Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các doanh nghiệp ngòai quốc dân ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )






LUẬN VĂN:

Thực trạng mở rộng cho vay của Chi
nhánh Thăng Long đối với các doanh
nghiệp ngòai quốc dân





Lời nói đầu
Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh
tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực,
cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được
thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt
đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
nói riêng.
Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng
95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số
vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển
mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy
nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân
hàng của các DNNQD hiện nay là rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan.
Sau gần 4 năm học tập tại Khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân – Hà Nội và một thời gian ngắn thực tập tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh


Thăng Long, em viết đề tài này với mục đích làm sáng tỏ một số những nguyên nhân làm
các DNNQD gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ở Chi nhánh Thăng
Long .
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Vài nét về các DNNQD và Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.
- Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các
DNNQD.
- Nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp thực hiện.



Nội dung
Chương I: Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1.Vài nét về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
1.1.1.Khái niệm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh (Luật doanh nghiệp – Quốc hội thông qua 12/6/1999)
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp có tính chất tư hữu (Không kể các
đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm : Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã.
1.1.2.Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta.
Do hoàn cảnh lịch sử đất nước và tình hình kinh tế xã hội nước ta mà các DNNQD ở
nước ta có nhiều nét đặc biệt, thể hiện ở những điểm sau :
Thứ nhất, Các DNNQD rất đông về số lượng và có tốc độ độ gia tăng cao.
Nếu như năm 1991, sau khi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân ra đời 1 năm, cả
nước mới có 414 DNNQD, đến năm 1999, con số này đă tăng lên 39.501 DNNQD và
đến trước khi luật doanh nghiệp ra đời ( năm 1999), cả nước mới có 39501 doanh nghiệp.
Bình quân trong giai đoạn 1991 – 1999 tốc độ tăng khoảng 30% năm. Đến nay - Sau gần
4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có gần 72.000 DNNQD được

thành lập mới gần gấp đôi con số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó. Bình quân trong giai
đoạn này tốc độ tăng đến 40% năm. Đó là những con số phản ánh mức độ phát triển ngày
một mạnh mẽ của các DNNQD góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển
chung của kinh tế đất nước.
Thứ hai, đa số các DNNQD đều mới được hình thành.
Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung thì Nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh
vực kinh tế, các thành phần kinh tế phi Nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp nên không
có một DNNQD chính thức được hoạt động. Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã

hội thì Đảng và Nhà nước đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhất là
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khi đó các DNNQD mới có điều kiện để phát triển
mạnh mẽ. Như phần trên đã nói, chỉ trong vòng 4 năm gần đây con số các DNNQD được
thành lập mới là khoảng 72000 doanh nghiệp, gần gấp đôi so với số doanh nghiệp thành
lập trước đó. Như vậy, hầu hết các doanh nghiệp này dưới 4 tuổi, doanh nghiệp lớn tuổi
nhất mới chỉ là 15 năm. Một con số quả nhỏ bé nếu so với các doanh nghiệp ở nước
ngoài có những doanh nghiệp được thành lập từ hàng trăm năm nay.
Thứ ba, các DNNQD tuy đông về số lượng nhưng quy mô vốn và lao động nhỏ.
Mặc dù có số lượng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao như đã nêu ở trên
nhưng đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Chiếm khoảng 95% ), số doanh nghiệp có
số vốn dưới 500 triệu chiếm đến hơn một nửa (51 %), còn số doanh nghiệp có vốn điều
lệ trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1,4%. Do các doanh nghiệp ít vốn như vậy nên các doanh
nghiệp này hoạt động rất khó khăn nhất là khó khăn trong chống đỡ với các biến động
bất lợi trong sản xuất, kinh doanh. Do đó khả năng phá sản của các này là rất lớn.
Quy mô lao động thì nhỏ bé, trung bình mỗi DNNQD sử dụng khoảng 20 lao động, số
doanh nghiệp sử dụng trên 100 lao động chỉ từ 600 đến 700 doanh nghiệp mà đa số lao
động này chưa có trình độ chuyên môn, kỹ thuật (Chiếm đến 83%).
Thứ tư, trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu.
Theo điều tra ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì chỉ có 17% thiết bị hiện đại,
52% thiuết bị trung bình còn lại là các thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản
xuất, chế tạo thì có đến 62% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 50, 60. Công nghệ

lạc hậu dẫn đến sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá thành cao, chất lượng mẫu mã không
đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng nên sản phẩm rất khó cạnh tranh được với các sản
phẩm cùng loại trên thị trường.
Cùng với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý yếu kém, có thể nói 100% các chủ doanh
nghiệp tư nhân ở ta kiêm luôn giám đốc điều hành hoặc có người thân làm giám đốc điều
hành chứ không có doanh nghiệp nào thuê giám đốc bên ngoài. Các chủ doanh nghiệp thì
chỉ có số ít là có năng lực chuyên môn và kinh nghiệp kinh doanh thực sự còn đa số họ
thiếu kinh nghiệp quản lý và kinh doanh. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp được thành
lập từ các cơ sở sản xuất. Do cơ chế thông thoáng mà Luật doanh nghiệp mang lại và
chính sách ưu đãi của Nhà nước nên nhiều cơ sở sản xuất được nâng cấp thành doanh

