Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

BÁO CÁO KHOA HỌC : ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ LỆ SỬ DỤNG THÂN LÁ LẠC Ủ CHUA TRONG KHẨU PHẦN NUÔI BÒ THỊT TẠI QUẢNG TRỊ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.85 KB, 6 trang )


ĐỖ THỊ THANH VÂN – Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò thịt


1

ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ LỆ SỬ DỤNG THÂN LÁ LẠC Ủ CHUA TRONG KHẨU
PHẦN NUÔI BÒ THỊT TẠI QUẢNG TRỊ
Đỗ Thị Thanh Vân*, Nguyễn Thành Trung, Vũ Chí Cương,
Lê Văn Hùng và Phạm Bảo Duy
Bộ môn Dinh dưỡng -Thức ăn và Đồng cỏ
*Tác giả liên hệ : Đỗ Thị Thanh Vân - Bộ môn Dinh dưỡng -Thức ăn và Đồng cỏ
Viện Chăn nuôi – Thụy Phương – Từ Liêm – Hà Nội
Tel: 0982.343.896; Fax: (04) 37571.692; Email:
ABSTRACT
Utilisation of peanut vine silage for beef cattle in Quang Tri province.
An experiment was conducted to investigate effects of partly replacement of cassava meal with ensilaged
groundnut haulm in diets of crossbred (Red Sindhi x local Yellow) young bulls in Quang Tri province. Eighteen
young bullse, aging 22 months old, were allotted in a CRBD experiment of three treatments, each of six animals.
After 56 days of feeding, the weight gain of cattle fed three levels of replacement (0, 16.5 and 33%; dry matter
basis) were 0.49; 0.58 and 0.56 kg/head/day; respectively. Feeding 3.0 and/or 6.0 kg of groundnut haulm to
replace 0.5 and/or 1.0 kg of cassava meal in cattle diets will profit 112.8 to 119.1 thousand VND per head per
month.
Key words: cassava meal, groundnut haulm, diest of crossbred, dry matter basis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàng năm nước ta có khoảng 1,2-1,4 triệu tấn thân cây lạc tươi, phần lớn khối lượng này bị
bỏ ngoài đồng làm phân bón, một phần nhỏ dùng làm chất đốt. Lạc chiêm là vụ lạc chính,
thường thu hoạch vào tháng 6, 7 hàng năm, trùng vào mùa mưa nên thân cây lạc rất khó bảo
quản, vì cây lạc giàu protein rất dễ bị nấm mốc và vi sinh vật phân huỷ. Thân lá cây lạc sau
thu hoạch có hàm lượng dinh dưỡng tương đối cao: 26,45% vật chất khô (VCK), 14,17%
protein thô, 28.99% xơ thô và 2289 Kcal ME/kg VCK (Nguyễn Hữu Tào, 1996; Bùi Văn


Chính và cs,2002). Thân lá lạc ủ chua (bổ sung 0,5% muối và 5% bột sắn) đạt pH: 4,3-4,5;
hàm lượng axit lactic đạt khá cao 2,8%. Bò sữa ăn khẩu phần thức ăn (TĂ) có thân lá lạc,
chiếm 39% năng lượng toàn khẩu phần, vẫn cho năng suất sữa khá cao, đồng thời giá tiền chi
phí thức ăn giảm đi 18,6% (Nguyễn Hữu Tào, 1996).
Quảng Trị là một tỉnh duyên hải miền Trung, người dân chủ yếu làm nông nghiệp; canh tác
lúa, hạt tiêu, lạc. Số lượng đàn trâu bò trên toàn tỉnh là 65.938 con (tính đến 1/8/2006). Diện
tích trồng lạc toàn tỉnh đạt 5300 ha năm 2006 (website, 2007). Một năm có 2 vụ lạc Đông
Xuân và Hè Thu cho thu nhập cao hơn gấp 2 ->3 lần trồng lúa. Vì vậy, nhiều địa phương
trong tỉnh đã chuyển đất trồng lúa năng suất thấp sang trồng lạc. Bên cạnh đó, chăn nuôi phát
triển mạnh, nhất là gia súc nhai lại: trâu, bò, dê. Phong trào Sind hoá đàn bò phát triển khá
nhanh, tỷ trọng chăn nuôi chiếm gần 40% tổng giá trị ngành nông nghiệp. Mặc dù cây lạc và
chăn nuôi gia súc nhai đang phát triển mạnh tại Quảng Trị, người dân ơ đây chưa có thói quen
chế biến, bảo quản thân lá lạc làm TĂ cho gia súc, do họ chưa biết cách và phương pháp bảo
quản hợp lý. Vì vậy, đề tài được tiến hành nhằm: xác định tỷ lệ sử dụng hiệu quả thân lá lạc
trong chăn nuôi bò thịt tại địa phương.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trong năm 2007, tại xã Vĩnh Hiền - Vĩnh Linh - Quảng trị.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009


