.383; Fax: (04) 38.389.775; Email:
ABSTRACT
Effect of different levels of sugarcane molasses on the quality of sugacane stalk silage
One study with two experiments, aimed at determining the effects of different levels of sugarcane molasses on
the quality of the sugacane stalk silage was conducted in 2003 at NIAS.
In the first experiment, the ensile sugarcane stalk (27.1% dry matter) was ensiled with molasses at levels of 0;
0.3; 0.6; 0.9; 1.2; 1.8 and 2.4% in glass cans. Three replicates for each level of molasses were used. pH value of
the silage was measured at days 30; 45 and 60
th
of ensiling and the chemical composition and organic acid
content were determined at day 60
th
of ensiling. The results showed that after 60 days of ensiling, the silage of
sugarcane stalk with 0.9% of molasses had similar crude protein and crude fibre contents (as dry matter basic) to
the fresh stalk. The pH and lactic acid content of the silage of sugarcane stalk with 0.9% molasseswere 4.2 and
1.5% respectively. It indicated that the silage of sugarcane stalk with 0.9% molasses was the best and can be


stored for long time.
In the second experiment, the ruminal degradability of silage with 0.9; 1.2; 1.8; 2.4% of molasses (fresh mattr
basis) and dried and fresh sugar cane stalk was determined in three fistulated laisind steers. The result showed
that the degradation rates of dry matter and organic matter of sugarcane stalk ensiled with 0.9; 1.2; 1.8 and 2.4%
molasses were lower than these of the fresh sugar cane stalk and higher than those of the dried sugarcane stalk.
Keywords: sugarcane stalk, silage, molasses, urea.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước có mật độ dân số cao, để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm ngày càng tăng
của xã hội chúng ta cần phát triển đàn gia súc, nhất là gia súc ăn cỏ vốn ít cạnh tranh về lương
thực với con người. Một nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là giải quyết nguồn thức ăn thô xanh
cho đàn gia súc.
Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc đưa ra các giống cỏ có năng suất và chất lượng cao thì
hướng nghiên cứu sử dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp tạo nguồn thức ăn giá thành rẻ cho
gia súc nhai lại đã và đang được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát
triển. Ở nước ta đã có những công trình nghiên cứu về sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, nhưng
việc nghiên cứu sử dụng về phụ phẩm mía đường còn ít.
Diện tích trồng mía của cả nước là 285,1 ngàn ha (Niên giám thống kê, 2007), nên nguồn phụ
phẩm mía gồm bã mía và búp ngọn lá mía (BNLM) - phần còn lại sau thu hoạch mía và lấy
ngọn để trồng) là tương đối lớn. Nguồn phụ phẩm này vẫn chưa được sử dụng một cách có
hiệu quả, trong thực tế chỉ một phần nhỏ BNLM cho ăn dạng tươi, còn phần lớn đốt trên đồng
ruộng làm phân bón. BNLM là nguyên liệu có thê ủ chua nhưng cần bổ sung them năng lượng
từ rỉ mật.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 16-Tháng 2-2009


2

Xuất phát từ lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài trên với mục tiêu tìm ra mức rỉ

mật hợp lý nhất trong chế biến BNLM bằng phương pháp lên men yếm khí làm thức ăn cho
gia súc nhai lại.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành năm 2003, tại Phòng thí nghiệm Bộ môn dinh dưỡng, thức ăn chăn nuôi
và đồng cỏ; Trung tâm Thực nghiệm và Bảo tồn vật nuôi; Trung tâm nghiên cứu bò và đồng
cỏ Ba Vì - Viện Chăn nuôi. Nguyên liệu sử dụng trong thí nghiệm là: BNLM, rỉ mật với thành
phần hóa học như trong Bảng 1
Bảng 1. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của BNLM và rỉ mật
(%) chất khô VCK

(%)