nghiệp . Tuy được gọi là doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp vẫn không có thay đổi gì
đáng kể, doanh nghiệp vẫn quản lý theo phương pháp kiểu gia đình như cở sở sản xuất
trước đây.
Thứ năm, các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động năng động, thích nghi cao với thị
trường, dễ dàng chuyển đổi đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các
doanh nghiệp này thường làm ăn kiểu “manh mún”, “chộp giật” mà không tính đến các
lợi ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận
dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các tới ích trước mắt mà không có các tính toán
chiến lược. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó khăn, nhất là các
khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều các DNNQD không thực hiện đúng chế độ kế
toán, thống kê Nhiều doanh nghiệp lại có biểu hiện làm ăn phi pháp như : Trốn thuế,
lừa đảo, làm hàng giả, hàng kém chất lượng Điều đó làm cho xã hội có tâm lý thiếu tin
tưởng gây khó khăn trước hết cho chính loại hình doanh nghiệp này.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản nhất của các DNNQD ở nước ta . Đặc điểm này
xuyên suốt và có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp
này của ngân hàng .
1.1.3.Vài nhận xét về các DNNQD ở nước ta.
Qua phân tích đặc điểm và những ảnh hưởng của các DNNQD đến kinh tế xã hội nước

ta những năm gần đây, ta có những nhận xét trên 2 góc độ ưu điểm và nhược điểm sau :
1.1.3.1.Những ưu điểm.
Thứ nhất, các DNNQD có những đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước.
Các DNNQD hoạt động trong hầu hết những nghành, những lĩnh vực kinh tế: Nông
nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ.
Các DNNQD hoạt động linh hoạt, thích ứng nhanh, đáp ứng nhanh những nhu cầu của
thị trường góp phần làm cho các hoạt động kinh tế trở lên linh động, làm thay đổi diện
mạo nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế ước tính thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
hiện nay đóng góp đến 42% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) và đóng góp vào tăng
trưởng GDP cao hơn so với thành phần kinh tế Nhà nước. Đặc biệt từ năm 2001 trở lại
đây, chỉ số đóng góp vào GDP của các DNNQD trung bình hàng năm tăng hơn 10%.
Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế.

(Năm trước bằng 100%) Đơn vị tính : %
Thành phần kinh tế 1995 1999 2000 2001 2002
Tốc độ tăng trưởng chung
Trong đó :
- DNNN
- DN tư nhân
- DN hỗn hợp
109,5

109,4
109,3
112,7
104,8

102,6
103,2
106,2

106,8

107,7
108,1
111,0
106,8

107,44
113,22
113,59
107,4

106,88
113,89
114,35
Nguồn:Tạp chí Khoa học ngân hàng số 2/2004
Thứ hai, Hoạt động của các DNNQD thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
Các DNNQD hoạt động linh động trên nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là
lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế và là chất
“xúc tác”, lôi kéo các thành phần kinh tế khác nhất là kinh tế Nhà nước phải tự đổi mới,
tự điều chỉnh để có thể cạnh tranh được trên thị trường.
Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các
nghành sản xuất kinh doanh đều do Nhà nước đảm nhận làm mất đi tính cạnh tranh, mất
động lực để phát triển đi lên dẫn đến tình trạng trì trệ, kém hiệu quả trong khu vực kinh
tế Nhà nước. Ngày nay, trừ một số doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ độc quyền, còn
lại hầu hết các ngành các lĩnh vức sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác. Điều này bắt buộc khu vực kinh tế Nhà nước phải tổ chức, sắp
xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh nếu muốn
tồn tại và phát triển. Các DNNQD vừa là đối tác làm ăn, vừa là đối thủ cạnh tranh với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nên nó là nhân tố quan trọng thúc

đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
Thứ ba, các DNNQD góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH – HĐH.
Một cơ cấu kinh tế hiện đại là cơ cấu kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao
trong GDP. Các DNNQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong thương mại
và dịch vụ do đó nó là trung gian, là chiếc cầu nối để chuyển dịch từ nông nghiệp sang
công nghiệp và dịch vụ. Bởi vì : Khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ thì nó sẽ trực tiếp đóng góp vào lĩnh vực này, ngoài ra nó còn cung
cấp cho nông nghiệp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu làm nâng cao năng suất trong

lĩnh vực nông nghiệp . Khi đó lao động trong nông nghiệp sẽ dư thừa và chuyển sang
lĩnh vực công nghệp và dịch vụ.
Thứ tư, các DNNQD phát huy tốt các nguồn lực của nền kinh tế.
Kinh tế Nhà nước không thể bao quát tất cả, không thể phát huy hết mọi nguồn lực của
nền kinh tế .
- Có thể nói tiềm lực đầu tiên mà các DNNQD huy động đó chính là nguồn vốn rất
lớn trong dân cư. ở nước ta lượng vốn trong dân cư rất lớn mà thành phần kinh tế Nhà
nước không thể huy động hết, trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng mạnh
mẽ số DNNQD là số vốn đăng ký thêm rất lớn. Chỉ trong 4 năm gần số vốn đăng ký
thêm của các DNNQD là 144.000 tỷ đồng, chưa kể số vốn vay của các doanh nghiệp
này.
- Tiềm lực thứ 2 mà các doanh nghiệp này khơi dậy đó chính là lực lượng lao động.
Trước đây có đến 80% lực lượng lao động là trong lĩnh vực nông nghiệp, làm việc
chủ yếu là thủ công, năng suất thấp, con số thất nghiệp thực tế là rất lớn. Trong khi đó
khu vực kinh tế Nhà nước lại chậm phát triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ không
thúc đẩy được nông nghiệp phát triển. Ngày nay, các DNNQD được khuyến khích
phát triển mạnh ở cả các thành phố lớn và các địa phương không những góp phần giải
quyết việc làm mà còn góp phần nâng cao trình độ của lực lượng lao động.
Những ưu điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn do đó khuyến khích
loại hình doanh nghiệp vày phát triển là một yêu cầu tất yếu và là nhiệm vụ của toàn xã

hội.
1.1.3.2.Những hạn chế của các DNNQD.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế cần khắc phục.
Thứ nhất, Các DNNQD chỉ mới đạt được sự phát triển về bề rộng chứ chưa đạt được sự
phát triển về chiều sâu.
Thời gian vừa qua, chúng ta ghi nhân sự tăng lên mạnh mẽ của các DNNQD trong nhiều
lĩnh vực nhưng có đến 95% các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trình
độ quản lý và công nghệ yếu kém, lạc hậu; Làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật Đó
là những hạn chế lớn, là trở lực cản trở sự phát triển cả về chất và về lượng của loại hình
doanh nghiệp này.
Thứ hai, rất nhiều doanh nghiệp có biểu hiện làm ăn mờ ám.