2

Thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp thiết kế thí nghiệm khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh
(completely randomised block design - CRBD).
Tổng số gia súc trong thí nghiệm là 18 bê đực LaiSind, 22 tháng tuổi, khối lượng trung bình
215 kg. Gia súc thí nghiệm được chọn và nuôi tại các nông hộ có điều kiện nuôi dưỡng tương
đối giống nhau (17hộ). Sau đó các gia súc được phân hoàn toàn ngẫu nhiên vào 3 lô thí
nghiệm, mỗi lô thí nghiệm gồm 6 bê đực Lai Sind. Toàn bộ gia súc thí nghiệm được tẩy sán lá

gan bằng thuốc Fasinex (Thuỵ sỹ) trước khi bắt đầu giai đoạn nuôi chuẩn bị. Trong giai đoạn
thí nghiệm gia súc được nuôi nhốt hoàn toàn.
Bảng 1. Thành phần hoá học của thức ăn thí nghiệm (% chất khô)
Loại thức ăn
Chất khô
(%)
Protein
(%)
Xơ (%) NDF (%) ADF (%)
Khoáng
tổng số
Cỏ tự nhiên 24,1 10,8 27,4 67,5 38,9 12,83
Bột sắn 89,1 3,27 4,57 7,31 3,28 2,45
Thân lá lạc ủ chua 22,26 15,31 25,35 46,64 31,25 5,27
Rơm ủ urea 49,34 10,45 41,72 73,94 34,91 18,97
Khẩu phần ăn thí nghiệm gồm: Bột sắn, cỏ tự nhiên, thân lá lạc và rơm ủ urea; (Bảng 2).
Nước uống gia súc được cung cấp đầy đủ và không hạn chế trong quá trình thí nghiệm. Bột
sắn: được nghiền từ sắn lát phơi khô tự nhiên. Cỏ tự nhiên: Là loại cỏ mọc xen kẽ với các loại
cây trồng ngắn ngày, ở các bờ thửa được cắt về cho ăn tại chuồng. Rơm ủ urê được chuẩn bị
theo công thức: 100 (kg) rơm + 4 (kg) urê + 80 (lít) nước. Thân lá lạc được ủ theo công thức:
100 (kg) thân lá + 5 (kg) bột sắn + 0.5 (kg) muối ăn.
Bảng 2. Thành phần của khẩu phần thức ăn thí nghiệm
KP1 KP2 KP3
Loại thức ăn
0 lá lạc* 16,5% lá lạc 33% lá lạc
Cỏ tự nhiên 4 kg 4 kg 4 kg
Bột sắn 3,0 kg 2,5 kg 2 kg
(tỷ lệ bột sắn theo % KL cơ thể) 1,4 1,17 0,94
Thân lá lạc ủ chua 0 kg 3 kg 6 kg
(tỷ lệ theo % KL cơ thể) 0 0,23 0,46

Urea 50 g 50 g 50 g
Rơm ủ urea Ăn tự do ăn tự do ăn tự do
*Thay thế bột sắn bằng thân lá lạc ủ theo tỷ lệ chất khô
Thời gian thí nghiệm là 70 ngày, trong đó 14 ngày đầu là giai đoạn nuôi chuẩn bị để gia súc
làm quen với khẩu phần và 56 ngày sau là giai đoạn thí nghiệm.
Gia súc được cho ăn thân lá lạc ủ chua 3 lần trong ngày (sáng, trưa và tối), cỏ tự nhiên và bột
sắn 2 lần trong ngày (sáng và tối).
Bò được xác định tăng trọng thông qua cân bò vào buổi sáng trước khi cho ăn, 1 lần/tuần
bằng cân điện tử RudWeight, Australia. Tiêu tốn thức ăn được xác định thông qua cân thức ăn
ăn vào và thức ăn thừa hàng ngày của từng cá thể.
Hiệu quả của thay thế bột sắn bằng thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò được tính dựa
trên tăng trọng, chi phí thức ăn

ĐỖ THỊ THANH VÂN – Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò thịt


3

Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê theo phương pháp phân tích phương sai một chiều (ONE-WAY
ANOVA) trên phần mềm MINITAB 14.2.
Mô hình toán thống kê sử dụng để phân tích số liệu là:
y
ij
= µ + α
i
+ e
ij