ME
Kcal/kg

Đường

T.số
(%)
Protein

Mỡ

Xơ DXKĐ

KTS

Ca P NDF


ADF

ADL

BNLM

27,1

541 1,85 7,56 2,58 38,01

44,33 10,7 0,44 0,18 64,58

34,32

4,91

Rỉ mật 70,0

2771
35,4
7,84 82,43

9,73

0,64

0,15
BNLM ở đây có độ ẩm rất thích hợp (72,9 %) cho ủ chua nhưng hàm lượng đường tổng số
(1,85%) hơi thấp. Vì độ ẩm và hàm lượng đường thích hợp nhất đối với cây thức ăn ủ chua là:
65 - 75% (Schmidt và Wetterau,1974; Ladan và Budenco, 1978; McDonald và cs., 1995) và

> 2% (Ladan và Budenco, 1978; Vũ Duy Giảng và cs., 1999).
Bố trí thí nghiệm và phương pháp nghiên cứu
Để tìm ra mức rỉ mật hợp lý nhất trong chế biến BNLM bằng phương pháp lên men yếm khí
(ủ chua), hai thí nghiệm nhỏ đã được tiến hành.
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến thành phần hóa học, pH,
hàm lượng các a xít hữu cơ của BNLM ủ chua
Trong thí nghiệm này, BNLM tươi được đập dập và băm nhỏ 2 - 3 cm, ủ yếm khí trong bình
thuỷ tinh có bổ sung rỉ mật theo các tỷ lệ sau (%): 0; 0,3; 0,6; 0,9; 1,2; 1,8; 2,4 (rỉ mật và
BNLM tính ở dạng sử dụng). Các bình thủy tinh để ủ BNLM được bố trí ngẫu nhiên hoàn
toàn trong phòng thí nghiệm và mỗi công thức ủ được lặp lại ba lần.
Thay đổi màu sắc, độ cảm nhiễm mốc, mức độ thối hỏng của BNLM ủ chua được quan sát và
ghi chép hàng tuần cho đến ngày 60. Giá trị pH của BNLM ủ chua được xác định vào các
ngày: 30, 45, 60 sau khi ủ bằng máy đo pH 900 Precisa, thành phần hóa học của BNLM ủ
chua được xác định vào ngày 60 sau khi ủ. Hàm lượng axit lactic, axit axetic, axit butyric của
BNLM ủ chua được xác định sau 60 ngày ủ theo phương pháp Lepper - Flig, (1995).
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ và động thái phân giải
chất khô, chất hữu cơ của BNLM ủ chua trong dạ cỏ
Các mẫu BNLM ủ chua có bổ sung rỉ mật: 0,9; 1,2; 1,8; 2,4% (dạng sử dụng) sau 60 ngày và
BNLM tươi và BNLM khô được sử dụng để làm thí nghiệm in sacco trên 3 bò đực lai Sind
mổ lỗ dò dạ cỏ, khối lượng bình quân 212,3 ± 11,6kg. Bò được nuôi nhốt riêng biệt và ăn
khẩu phần như nhau (20kg cỏ voi + 3kg rơm ủ 4% urê + 0,5kg cám hỗn hợp) trong giai đoạn
thí nghiệm. BNLM ủ chua bổ sung 0; 0,3; 0,6% rỉ mật chất lượng kém và bị hỏng nên không
sử dụng trong thí nghiệm này. Thời gian đặt mẫu ở dạ cỏ: 4, 8, 16, 24, 48, 72 và 96 giờ. Mỗi

NGUYỄN VĂN HẢI - Ảnh hưởng của các mức rỉ mật



3


mẫu thức ăn được lặp lặp lại 3 lần. Các bước tiến hành thí nghiệm in sacco theo phương pháp
của Orskov và cs., (1980).
Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý thống kê bằng phân tích phương sai một chiều (ONE-WAY ANOVA)
với phần mềm Minitab 14. Mô hình thống kê sử dụng ở đây là: Y
ij
=  + T
i
+ e
ij ;
ở đây Y
ij

biến phụ thuộc (ví dụ: pH, hàm lượng axit hữu cơ…),  là trung bình tổng thể, T
i
là ảnh
hưởng của các tỷ lệ rỉ mật và e
ij


sai số ngẫu nhiên. Các số liệu in sacco trước khi xử lý
thống kê được xử lý với phần mềm Neway của Chen (1995).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến thành phần hóa học, pH,
hàm lượng các a xít hữu cơ của BNLM ủ chua
Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến mầu sắc, pH của BNLM ủ chua
Màu sắc, giá trị pH của BNLM ủ chau sau 30, 45, 60 ngày ủ được thể hiện trong Bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến màu sắc, pH của BNLM ủ chua
Giá trị pH sau khi ủ
Công thức ủ