Các hiện tượng làm ăn trái pháp luật như : Trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, kinh
doanh trái phép diễn ra phổ biến đối với các DNNQD. Ngoài ra còn có nhiều các doanh
nghiệp có hành vi lừa đảo gây mất ổn định xã hội. Nguy hiểm hơn khi các hành vi lừa
đảo này có sự tiếp tay của một bộ phận công chức Nhà nước, một bộ phận những cán bộ
làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó hành vi lừa đảo trở lên khó lường
hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn.
Tất cả những điều đó làm suy giảm uy tín của các DNNQD, làm cho xã hội thiếu tin
tưởng đối với các doanh nghiệp này. Muốn cho các doanh nghiệp này phát triển một cách
bền vững đúng với vai trò của nó thì những hạn chế trên cần phải dần khắc phục. Đồng
thời cần phải phát huy những mặt tích cực vốn có của thành phần kinh tế này.
1.2.Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.2.1.Quan niệm về mở rộng cho vay.
Cho vay, là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho khách hàng sử dụng một
khoản tiền vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc hoàn trả
cả gốc và lãi.
Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD chính là phản ánh sự gia tăng khối
lượng cho vay đối vớ các DNNQD cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Mở rộng theo chiều rộng tức là sự tăng lên về quy mô của đối tượng, của các khoản

vay như: số dư nợ tăng lên, số khách hàng tăng lên
- Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các
khoản vay như: Cơ cấu của các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hợp lý; Tỷ trọng
dư nợ của các DNNQD so với các thành phần kinh tế khác
1.2.2.Nội dung của mở rộng cho vay các DNNQD .
Nội dung của mở rộng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu về dư nợ (số dư nợ, tỷ
trọng dư nợ, cơ cấu của dư nợ, tốc độ tăng dư nợ, sự thay đổi cơ cấu, tỷ trọng dư nợ và
chỉ tiêu về nợ quá hạn); về số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn với ngân hàng; về sự đa
dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng các hình thức bảo đảm.
1.2.2.1.Các chỉ tiêu về dư nợ.
- Số dư nợ của các DNNQD phản ánh số tiền mà ngân hàng đã và vẫn đang còn cho vay
các DNNQD. Số dư nợ mà càng lớn phản ánh mức độ mở rộng cho vay các đối tượng là

DNNQD càng cao. Tuy nhiên, nghiên cứu mở rộng cho vay ta phải đặt trong mối quan
hệ với các thành phần khác, đặt trong mối quan hệ về thời gian. Chính vì vậy mà số dư
nợ không thể phản ánh hết thực chất của việc mở rộng cho vay các DNNQD của ngân
hàng mà phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu, các khía cạnh khác nhau của mở rộng cho
vay.
- Tốc độ tăng dư nợ là tỷ lệ số dư nợ năm sau cao hơn năm trước so với số dư nợ năm
trước. Tốc độ này phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm của ngân hàng.
Nếu tỷ lệ này dương có thể kết luận rằng thời điểm sau đã có sự mở rộng cho vay so với
thời điểm trước, và nếu qua thời gian tỷ lệ này tăng dần thì có thể kết luận được rằng tốc
độ mở rộng ngày một tăng. Tuy nhiên, cần so sánh với các thành phần kinh tế khác qua
đó mới có thể biết được việc mở rộng cho vay có đầy đủ hay không. Nếu tốc độ tăng dư
nợ cũng dương nhưng lại nhỏ hơn tốc độ tăng của các thành phần kinh tế khác thì sự mở
rộng đó không phải là thực chất, đó chỉ là sự tăng lên đơn thuần của số dư nợ theo xu
hướng chung.
- Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD là tỷ lệ phần trăm của số dư nợ của các DNNQD so
với tổng số dư nợ. Tỷ trọng dư nợ phản ánh sự mở rộng của cho vay các DNNQD so với
các thành phần khác. Nếu tỷ trọng này cao chứng tỏ các DNNQD có quan hệ vay mượn

nhiều hơn các thành phần khác có ưu thế hơn các thành phần khác. Tỷ lệ này tăng theo
thời gian phản ánh ngân hàng đã ngày càng coi trọng cho vay các DNNQD. Có thể số dư
nợ không tăng theo thời gian nhưng tỷ trọng cho vay các DNNQD tăng lên so với các
thành phần kinh tế khác đã chứng tỏ sự thực sự quan tâm của ngân hàng đối với các
doanh nghiệp này, đó cũng là sự mở rộng cho vay.
- Cơ cấu dư nợ của các DNNQD. Tuỳ từng cách phân loại dư nợ của các DNNQD mà ta
có các loại cơ cấu dư nợ khác nhau. Chẳng hạn nếu phân các khoản vay của các DNNQD
theo kỳ hạn thành dư nợ ngắn hạn, dư nợ trung hạn và dư nợ dài hạn thì ta sẽ có cơ cấu
về kỳ hạn của các khoản vay. Ta không thể kết luận tỷ lệ các khoản vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn theo tỷ lệ nào mới là sự mở rộng mà tuỳ từng thời điểm, tuỳ từng điều
kiện mà sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý là sự mở rộng cho vay. Hợp lý ở đây
chính là nhu cầu vay của các doanh nghiệp được ngân hàng đáp ứng đầu đủ, vừa có lợi
cho ngân hàng, vừa có lợi cho cho doanh nghiệp. Có những trường hợp thì cơ cấu dịch
chuyển từ dư nợ ngắn hạn sang dư nợ trung và dài hạn là sự mở rộng, lại có những