Trong đó: y

ij
là biến phụ thuộc, µ là trung bình chung,
α
i
là ảnh hưởng của khẩu phần thí nghiệm và e
ij


sai số ngẫu nhiên.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thay đổi khối lượng và tăng trọng của bò
Tăng trọng của bò vỗ béo được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3. Khối lượng và tăng trọng của bò ở các lô thí nghiệm
Khẩu phần

KP1 KP2 KP3 SEM
Chỉ tiêu theo dõi Mean Mean Mean
P (>)
Khối lượng đầu kỳ (kg) 219,7 215,8 213,2 17,07 0,05
Khối lượng sau 28 ngày thí nghiệm (kg) 231, 3 229,5 224,3
17,80
0,05
ADG tháng 1 (kg/con/ngày) 0,41 0,49 0,41
0,08
0,05
Khối lượng sau 56 ngày thí nghiệm (kg) 247,0 248,4 244,3 18,37 0,05
ADG tháng 2 (kg/con/ngày) 0,56 0,68 0,70
0,11
0,05
ADG cả kỳ (kg/con/ngày) 0,49 0,58 0,56

0,05
0,05
Ghi chú: (ADG): tăng trọng bình quân/ngày.
Kết quả Bảng 3 cho thấy, khối lượng bò các lô khi bắt đầu thí nghiệm là tương đối đồng đều.
Khi kết thúc thí nghiệm khối lượng bò ăn các KP1, KP2 và KP3 tương ứng lần lượt là 247,0;
248,4 và 244,3 kg. Nhìn chung tăng trọng bò thí nghiệm tương đối tốt và đồng đều qua các
tháng trong thời gian thí nghiệm. So sánh khối lượng lúc kết thúc thí nghiệm và tăng trọng cả
kỳ cho thấy không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05) về các chỉ tiêu này giữa bò ăn
các khẩu phần ăn khác nhau.
Kết quả về tăng trọng của bò thí nghiệm đạt từ 0,49 - 0,58 kg/con/ngày; tương đương với
nghiên cứu trước đây của Bùi Văn Chính, Nguyễn Hữu Tào (1992); Lê Viết Ly và cs (1995);
Vũ Văn Nội và cs, (1999). Trong nghiên cứu của các tác giả trên, khi vỗ béo bò bằng phế
phẩm nông nghiệp tăng trọng từ 0,51- 0,58 kg/con/ngày, còn theo Vũ Chí Cương và cs (2005)
vỗ béo bò bằng phế phẩm nông nghiệp tăng trọng từ 0,53 - 0,70 kg/con/ngày. Kết quả của thí
nghiệm này cũng tương đương với nghiên cứu của Bùi Xuân An (1998).
Trong thí nghiệm của các tác giả trên, khi thay thế 1kg chất khô thức ăn tinh bằng 2 kg chất
khô lá lạc phơi khô hay ủ chua, các khẩu phần thay thế đều cho kết quả tăng trọng tốt hơn.
Sau 56 ngày thí nghiệm, tăng trọng của bò ăn KP2 (thay thế 0,5kg bột sắn bằng 3,0kg thân lá
lạc ủ) đạt tăng trọng cao nhất (0,58 kg/con/ngày) và thấp nhất là khẩu phần không có thân lá
lạc ủ. Mặc dù vây, không có sự sai khác về mặt thống kê với bò ăn các khẩu phần khác,
(P>0,05). Điều này cho thấy, khẩu phần có sử dụng thân lá lạc ủ có sự cân đối hơn về mặt
dinh dưỡng và thân lá lạc ủ đã bổ xung nguồn protein tương đối cho gia súc.


VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009


4

Hiệu quả sử dụng thức ăn của bò

Kết quả về lượng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn được trình bày ở Bảng 4.
Bảng 4. Lượng thức ăn ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn
Khẩu phần