Màu sắc
30 ngày 45 ngày 60 ngày
Nhận xét
BNLM + 0,0% rỉ mật xám đen - - - Hỏng
BNLM + 0,3% rỉ mật xám đen 5,58 5,06 4,63 TB
BNLM + 0,6% rỉ mật vàng nhạt 5,45 4,86 4,52 TB
BNLM + 0,9% rỉ mật vàng rơm 5,34 4,63 4,20 Tốt
BNLM + 1,2% rỉ mật vàng rơm 5,26 4,34 4,03 Tốt
BNLM + 1,8% rỉ mật vàng rơm 4,82 4,32 3,92 Tốt
BNLM + 2,4% rỉ mật vàng rơm 4,71 4,21 3,85 Tốt
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy, ở công thức không bổ sung rỉ mật thì chỉ sau một thời gian BNLM
bị thối hỏng. Có thể BNLM không có đủ một lượng đường tối thiểu để đảm bảo cho quá trình
lên men lactic trong khi ủ chua. Ở các công thức bổ sung 0,3% và 0,6% rỉ mật giá trị pH của
thức ăn ủ chua đạt 4,63 - 4,52. Xét về mặt pH, theo các tiêu chuẩn về chất lượng thức ăn ủ
chua của các tác giả Schmidt và Wetterau (1974), Bacanov và Menkin (1989), Bodanov
(1990), McDonald và cs., (1995) thì BNLM ủ chua ở các công thức này chỉ đạt chất lượng
trung bình. Ở các công thức có bổ sung 0,9% rỉ mật trở lên giá trị pH của thức ăn ủ chua đã
đạt 4,2 - 3,85, thức ăn có màu vàng nhạt đến màu vàng rơm và có mùi thơm chua đặc trưng
của axit lactic. Theo các tài liệu trên giá trị pH của thức ăn ủ đã đạt 4,2 - 3,85 nên thức ăn ủ
chua đã đạt chất lượng tốt và có thể bảo quản được trong thời gian dài. Kết quả này tương tự
kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và cs., (2005a) khi ủ chua ngọn mía (gồm cả phần ngọn
có các gióng mía non và lá).
Chúng tôi đã ủ chua BNLM bổ sung 0,9% rỉ mật trong túi nilon có đường kính 1m đặt trong
các hố ủ sâu 1,2m và đường kính 0,9 mét. Kết quả là thức ăn ủ chua đã bảo quản được trong
vòng 12 tháng vẫn có chất lượng tốt: màu vàng sẫm, giá trị pH là 3, 9 – 4, thức ăn không bị
thối và có mùi thơm đặc trưng của axit lactic.


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 16-Tháng 2-2009



4

Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến thành phần hoá học của BNLM ủ chua
Kết quả phân tích thành phần hoá học BNLM ủ chua bổ sung rỉ mật thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến thành phần hoá học của BNLM ủ chua
Thành phần tính theo vật chất khô (%)
Công thức ủ
VCK
(%)
Protein thô Xơ thô NDF ADF KTS
BNLM tươi (ĐC) 27,1
a
7,56 38,01 64,58 34,32 10,7
a