trường hợp cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ trung và dài hạn sang dư nợ ngắn hạn mới là mở
rộng. Bởi vì: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng chứng tỏ nhu cầu vốn cho mua sắm tài sản
lưu động lớn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đạt năng suất và hiệu
quả; còn tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp có nhu cầu lớn
về đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, kinh doanh, có nhu cầu lớn cho đầu tư đổi
mới công nghệ. Nhu cầu vốn nào tăng cũng là dấu hiệu tốt đối với các DNNQD. Miễn là,
các doanh nghiệp sử dụng loại vốn nào có hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp
và ngân hàng thì tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng hay tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn tăng cũng
đều hợp lý và là sự mở rộng cho vay các DNNQD. Chẳng hạn, do đầu tư mở rộng sản
xuất nên các doanh nghiệp có hiệu quả cao nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các
doanh nghiệp này tăng cao làm tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng cao, mặc dù có thể
tổng dư nợ không tăng nhưng có sự chuyển dịch theo nhu cầu của các DNNQD từ vay
ngắn hạn sang vay dài hạn thì đó cũng là sự mở rộng cho vay.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn của các DNNQD là toàn bộ số dư nợ (cả
gốc và lãi) của các DNNQD đã đến hạn thanh toán nhưng các doanh nghiệp này không

thanh toán mà chưa được xử lý cho gia hạn nợ, xoá nợ… Tỷ lệ nợ quá hạn của các
DNNQD là tỷ lệ giữa số dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các doanh nghiệp này. Chỉ
tiêu tỷ lệ nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh sự mở rộng cho vay các DNNQD nhưng
nó rất quan trọng trong đánh giá sự an toàn và hiệu quả của mở rộng cho vay. Mục tiêu
của hoạt động ngân hàng là an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng cho vay cũng cần
phải đảm bảo hiệu quả nên người ta thường khống chế mức nợ quá hạn dưới một mức
nào đó chứ không phải là mở rộng bằng mọi giá.
1.2.2.2.Số DNNQD vay vốn ở ngân hàng.
Đó chính là số lượng các DNNQD có quan hệ vay vốn của ngân hàng trong một thời
gian nhất định thường là một năm. Số lượng các doanh nghiệp là con số cụ thể nhất phản
ánh quá trình mở rộng cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng. Nghiên cứu quá trình
mở rộng thông qua số doanh nghiệp cũng cần phải xem xét quá trình gia tăng của số
doanh nghiệp vay vốn, đồng thời cũng phải xem sự biến động về số tiền mỗi làn vay vốn.
Qua đó có thể đánh giá một cách bao quát việc mở rộng cho vay của ngân hàng.

1.2.2.3.Đa dạng các hình thức cho vay.
Đa dạng các hình thức cho vay chính là việc ngân hàng sử dụng nhiều hình thức cho
vay. Việc đa dạng các hình thức cho vay đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng, cũng như từng
điều kiện của điều kiện của khách hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu nhu cầu của khách
hàng qua đó phát triển hoặc đổi mới các phương thức cho vay cho phù hợp.
Có nhiều cách phân loại, nếu phân theo đặc điểm của món vay các doanh nghiệp thường
sử dụng thì có các hình thức cho vay sau:
Cho vay từng lần.
Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần.
Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Mỗi lần vay vốn, khách hàng phải gửi đến
ngân hàng các tài liệu :
- Phương án, dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chứng từ liên quan đến nhu cầu vay : Hợp đồng mua, bán, giấy báo giá
Ngân hàng xác định mức cho vay theo công thức :
Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác

cho = vốn của phương - của khách - (nếu có )
vay án , dự án hàng tham gia
Vốn tự có được xác định là vốn có thực tham gia trực tiếp vào phương án , dự án hoặc
từng lần rút vốn vay của doanh nghiệp : Vốn bằng tiền, tài sản là vật tư, hàng hoá
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận hợp đồng tín dụng cho cả phương án vay.
Phát tiền vay : Nói chung phương pháp cho vay từng lần thì phát tiền vay một lần. Tuy
nhiên cũng có trường hợp phát làm 2 lần trở lên trường hợp này kèm theo hợp đồng tín
dụng có thêm giấy nhận nợ.
Phương án này có nhược điểm là mỗi lần vay vốn, khách hàng phải lập đủ các thủ tục
vay và hợp đồng tín dụng do vậy phương pháp này còn gây phiền hà cho khách hàng .
Cho vay theo hạn mức tín dụng .
Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín
dụng. Hạn mức đó chính là số dư tối đa tại một thời điểm.
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường
xuyên, sản xuất, kinh doanh ổn định.
- Xác định hạn mức tín dụng .

Ngân hàng sau khi nhận đủ các tài liệu của doanh nghiệp, nếu đồng ý thì ngân hàng
xác định hạn mức tín dụng:

Nhu cầu vốn Doanh thu hoặc chi phí sản xuất kinh doanh (KH)
lưu động kỳ =
kế hoạch Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (KH)

Hạn mức Nhu cầu vốn Vốn tự có vốn khác
tín dụng = lưu động - của khách - (nếu có )
(KH) trong kỳ (KH) hàng tham gia

Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =

Vốn huy động bình quân
Vốn tự có tham gia được xác định là toàn bộ vốn chủ sở hữu bên nguồn vốn của bảng
cân đối kế toán hoặc vốn hoạt động thuần (Tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn)
- Phát tiền vay: Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời gian hiệu lực của hợp đồng tín
dụng, mỗi lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng
từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Việc theo dõi phát tiền
vay trên giấy nhận nợ phải cùng đồng thời theo dõi trên phụ lục hợp đồng tín dụng .
- Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định lãi suất của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt
Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận để ghi vào hợp đồng tín dụng
hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng
- Quản lý hạn mức tín dụng :
- Chi nhánh Thăng Long phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức
cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết .
- Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thấy đổi và
doanh nghiệp có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, doanh nghiệp phải làm giấy đề nghị
xác nhận lại hạn mức tín dụng và Chi nhánh Thăng Long nếu thấy hợp lý thì cùng
doanh nghiệp thoả thuận bổ sung hợp đồng tín dụng .