KP1 KP2 KP3 SEM
Chỉ tiêu Mean Mean Mean
P (<)
Chất khô ăn vào (kg/con/ngày) 6,11
a
5,6
ab
5,1
b
0,28 0,05
Chất khô ăn vào (% khối lượng) 2,88 2,69 2,48 0,29 0,05
Tiêu tốn TĂ* (kg CK/kg tăng trọng) 12,92 10,57 11,69 1,82 0,05
HQSDTA *(g tăng trọng/MJ ME) 7,57 10,10 9,04
0,95
0,05
Ghi chú: * TA: thức ăn; HQSDTA: hiệu quả sử dụng thức ăn; các số mũ có chữ cái khác nhau thì sai khác ý
nghĩa thống kê (P<0,05)
Bảng 4 cho thấy, lượng thức ăn ăn vào (kg chất khô/con/ngày) có sự sai khác thống kê
(P<0,05) giữa các nhóm bò ăn KP1, KP2 và KP3. Có thể khẩu phần có nhiều thân lá lạc ủ làm
giảm lượng ăn vào do độ choán của thức ăn. Chất khô ăn vào của bò trong thí nghiệm này dao
động từ 5,1-6,11 kg/con/ngày.
Theo Kearl (1982) bò 200-300 kg, tăng trọng 0,75 kg/con/ngày cần 5,4-7,4 kg chất
khô/con/ngày. Theo Preston và Willis (1967) bò tơ (200 kg) lượng chất khô thu nhận xấp xỉ từ
2,8-3% khối lượng cơ thể của chúng. Như vậy, độ ngon miệng của cả 3 khẩu phần ăn là chấp
nhận được mặc dù lượng ăn vào của KP 3 thấp hơn 2 lô còn lại; không có sự sai khác về mặt
thống kê (P< 0.05).

Tiêu tốn và Hiệu quả sử dụng thức ăn
0
2
4
6
8
10
12
14
KP1 KP2 KP3
Khẩu phần thí nghiệm
Tiêu tốn TĂ (kg DM/
kg TT)
HQSDTA (g tăng
trọng/MJ ME)

Đồ thị 1: Tiêu tốn và hiệu quả sử dụng thức ăn
Tiêu tốn chất khô/kg tăng trọng của bò ăn KP1; KP2 và KP3 lần lượt là 12,92; 10,57 và 11,69
kg chất khô/kg tăng trọng. Kết quả thu được ở các nhóm bò ăn các khẩu phần vượt trên
khoảng tiêu chuẩn của ARC (1980); NRC (1984); INRA (1989); Rajan (1990); Perry (1990)
và AFRC (1993): khoảng 7,1 - 8,8 kg chất khô/kg tăng trọng.
Hiệu quả sử dụng thức ăn ở bò trong thí nghiệm này là 7,57 – 10,10 g tăng trọng/ MJ năng
lượng trao đổi; so với tính toán từ tiêu chuẩn ăn của Kearl (1982); NRC (1984); Rajan (1990)
và AFRC (1993) hiệu quả sử dụng thức ăn (11,45- 12,58g tăng trọng/MJ năng lượng trao đổi)
thì bò ăn cả 3 khẩu phần nằm ngoài khoảng giá trị tiêu chuẩn. Tuy nhiên, bò ăn khẩu phần 2
có hiệu quả sử dụng thức ăn xấp xỉ 10,10g tăng trọng/MJ năng lượng trao đổi. Kết quả này
tương đối tốt khi bò được nuôi dưỡng trong điều kiện tận dụng tại nông hộ.

ĐỖ THỊ THANH VÂN – Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò thịt



5

Sơ bộ tính toán hiệu quả chi phí thức ăn
Dựa trên cơ sở giá thức ăn, tăng trọng và giá bò tại thời điểm kết thúc thí nghiệm, chúng tôi sơ
bộ tiến hành tính toán hiệu quả của việc thay thế bột sắn bằng thân lá lạc ủ nuôi bò. Kết quả
được trình bày ở Bảng 5.
Bảng 5. Hiệu quả của việc sử dụng khẩu phân có thân lá lạc ủ
Chỉ tiêu KP1 KP2 KP3
*Giá thành TĂ (đ/kg)
Bột sắn (đồng/kg) 3500 x 3kg = 10500 3500 x 2,5kg = 8750 3500 x 2kg = 7000

Thân lá lạc ủ (đồng/kg) 0 400 x 3kg = 1200 400 x 6kg = 2400
*Tổng chi thức ăn tinh 10.500 đ 9.950 đ 9.400 đ
Tăng trọng (kg/con/ngày)

0.49 0.58 0.56
Tiền thu được từ tăng
trọng (đồng/con/ngày)
38.000 x 0.49
=18.620
38.000đ x 0.58
=22.040
38.000đ x 0.56
=21.280
Tiền thu được (đồng)* 8.120 12.090 11.880
*Tiền chênh lệch**
(đồng/ngày)
0 3970 3760
*Tiền chênh lệch