BNLM ủ 0,9% rỉ mật 25,1
b
7,43 39,11 65,45 35,56 9,96
a

BNLM ủ 1,2% rỉ mật 25,2
b
7,58 39,89 66,23 35,52 11,34
b

BNLM ủ 1,8% rỉ mật 25,5
b
7,63 38,45 66,42 35,61 11,47
b


BNLM ủ 2,4% rỉ mật 25,8
b
7,54 38,47 65,67 35,34 11,58
b

SEM 0,463 0,067 0,619 0,871 0,517 0,395
Các số trong cùng 1 cột mang chữ cái (a, b) khác nhau thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Bảng 3 cho thấy, hàm lượng vật chất khô của tất cả BNLM ủ (25,1-25,8%) đều giảm so với
BNLM tươi (27,1%) (P < 0,05). Kết quả này cũng tương tự như các kết quả của nhiều tác giả
đã nghiên cứu về ủ chua thức ăn xanh (Ladan và Budenco, 1978; Bùi Văn Chính và cs., 1995;
Nguyễn Hữu Tào, 1996; Nguyễn Bá Mùi, 2001; Đặng Vũ Bình và cs., 2005a). Trong quá
trình ủ chua các tế bào của thức ăn xanh vẫn tiếp tục hô hấp trong 1 thời gian nhất định, cho
đến khi chúng tiêu thụ hết phần ôxy còn lại trong đống ủ, đồng thời quá trình hô hấp này tạo
ra nước, CO2 và nhiệt năng. Mặt khác, khi kết thúc quá trình đầm nén và tạo môi trường yếm
khí tế bào thực vật không chết ngay lập tức mà chúng vẫn kéo dài sự sống một thời gian ngắn
và hô hấp nội sinh (yếm khí), quá trình này cũng làm mất mát cabonhydrate trong thức ăn ủ

(Bacanov và Menkin, 1989, McDonald và cs., 1995)
Hàm lượng protein thô của BNLM ủ chua không có sự sai khác giữa các công thức ủ, chúng
dao động trong khoảng 7,43 - 7,63%; cũng không nhận thấy sự sai khác có ý nghĩa thống kê
giữa hàm lượng protein thô của BNLM ủ chua và BNLM tươi (P > 0,05). Như vậy, hàm
lượng nitơ bị mất trong quá trình ủ chua là không đáng kể.
Hàm lượng xơ thô, NDF, ADF của BNLM ủ chua không có sự sai khác đáng kể giữa các công
thức ủ; và cũng không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa các hàm lượng này của BNLM
ủ chua và BNLM tươi (P>0,05).
Hàm lượng khoáng tổng số của BNLM ủ chua có bổ sung rỉ mật tăng rõ rệt so với BNLM tươi
(P<0,05). Một mặt rỉ mật vốn là một nguyên liệu rất giàu chất khoáng, mặt khác trong quá
trình ủ chua thức ăn ủ cũng bị mất mát đi một lượng chất khô nhất định, nên hàm lượng
khoáng tính trong chất khô tăng lên.

Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến hàm lượng axit hữu cơ của BNLM ủ chua
sau 60 ngày
Kết quả phân tích hàm lượng các axit hữu cơ của thức ăn ủ chua được trình bày ở Bảng 4.
Bảng 4 cho thấy, thức ăn ủ chua bổ sung 0,3; 0,6% rỉ mật, có hàm lượng axit butyric sinh ra
trong quá trình ủ là tương đối cao (0,1 - 0,12%) và hàm lượng axit lactic còn khá thấp (1,1 -
1,45%), giá trị pH tương ứng là 4,63 - 4,52 (Bảng 3) và chưa đạt mức độ để có thể ức chế các
hoạt động lên men của vi sinh vật yếm khí trong thức ăn ủ chua. Theo Schmidt và Wetterau
(1974), Vũ Duy Giảng và cs., (1999) để thức ăn ủ có giá trị pH đạt 4,3 - 3,8 thì quá trình lên
men cần có hàm lượng axit lactic 1,5 - 2%. Như vậy, ở hai mức bổ sung 0,3% và 0,6 % rỉ mật
chưa đáp ứng đủ lượng đường cần thiết cho quá trình lên men để đưa giá trị pH từ 4,3 -> 3,8.

NGUYỄN VĂN HẢI - Ảnh hưởng của các mức rỉ mật



5

Bảng 4. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến hàm lượng axit hữu cơ của BNLM ủ
chua (sau 60 ngày ủ)
Axit hữu cơ
(% trong dạng sử dụng)
Công thức ủ
A. lactic A.axetic A. butyric
Tỷ lệ a.
lactic/TS
axit (%)
Tỷ lệ
a.lactic/ a.
axetic
BNLM ủ 0,3% rỉ mật 1,1 1,3 0,12 43,7 0,85