- Ký kết hợp đồng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực doanh
nghiệp phải gửi cho Chi nhánh Thăng Long phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo.
Chi nhánh Thăng Long sẽ xem xét nếu đủ điều kiện sẽ xác định hạn mức tín dụng và thời
hạn tín dụng mới.
Trường hợp hạn mức tín dụng kỳ này thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ trước thì doanh
nghiệp phải giảm dư nợ thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ này mới được vay tiếp theo hợp
đồng tín dụng mới.
- Xác định thời hạn cho vay .
Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc xác định trên giấy nhận nợ
phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nguồn
vốn của Chi nhánh Thăng Long. Nếu doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh tổng hợp thì
chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định

thời hạn vay.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho cả ngân hàng và doanh nghiệp do thủ tục vay
vốn đơn giản sau lần vay đầu tiên, ngân hàng và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc
cân đối và sử dụng vốn .
Cho vay trả góp.
Khi vay vốn, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền
vay phải cộng với số gốc phải chia ra để trả nợ làm nhiều kỳ hạn trong thời gian vay.
Hình thức này chủ yếu dùng trong cho vay đời sống của cá nhân, hộ gia đình, còn đối với
các doanh nghiệp việc cho vay trả góp thường phát sinh khi có các nhu cầu vay vốn như:
Xây dựng các công trình phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên (Nhà mẫu giáo, nhà văn
hoá )
Do hình thức này là vay trung và dài hạn nên ngân hàng cần phải chú ý cân đối ngồn vốn
trung và dài hạn.
Cho vay theo hạn mức thấu chi .
Phương thức này hiện chưa được NHNo&PTNT Việt Nam quy định chi tiết nên Chi
nhánh Thăng Long có nhu cầu thì phải lập đề án trình tổng giám đốc thì mới được thực
hiện .
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn mức thấu chi, có
thu nhập ổn định và có tín nhiệm với ngân hàng .

- Tài khoản thấu chi: Muốn vay theo hình thức này khách hàng phải mở tài khoản thấu
chi tại ngân hàng .
- Số dư trên tài khoản thấu chi có thể dư nợ hoặc dư có. Dư có có nghĩa là khách
hàng đang gửi tiền vào ngân hàng và được hưởng lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ
hạn, dư nợ tài khoản thấu chi có nghĩa là khách hàng đang vay tiền ngân hàng và
phải chịu lãi tiền vay theo thoả thuận.
- Khách hàng phải có cam kết chuyển thu nhập của mình vào tài khoản thấu chi.
- Khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung vầ tính hợp pháp của các
khoản chi của khách hàng trên tài khoản thấu chi .
- Hạn mức thấu chi.

Chi nhánh Thăng Long sau khi nhận đủ hồ sơ của khách hàng nếu đồng ý sẽ xác định
hạn mức thấu chi.
Để bảo đảm an toàn vốn, ngân hàng quy định hạn mức thấu chi với từng khách hàng,
đối tượng vay vốn.
- Thủ tục vay vốn.
- Khách hàng có nhu cầu chi vượt số tiền có trên tài khoản thấu chi của mình thì
lập giấy đề nghị vay tiền, giấy đề nghị vay tiền được lập một lần cho cả hạn mức
thấu chi.
- Trong phạm vi hạn mức thấu chi, mỗi lần rút vốn khách hàng chỉ cần mang
đến ngân hàng các chứng từ : Phiếu chuyển khoản, giấy lĩnh tiền mặt. Căn cứ vào
hạn mức thấu chi, kế toán lập thủ tục cho khách hàng rút vốn theo quy định.

- Quản lý hạn mức thấu chi.
- Kế toán phải quản lý chặt chẽ hạn mức thấu chi, bảo đảm mức cho vay không
vượt quá hạn mức đã ký kết.
- Trong quá trình vay vốn, trả nợ nếu khách hàng có nhu cầu chỉnh hạn mức thì
phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức thấu chi. Ngân hàng xem xét nếu thấy
hợp lý, chấp thuận thì cùng khách hàng thoả thuận, bổ sung hợp đồng tín dụng.
- Xác định thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay theo hình thức này tối đa không vượt quá 12 tháng.
Cho vay theo dự án đầu tư.

Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn và tạo mới, mở
rộng hoặc cải tạo cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng
hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ trong khoảng thời gian
nhất định.
- Ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư để
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư, phục vụ đời sống.
- Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu
tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn nợ, xác định lãi

suất


Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác
cho = vốn của phương - chủ dự án - (nếu có )
vay án , dự án tham gia

Thời hạn cho vay = Thời gian XDCB + Thời gian trả nợ
Mức cho vay
Thời hạn trả nợ =
KH để trả nợ khác + LN +Nguồn


- Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện của dự án .
- Mỗi lần rút vốn vay, doanh nghiệp lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức cho
vay đã thoả thuận, kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn
trong hợp đồng tín dụng.
- Lãi suất cho vay: Căn cứ thao quy định của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam,
Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy
nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng.
- Việc cho vay theo dự án đầu tư, ngân hàng cần phải kết hợp với các hình thức cấp tín
dụng khác như: Thực hiện bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, có như vậy
ngân hàng mới thu được doanh thu cao nhất.
- Cho vay theo phương thức này thường là các dự án lớn cần có nguồn vốn lớn, ngân
hàng cần có thời gian huy động và trả lãi huy động do vậy ngân hàng và khách hàng thoả
thuận mức phí trả trong trường hợp khách hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần
chi phí huy động của ngân hàng, trong trường hợp khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng
nhưng thực tế không vay.
Cho vay hợp vốn.
Cho vay hợp vốn là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một dự án của khách hàng.