(đồng/tháng)
0 119.100 112.800
* Chưa tính chi phí thức ăn thô
** Tiền chênh lệch: là số tiền lãi thu được từ khẩu phần sử dụng thân lá lạc nhiều hơn khẩu phần không sử dụng
Qua tính toán cho thấy, bò ăn KP2; KP3 có tỷ lệ thân lá lạc ủ chua tương ứng 0,23 và 0,46%
khối lượng cơ thể có số tiền chênh lệch thu được từ 112.800đ đến 119.100 đ/con/tháng.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Sử dụng từ 0,23 đến 0,46% thân lá lạc ủ chua tính theo khối lượng cơ thể trong khẩu phần
nuôi bò cho tăng trọng từ 0,56 đến 0,58kg/con/ngày và tiêu tốn từ 10,57 đến 11,69kg vật chất
khô/kg tăng trọng.
Sử dụng thân lá lạc ủ chua trong khẩu phần nuôi bò giúp tăng thu nhập từ 112.800đ đến
119.100 đ/con/tháng.
Đề nghị
Công nhận là tiến bộ kỹ thuật và cho phép sử dụng thân lá lạc ủ chua từ 0,23 đến 0,46% tính
theo khối lượng cơ thể trong khẩu phần nuôi bò thịt tại tỉnh Quảng Trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
AFRC, (1993). Energy and Protein Requirements for Ruminants. University Press, Cambridge
ARC, (1984). The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl 1. Commonwealth Agricultural Bureau,
Slough.
Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, Nguyễn Hữu Tào, Phạm Văn Thìn, Đỗ Viết Minh và Nguyễn Văn Hải, (2002). Kết
quả nghiên cứu chế biến và sử dụng phế phẩm nông nghiệp làm thức ăn gia súc. Viện Chăn nuôi, 50
năm xây dựng và phát triển.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 18-Tháng 6-2009


6

Bui Van Chinh, Le Viet Ly, Nguyen Huu Tao, Pham Van Thin and Preston, T.R, (1992). Ammoniated rice straw

or untreated straw supplemented with molasses-urea block for growing Sindhi x Local cattle in
Vietnam. Livestock Research for Rural Development. Vol 4, Num 3, 12/1992.
Bui Xuan An, (1998). Ensiled and dried peanut haulm as replacement of concentrate for crossbred heifers fed
poor quality forages. Livestock Research for Rural Development. Volume 10, number 2. Trích từ
ngày 30 tháng 7 năm 2008.
INRA (1989). Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables, INRA, Paris, 1989
Kearl. L. C. (1982). Nutrient Requirements of Ruminants in Developing Countries. International Feedtuffs Institute. Utah
Agricultural Experiment Station. Utah State University, Logan.
Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương và Nguyễn Quốc Đạt, (1995). Nuôi bê lai hướng thịt
bằng thức ăn bổ sung từ nguồn phế phẩm nông nghiệp tại miền Trung. Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ
thuật chăn nuôi 1994-1995. Nhà xuất bản Nông nghiệp 1996, tr. 135-140.
Nguyễn Hữu Tào, (1996). Luận án Tiến sĩ. Nông nghiệp 1996
NRC (1984). The nutrient requirements of beef cattle,. Washington DC.
Perry, T.W, (1990). Dietary nutrient allowance for beef cattle. Feedstuffs- Reference issue, 62, 31: p.46-56.
Preston, T.R., Willis, M.B. (1967). Intensive Beef Production from 1Sugar Cane.
Rajan, S. K. (1990). Nutritional Value of Animal Feeds and Feeding of Animals, ICAR, New Dehli
Victor J. Clarke, Lê Bá Lịch, Đỗ Kim Tuyên. (1996). Kết quả chuyển giao kỹ thuật vỗ béo bò bằng khẩu phần
cao năng lượng dựa trên nền bột sắn với 3% urea. Trang 41-48. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y 1996
- 1997. Phần chăn nuôi gia súc. Hà nội, 1997.
Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương và Đinh Văn Tuyền (1999). Sử dụng phế phụ phẩm và nguồn thức ăn sẵn có tại
địa phương để vỗ béo bò. Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, Huế 28-30/6/1999) tr. 25-29.
Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương, Nguyễn Thành Trung, Phạm Hùng Cường, Nguyễn Thiện Trường Giang,
Lưu Thị Thi (2005). Ảnh hưởng các mức lõi ngô trong khẩu phần có hàm lượng rỉ mật cao đến tỷ lệ
phân giải chất khô inssaco bông gòng, môi trường dạ cỏ và tăng trọng bò lai Sind vỗ béo. Tạp chí Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, số 18 - 2005 (Kỳ 2 - 9/2005), số xuất bản ISSN 0866-7020; tr. 43-46.
Website. (2007). Genaral Statistics Office of Vietnam. trích từ



*Người phản biện : TS. Đỗ Viết Minh ; TS. Trần Quốc Việt

×