BNLM ủ 0,6% rỉ mật 1,45 1,1 0,1 54,7 1,3
BNLM ủ 0,9% rỉ mật 1,55 1,0 0,05 59,6 1,55
BNLM ủ 1,2% rỉ mật 1,8 0,9 - 66,7 2
BNLM ủ 1,8% rỉ mật 1,92 0,75 - 71,9 2,56
BNLM ủ 2,4% rỉ mật 2,2 0,65 - 77,2 3,38
BNLM ủ chua bổ sung 0,9 - 2,4% rỉ mật hàm lượng axit lactic đạt khá cao (1,55 - 2,2%), hàm
lượng axit butyric là không đáng kể (dưới mức 0,05). Điều này chứng tỏ trong thức ăn ủ chua quá
trình lên men lactic và axetic là chủ yếu. Theo tiêu chuẩn đánh giá thức ăn ủ chua của Bacanov và
Menkin (1989) thì BNLM ủ chua có bổ sung 0,9% rỉ mật trở lên đạt chất lượng tốt (loại I): vì thức
ăn này có hàm lượng axit lactic 59,6 - 77,2% trong tổng số axit sinh ra (so với tiêu chuẩn hàm
lượng này chỉ cần cao hơn 50%) và có giá trị pH đạt 4,2 - 3,85 (tiêu chuẩn là 4,2). Tỷ lệ axit
lactic/axit axetic tương ứng là 1,55; 2; 2,56; 3,38: 1, đây là một tỷ lệ cao. Theo Bacanov và
Menkin (1989); Bodanov (1990) tỷ lệ này vượt 1,5:1 thì thức ăn ủ chua đạt chất lượng tốt.
Như vậy qua kết quả phân tích, đánh giá theo giá trị pH và các axit hữu cơ sinh ra trong quá
trình ủ chua có thể kết luận: ủ chua BNLM với mức độ bổ sung 0,9- 2,4% rỉ mật, thức ăn ủ đã
đạt chất lượng cao và bảo quản được trong thời gian trên 12 tháng.
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ và động thái phân giải
chất khô, chất hữu cơ của BNLM ủ chua trong dạ cỏ
Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM
ủ chua
Kết quả tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM ủ chua được thể hiện trong Bảng 5.
Kết quả Bảng 5 cho thấy, tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM ủ chua (bổ sung 0,9; 1,2; 1,8;
2,4% rỉ mật) ở cùng một thời điểm đều cao hơn tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM khô và
thấp hơn tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM tươi (P < 0,05). Kết quả này của chúng tôi tương
tự kết quả của Nguyễn Xuân Trạch và Nguyễn Hồng Sơn (2005).
Bảng 5. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ phân giải vật chất khô của BNLM
trong dạ cỏ (%)
Thời gian lưu mẫu trong dạ cỏ (giờ)
Công thức xử lý
4 8 16 24 48 72 96

BNLM tươi (ĐC1) 27,1
a
35,0
a
43,5
a
48,6
a
54,6
a
56,4
a
59,4
a
BNLM khô (ĐC 2) 20,7
b
25,2
b
33,4
b
39,7
b
45,9
b
47,2
b
51,1
b
BNLM ủ 0,9% rỉ mật 22,5
c

30,3
c
37,6
c
44,0
c
49,5
c
53,8
c
56,1
c
BNLM ủ 1,2% rỉ mật 23,0
c
30,5
c
38,0
c
44,5
c
50,0
c
52,5
c
56,2
c
BNLM ủ 1,8% rỉ mật 23,5
c
28,5
c

39,7
c
43,4
c
49,9
c
52,8
c
57,3
c
BNLM ủ 2,4% rỉ mật 23,6
c
28,7
c
39,3
c
44,3
c
50,3
c
53,6
c
57,4
c
SEM 0,384

0,546 0,386 0,875 0,567 0,761 0,842
Các số trong cùng 1 cột mang chữ cái (a, b, c) khác nhau thì sự khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05).