Cho vay hợp vốn thường xảy ra trong các trường hợp sau:
- Nhu cầu xin vay của khách hàng vượt quá giới hạn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Khả năng tài chính và nguồn vốn của tổ chức tín dụng không đáp ứng đủ nhu cầu vay
của một dự án.

- Nhu cầu phân tán rủi ro của tổ chức tín dụng.
- Bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều tổ chức tín dụng khác nhau.
Chi nhánh Thăng Long cùng với các thành viên đồng tài trợ thống nhất với nhau về
phương thức thẩm định là một trong các phương thức sau:
- Thành lập tổ thẩm định chung.
- Các tổ chức tín dụng tham gia hội đồng tài trợ thẩm định độc lập.
- Thống nhất giao cho tổ chức tín dụng đầu mối thực hiện thẩm định.
Do nhu cầu chia sẻ rủi ro nên phương pháp này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trọng tổng
dư nợ của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các dự án dầu tư lớn. Do có lợi thế về vốn tự
có mà NHNo&PTNT Việt Nam thường được mời với tư cánh là thành viên đồng tài trợ.
Đó là các hình thức cho vay mà các doanh nghiệp đã thực hiện ở Chi nhánh Thăng Long
.
1.2.2.4.Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm.
Việc đa dạng hoá các hình thức bảo đảm cũng đảm bảo phù hợp hơn với nhiều doanh
nghiệp. Bởi vì, mỗi một hình thức bảo đảm mang những đặc trưng riêng và phù hợp khác
nhau với từng doanh nghiệp. Tuỳ từng điều kiện của mình mà các DNNQD lựa chọn
hình thức bảo đảm cho phù hợp với doanh nghiệp mình Điều đó làm nhiều doanh nghiệp
có thể vay vốn được của ngân hàng hơn, qua đó nâng cao được dư nợ các DNNQD hơn.
Hình thức bảo đảm do doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận nhưng phải theo quy định
của pháp luật. Theo các quy định ở nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay,
Nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi một số điều của Nghị định 178/1999/NĐ-CP và
các hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam về bảo đảm tiền vay thì NHNo&PTNT Việt
Nam có thể cho vay có bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm theo các hình thức sau:

 Các hình thức bảo đảm bao gồm:

Thứ nhất, Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay: Tài sản cầm cố thế chấp
phải thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lý của doanh nghiệp. Đồng thời, tài
sản phải là tài sản dễ phát mại.
Cầm cố: Cầm cố là hình thức theo đó doanh nghiệp phải chuyển quyền kiểm soát tài sản
sang cho ngân hàng trong thời hạn cam kết (thường là thời hạn vay).
Cầm cố thường áp dụng với những tài sản dễ kiểm soát, dễ bảo quản, đồng thời việc
ngân hàng nắm giữ không ánh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Như
các loại chứng khoán, các hợp động, sổ tiết kiệm, kim loại quý, ngoại tệ mạnh Ngân
hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm là không an
toàn cho ngân hàng, đó thường là các tài sản thanh khoản cao.
Khi thực hiện cho vay theo hình thức bảo đảm cầm cố ngân hàng kiểm tra tính tính hợp
pháp, hợp lệ, tính an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng
chi trả của người cam kết (công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo hiểm ). Ngân
hàng và khách hàng thoả thuận định giá vật cầm cố, thoả thuận và ký hợp đồng cầm cố.
Trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ đối với các bảo đảm cầm cố như chuyển giao
vật cầm cố, nghĩa vụ quản lý vật cầm cố, quyền phát mại vật cầm cố khi khách hàng vi
phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ
Thế chấp : Là hình thức theo đó doanh nghiệp vay vốn phải chuyển các giấy tờ chứng
nhận quyền về tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
Các tài sản bảo đảm theo hình thức này thường là tài sản tham gia vào quá trính sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp (máy móc, thiết bị, hàng hoá ). Những tài sản này thường
cồng kềnh, phân tán, bán hoặc chuyển nhượng khó khăn.
Bảo đảm bằng phương pháp này doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh nên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng
kiểm soát của ngân hàng gặp nhiều hạn chế nên ngân hàng có thể gặp nhiều rủi ro hơn so
với phương pháp cầm cố. Do đó khi tài trợ ngân hàng phải xem xét thật kỹ vật thể chấp,
trong hợp đồng thế chấp phải có phàn mô tả vật thế chấp và ngân hàng chỉ cho vay theo
tỷ lệ nào đó giá trị vật thế chấp.
Thứ hai, Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba: Bên bảo lãnh phải có các điều kiện sau:
Có năng lực pháp luật dân sự; có khả năng về vốn; có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo