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 16-Tháng 2-2009



6

Mặt khác không nhận thấy sự sai khác đáng kể giữa tỷ lệ phân giải vật chất khô ở cùng một
thời điểm của BNLM ủ chua bổ sung các mức rỉ mật khác nhau (P > 0,05). Tỷ lệ phân giải vật
chất khô của BNLM ủ chua thấp hơn của BNLM tươi có thể do sự tổn hao vật chất khô dễ hoà
tan và lên men của BNLM trong quá trình ủ chua.
Bảng 5 cho thấy, tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM ủ chua cao hơn BNLM khô đó là do:
trong quá trình phơi khô BNLM một phần các chất dinh dưỡng bị biến tính và trở nên khó tiêu
hoá hơn (Schmidt và Wetterau, 1974; McDonald và cs, 1995). Mặt khác, trong BNLM ủ chua
cabonhydrate dễ hoà tan có trong nguyên liệu ủ chua sẽ bị lên men biến thành các axit hữu cơ
dễ hấp thụ, do đó tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM ủ chua cao hơn BNLM khô.
Ảnh hưởng của mức rỉ mật khác nhau đến đặc điểm phân giải chất khô của BNLM ủ chua
Bảng 6. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến đặc điểm phân giải vật chất khô của
BNLM trong dạ cỏ
Phần rửa trôi
và hoà tan
ban đầu (%)
Phần không
tan nhưng
phân giải (%)

Tiềm năng
phân giải
tối đa (%)
Tốc độ
phân giải
(phần/giờ)
Pha dừng

(giờ)
Công thức xử lý
A B A + B C L
BNLM tươi (ĐC1) 25,9
a
34,5
a
60,4
a
0,0493
a
2,6
a
BNLM khô (ĐC2) 19,4
b
32,9
a
52,3
b
0,0435
b
3,1
c
BNLM
ủ 0,9% rỉ mật
22,4
c
35,7
a
58,1

c
0,0491
a
2,7
ba

BNLM ủ 1,2% rỉ mật

22,7
c
35,5
â
58,2
c
0,0495
a
2,7
ba

BNLM
ủ 1,8% rỉ mật
22,7
c
35,5
a
58,2
c
0,0491
a
2,8

b

BNLM
ủ 2,4% rỉ mật
22,8
c
35,5
a
58,3
c
0,0492
a
2,8
b

SEM 0,578 0,869 0,768 0,00067 0,037
Các số trong cùng 1 cột mang chữ cái (a, b, c) khác nhau thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05).
Bảng 6 cho thấy, tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM tươi cao hơn hẳn so với
BNLM khô và BNLM ủ chua (P<0,05). Do một phần chất khô dễ hoà tan và phân giải của
BNLM bị tổn thất trong quá trình ủ chua, nên tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM
tươi cao hơn tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM ủ chua. Ở BNLM khô chỉ số này
cũng thấp hơn BNLM tươi bởi vì khi phơi khô một phần các chất dinh dưỡng bị biến tính và
trở nên khó hoà tan hơn.
Bảng 6 cũng cho thấy, tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM ủ chua đều cao hơn tỷ
lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM phơi khô (P<0,05). Sự sai khác này là do:
BNLM ủ chua được bổ sung thêm rỉ mật, làm tăng thêm các chất dễ hoà tan và lên men trong
dạ cỏ. Quá trình lên men đường dễ hoà tan tạo ra các axit hữu cơ, cơ chế này không bị coi là
sự mất mát chất khô (Schmidt và Wetterau, 1974, Ladan và Budenco, 1978). Tỷ lệ rửa trôi và
hoà tan ban đầu (A) của BNLM ủ chua có xu hướng tăng dần theo tỷ lệ bổ sung rỉ mật, nhưng
sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).

Kết quả phân tích động thái phân giải chất khô cho thấy: phần không hoà tan nhưng có khả
năng lên men (B), tốc độ phân giải (c) của BNLM tươi và BNLM ủ chua không có sự sai khác
đáng kể (P > 0,05). Điều này chứng tỏ rằng phần không hoà tan nhưng có khả năng lên men
(B) không chịu tác động của phương pháp ủ chua. Phần không tan nhưng có khả năng lên men
(B), tốc độ phân giải (c) của BNLM khô thấp hơn so với cùng chỉ tiêu này của BNLM tươi và
BNLM ủ chua (P<0,05). Theo kết quả trên cũng cho thấy, có sự sai khác đáng kể giữa tiềm
năng phân giải tối đa (A + B) của BNLM tươi, BNLM ủ chua và BNLM khô: giá trị này của

NGUYỄN VĂN HẢI - Ảnh hưởng của các mức rỉ mật



7

BNLM tươi cao nhất, sau đó đến của BNLM ủ chua và thấp nhất là của BNLM khô (P<0,05).
Sự khác nhau này là do có sự sai khác giữa tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của BNLM
tươi, BNLM ủ chua và BNLM khô; đồng thời phần không hoà tan nhưng có khả năng lên men
(B) của 3 loại thức ăn này không có sự sai khác đáng kể.
Kết quả Bảng 6 cũng cho thấy, pha dừng (L) của BNLM tươi ngắn hơn so với BNLM khô và
BNLM ủ chua, pha dừng của BNLM ủ chua ngắn hơn của BNLM khô (P<0,05). Một mặt do
có sự khác nhau về tỷ lệ rửa trôi và hoà tan ban đầu (A) của 3 loại BNLM (tươi, ủ chua và
khô). Mặt khác quá trình phơi khô đã làm thay đổi cấu trúc vật lý của BNLM khô, do đó VSV
dạ cỏ và các enzym của chúng phải mất thời gian dài hơn để tiếp cận được với các chất dinh
dưỡng của chúng so với thời gian tiếp cận đối với BNLM ủ chua và BNLM tươi. Kết quả về
thời gian pha dừng của BNLM ủ chua trong thí nghiệm này tương tự kết quả của Nguyễn
Xuân Trạch và Nguyễn Hùng Sơn (2005).
Ảnh hưởng của mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ phân giải chất hữu cơ của BNLM ủ chua
Kết quả về tỷ lệ phân giải chất hữu cơ của BNLM trong dạ cỏ bò thể hiện trong Bảng 7.
Bảng 7. Ảnh hưởng của các mức rỉ mật khác nhau đến tỷ lệ phân giải chất hữu cơ của BNLM
ủ chua bổ sung rỉ mật trong dạ cỏ bò (%).

Thời gian lưu mẫu trong dạ cỏ (giờ)
Công thức xử lý
4 8 16 24 48 72 96
BNLM tươi (ĐC1) 27,0
a
33,1
a
41,5
a
48,4
a
55,6
a
61,4
a
65,1
a
BNLM khô (ĐC 2) 21,3
b
25,6
b
33,4
b
41,2
b
46,5
b
49,5
b
53,2

b
BNLM ủ 0,9% rỉ mật 23,1
c
26,5
b
36,5
c
43,5
cb
50,0
c
56,4
c
59,1
c
BNLM ủ 1,2% rỉ mật 24,1
c
28,4c 38,0
c
44,2
c
51,1
c
56,2
c
60,0
c
BNLM ủ 1,8% rỉ mật 24,2
c
28,1

c
38,1
c
43,8
c
51,3
c
57,5
c
60,2
c
BNLM ủ 2,4% rỉ mật 25,0
c
30,2
c
37,5
c
42,3
b
50,3
c
56,6
c
60,4
c
SEM 0,651

0,368 0,457 0,841 0,516 0,574 0,562
Các số trong cùng 1 cột mang chữ cái (a, b, c) khác nhau thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05).
Bảng 7 cho thấy tỷ lệ phân giải chất hữu cơ cao nhất ở BNLM tươi sau đó đến BNLM ủ chua

và thấp nhất ở BNLM khô (P < 0,05). Đó là do có sự sai khác giữa các phần rửa trôi và hoà
tan ban đầu (A) của ba loại BNLM khác nhau (Bảng 5). Không có sự sai khác đáng kể giữa tỷ
lệ phân giải chất hữu cơ của BNLM ủ chua với các mức bổ sung rỉ mật khác nhau (P > 0,05).
Ở công thức ủ chua BNLM có bổ sung 0,9% rỉ mật, tỷ lệ phân giải chất hữu cơ trong dạ cỏ
cao hơn rõ rệt so với BNLM khô (P > 0,05). Một lần nữa khẳng định rằng nên sử dụng công
thức bổ sung 0,9% rỉ mật để chế biến BNLM bằng phương pháp lên men yếm khí. Với tỷ lệ
bổ sung này BNLM ủ chua có thể dự trữ được trong thời gian dài mà chất lượng vẫn tốt.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Các mức rỉ mật khác nhau đã có ảnh hưởng đến chất lượng BNLM ủ chua. Bổ sung 0,9 -
1,2% rỉ mật cho kết quả tốt về thành phần hóa học, pH, hàm lượng a xít lactic và tỷ lệ phân
giải chất khô, chất hữu cơ ở dạ cỏ bò của BNLM. Tỷ lệ phân giải chất khô của BNLM ủ chua
với 0,9 - 1,2% rỉ mật cao hơn so với BNLM khô và thấp hơn BNLM tươi.
Đề nghị
Áp dụng vào sản suất công thức ủ chua BNLM bổ sung 0,9 - 1,2% rỉ mật.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 16-Tháng 2-2009