lãnh. Việc bên bảo lãnh cầm cố, thế chấp tài sản hoặc không cầm cố thế chấp tài sản bảo
đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là do ngân hàng và bên bảo lãnh thoả thuận.
Bên thứ ba ở đây thường là các công ty mẹ bảo lãnh vay vốn cho các công ty thành viên.
Bên thứ ba ở đây có thể là các tổ chức tài chính, tiền tệ có uy tín, có khả năng tài chính
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn. Trong trường hợp này thì
doanh nghiệp muốn được bảo lãnh phải có thế chấp tài sản hoặc ký quỹ đồng thời phải
trả phí bảo lãnh. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp vay vốn do tốn kém, việc ký
quỹ làm ứ đọng vốn…
Thứ ba, Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Trường hợp này khách hàng phải
có tín nhiệm với ngân hàng (theo quy định khách hàng tối thiểu phải xếp loại B), có mức
vốn tự có tham gia tối thiểu theo quy định, có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất,
kinh doanh hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết. Tài sản hình thành từ
vốn vay trong quá trình sản xuất, kinh doanh thường làm tài sản hao mòn, biến dạng, làm
giảm giá trị của tài sản như máy móc, thiết bị…Do đó chỉ những khách hàng có uy tín
với ngân hàng mới được bảo đảm tiền vay theo cách này. Cũng có trường hợp khi sử
dụng tài sản hình thành từ vốn vay lại tăng giá trị như đầu tư vào gia súc, cây trồng…
Việc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay rất có lợi cho doanh nghiệp vì tài sản
của doanh nghiệp không phải thế chấp mà có thể sử dụng cho mục đích khác, trong nhiều
trường hợp không làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
 Ngân hàng cũng áp dụng các biện pháp cho vay không cần tài sản bảo đảm.
Thứ nhất, Các doanh nghiệp có quan hệ truyền thống với ngân hàng; sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả; tình hình tài chính đảm bảo yêu cầu trả nợ; có dự án, phương án sản
xuất, kinh doanh hợp lý; cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích thì có thể được ngân
hàng cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản.
Thứ hai, tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm do sự chỉ định của chính phủ. Đây
là hình thức ưu tiên, trợ cấp của Nhà nước đối cới các thành phần kinh tế kếm phát triển,
cần khuyến khích phát triển như : Hộ nông dân nghèo, các đối tượng vùng sâu, vùng xa,
các lĩnh vực công ích…Do đó, các DNNQD thường không nằm trong đối tượng ưu tiên
trên.


1.2.3.ý nghĩa của mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng.
1.2.3.1.Đối với các DNNQD .
Mở rộng cho vay có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các DNNQD :
Thứ nhất, Mở rộng cho vay giúp các DNNQD có cơ hội huy động vốn, làm tăng quy
mô vốn của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh .
Như đã nói ở trên các DNNQD hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần rất nhiều
vốn cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung và dài hạn để duy trì sản xuất, kinh doanh ; để đầu tư
mở rộng sản xuất; đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm Trước hết ta xem
các nguồn mà các DNNQD có thể huy động hiện nay là:
- Nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn tự có ban đầu: Đây là số vốn mà chủ sở hữu hoặc các thành viên chủ sở hữu góp
lại với nhau khi thành lập doanh nghiệp hình thành nên vốn điều lệ ban đầu. Như đã
nói, trên một nửa các DNNQD có số vốn này dưới 500 triệu.
Vốn từ lợi nhuận để lại: Đây là nguồn vốn chủ sở hữu được bổ sung từ lợi nhuận doanh
nghiệp. Nguồn vốn này không đáng kể bởi vì: Thứ nhất, muốn có nguồn vốn này thì
doanh nghiệp phải có lãi, trong khi đó các doanh nghiệp thường bị lỗ hoặc lãi rất ít
trong những năm đầu hoạt động mà các DNNQD ở ta hầu hết mới được thành lập trong
vòng 4 năm qua. Thứ hai, đây là vấn đề nhạy cảm, lợi nhuận để lại đồng nghĩa với số
lợi nhuận được chia ít hơn cho các thành viên. Điều này mâu thuẫn với lợi ích trước
mắt của các thành viên và dễ làm tính hấp dẫn của cổ phiếu giảm (đối với các công ty
cổ phần) làm ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp .
Vốn từ phát hành cổ phiếu: Có thể nói đây là ngồn vốn quan trọng và chiếm tỷ lệ cao ở
nhiều nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, nguồn vốn này các doanh nghiệp nhất là các
DNNQD rất khó tiếp cận vì: Không phải DNNQD nào cũng được phát hành cổ phiếu,
theo Luật Doanh nghiệp quy định chỉ có công ty cổ phần thì mới được phát hành cổ
phiếu, công ty TNHH thì chỉ được phát hành trái phiếu, còn doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh thì không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Hầu hết các
DNNQD đều không đủ các tiêu chuẩn, điều kiện niêm yết trên TTKH chính thức còn thị
trường phi chính thức (Thị trường OTC) chưa được thành lập. Do đó các chứng khoán

của các DNNQD khó lưu thông trên thị trường (tính thanh khoản không cao) cộng với
tính rủi ro cao của các cổ phiếu này do vậy mà được rất ít nhà đầu tư quan tâm.

- Vốn vay
Vay của bạn bè, người thân: Nguồn này có thể nói là rất nhỏ và không thường xuyên.
Nguồn từ tín dụng thương mại: Nguồn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ
mua, bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng.
Nhưng không phải lúc nào cũng có thể mua chịu được hàng hoá, mặt khác doanh nghiệp
mua chịu thì có thể cũng phải bán chịu nên vẫn thiếu vốn cho đầu tư, kinh doanh.
Nguồn vốn vay từ phát hành trái phiếu: Việc phát hành trái phiếu thì đòi hỏi các điều
kiện ngặt nghèo về pháp lý, thủ tục phát hành, tài sản bảo đảm Hiện nay chưa một
DNNQD nào phát hành được do các điều kiện của việc phát hành trái phiếu.
Hầu hết các nguồn có thể huy động được của các DNNQD đều rất khó khăn. Vậy thì
nguồn tín dụng của ngân hàng là một giải pháp thích hợp và hiệu quả để các DNNQD có
thể huy động để phục vụ cho hoạt động của mình.
Nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng giúp các doanh nghiệp giả quyết những vấn đề sau:
- Nguồn huy động từ các tổ chức tài chính – tín dụng có thể nói đây là nguồn vốn
cho sản xuất , kinh doanh chủ yếu của các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp có vốn
hình thành từ ngân hàng chiếm đến 80% tổng vốn kinh doanh. Vốn này sử dụng để mua,
sắm NVL, CC-DC, trả tiền công, tiền lương thông qua các khoản vốn vay ngắn hạn.
- Nguồn vốn từ ngân hàng đã góp phần giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất,
kinh doanh ; đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để giành lợi thế
trước đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp ở nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, công nghệ sử dụng lạc hậu, hầu hết các máy móc, thiết bị đã lỗi thời . Do đó sản
phẩm làm ra khó cạnh tranh. Do vậy nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao
trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở lên cấp thiết. Với việc mở rộng
cho vay các doanh nghiệp DNNQD thì ngân hàng có thể hỗ trợ vốn giúp các doanh
nghiệp từng bước nâng cao khả năng công nghệ thông qua vốn vay trung và dài hạn.
Thứ hai, Mở rộng cho vay khuyến khích các DNNQD sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Hầu như doanh nghiệp cũng sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng vì nó không những giúp