8

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, Nguyễn Hữu Tào, Nguyễn Văn Hải, Đỗ Viết Minh, Trần Quốc Tuấn và Lê Trọng
Lạp, (1995). “Nghiên cứu chế biến, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và nguồn thức ăn sẵn có ở nông
thôn”. Tuyển tập những công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi (1969 -1995). Viện Chăn
Nuôi. NXBNN. Tr 35 - 44.
Chen. X. B, (1995). Neway Excel: Utility for processing data of feed degradability and in vitro gas production,
version 4.0, Rowett Research Institut, UK.
Đặng Vũ Bình, Nguyễn Xuân Trạch và Bùi Quang Tuấn, (2005a). “Ảnh hưởng của ủ chua và xử lý urê đến tính
chất và thành phần dinh dưỡng của ngọn lá mía”. Trường ĐHNN I - Hà Nội. Tạp chí KHKT nông nghiệp,

tập III, số 2/2005. tr 125 - 129.
Đặng Vũ Bình, Phạm Kim Đăng và Nguyễn Xuân Trạch (2005b). Kết quả thí nghiệm nuôi bò thịt bằng ngọn lá
mía. Trường ĐHNN I - Hà Nội. Tạp chí KHKT nông nghiệp, tập III, số 2/2005. tr 1 - 3.
Nguyễn Bá Mùi, (2001). “Nghiên cứu phụ phẩm dứa làm thức ăn gia súc”. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Trường
Đại học Nông Nghiệp I, Hà Nội, Tr 25.
Tổng cục thống kê - Niên giám thống kê (2007). NXB thống kê - Hà Nội, 2007.
Nguyễn Hữu Tào, (1996). “Nghiên cứu nuôi dưỡng bò sữa và lợn thịt bằng khẩu phần ăn có thân lá lạc chế biến, dự
trữ sau thu hoạch”. Luận án Tiến sỹ Nông Nghiệp, Viện Chăn nuôi, Tr 29 - 31.
Nguyễn Xuân Trạch và Nguyễn Hùng Sơn, ( 2005). “Ảnh hưởng của ủ chua và xử lý urê đến khả năng phân giải
của ngọn lá mía trong dạ cỏ ”. Trường ĐHNN I - Hà Nội. Tạp chí KHKT nông nghiệp, tập III, số 2/2005.
tr 144 - 148.
Orskov. E. R., Deb Hovell. F. D., Muold. F (1980)., The use the nilon bag technique for the evalution of
feedstuffs, Tropical Animal Production, 5. p: 195-213.
Vũ Duy Giảng, Nguyễn Thị Lương Hồng, Tôn Thất Sơn (1999), Dinh dưỡng và thức ăn gia súc. NXB Nông
Nghiệp. Tr 84 - 94, 162 -167.
McDonald, P; Edwards. R. A; Greenhagh.J. F. D and Morgan. C. A. (1995), “Animal nutrition” Fifth Edition,
Longman, London, UK, pp. 451 - 464.
Баканов. В. Н. Мелкин. В. К(1989). Кормление селъскохозяйствнных животных. Моска во
“Агропромиздат”. Стр 167 – 195, 297 –316.
Богданов. Г. А (1990). Кормление селъскохозяйствнных животных. Моска во “Агропромиздат”. Стр 71 -
82, 134 - 137, 179 - 192 . 71 - 82, 134 - 137, 179 - 192 .
Ладан. П. Е., Руденко. Н. Р (1978). Кормовая база промышленного животноводства. Издателъство
“Колос”. Стр 88 - 115.
Schmidt. W., Wetterau. H (1974). Vyroba Silaze. Praha.

*Người phản biện : TS. Mai Văn Sánh; TS. Trịnh Xuân Cư

×