doanh nghiệp đủ vốn để sản xuất, kinh doanh mà còn làm giảm chi phí vốn. Lãi tiền vay
được tính là chi phí hợp lý nên khi tính thuế thu nhập do đó doanh nghiệp sẽ được hưởng
một phần lợi từ thuế. Mặt khác, vay ngân hàng thì doanh nghiệp không những phải trả
gốc mà còn phải trả lãi tiền vay trong thời gian nhất định. Điều đó buộc các doanh

nghiệp phải tính toán phương án sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả để có thể sau khi trả
lãi ngân hàng thì vẫn còn lợi nhuận cho mình.
Thứ ba, Vai trò quan trọng nữa là giúp doanh nghiệp có thể chớp nhanh cơ hội mà thị
trường mang lại. Những cơ hội không phải lúc nào cũng có mà chỉ xuất hiện ở từng thời
điểm nếu doanh nghiệp không tận dụng hoặc không nhanh chân thì cơ hội đó sẽ qua đi.
Sự tư vấn và nguồn vốn của ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp chớp được cơ hội và
giành được hiệu quả cao.
Vai trò của ngân hàng đối với các doanh nghiệp là rất lớn, nó không cụ thể để có thể liệt
kê đầy đủ ra được. Càng mở rộng quan hệ cho vay thì vai trò của ngân hàng đối với
doanh nghiệp càng thể hiện rõ ràng.
1.2.3.2.Đối với ngân hàng .
Ngân hàng tiến hành mở rộng cho vay thì chắc chắn ngân hàng phải có lợi. Những lợi
ích mà ngân hàng có được từ mở rộng cho vay các DNNQD là:
Thứ nhất, Chính là doanh thu và lợi nhuận từ lãi vay và phí dịch vụ khác.
Số dư nợ tăng là chỉ tiêu quan trọng của mở rộng cho vay, khi mà có số dư nợ tăng sẽ là
cơ sở để tăng doanh thu và lợi nhuận. Khi ngân hàng không gặp rủi ro lớn từ các khoản
vay này thì chắc chắn doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng. Hơn nữa, các doanh nghiệp vay
vốn thì tỷ trọng vay vốn trung và dài hạn sẽ tương đối cao do đó các khoản thu từ lãi tăng
nhanh do lãi suất vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất vay ngắn hạn. Cùng với các khoản
thu từ lãi là các khoản thu về dịch vụ như: Dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ
bảo lãnh
Thứ hai, mở rộng cho vay giúp ngân hàng và khách hàng có quan hệ tốt hơn, qua đó mà
ngân hàng có thể có nhiều khách hàng tốt, khách hàng truyền thống. Điều đó làm cho
ngân hàng hoạt động có hiệu quả trước mắt cũng như lâu dài.
Thứ ba, mở rộng cho vay làm cho ngân hàng trở lên hoàn thiện hơn, có kinh nghiệm

hơn trong phân tích khách hàng, thông thạo hơn trong nhiều nghiệp vụ, có nhiều thông
tin hơn để phục vụ kinh doanh có hiệu quả.
1.2.3.3.Đối với nền kinh tế.
Khi mà các DNNQD và ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì đương nhiên lợi ích kinh tế
chung sẽ được nâng cao.

Ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ làm sôi động thị trường tài chính, tiền tệ; tăng cường
huy động vốn trong nền kinh tế; phát huy tốt vai trò dẫn vốn từ những người có vốn đến
những người cần vốn;…
Khi các DNNQD hoạt động tốt thì vai trò tích cức của nó được thể hiện: Nâng cao tính
cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển; Các doanh
nghiệp sẽ đóng góp vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế cao hơn; góp phần giải
quyết việc làm, nâng cao khả năng của người lao động; góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; góp phần làm tăng ngân sách Nhà nước thông qua thuế và lệ phí
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay của ngân hàng với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh .
Quan hệ cho vay của ngân hàng đối với các khách hàng là một quan hệ kinh tế chịu chi
phối, tác động của nhiều nhân tố . Có thể chia làm 2 loại nhân tố tác động đến quan hệ
này là các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan .
1.3.1. Các yếu tố khách quan .
Đây là các nhân tố vĩ mô có tác động rãi đến cả ngân hàng, cả khách hàng được, có ảnh
hưởng lớn đến các quan hệ này. Cụ thể như sau :
1.3.1.1.Môi trường kinh tế, chính trị , xã hội kinh tế, luật pháp.
 Môi trường kinh tế.
Một môi trường kinh tế phát triển ổn định thể hiện ở:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đều đặn.
- Có sự ổn định của các chỉ số căn bản: Chỉ số giá, chỉ số về thu nhập, lãi suất, tỷ
giá
- Sự hội nhập kinh tế trong khu vực và quốc tế
- Trình độ về công nghệ, việc làm

Các chỉ số và diễn biến từ nền kinh tế có tác động rất lớn đến lĩnh vực nhạy cảm như
hoạt động ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm bởi vì: Thứ
nhất, tài sản của ngân hàng chủ yếu hình thành từ tiền gửi, tiền vay (thuộc sở hữu của
nhiều chủ thể ). Do đó bất kỳ một thông tin nào có ảnh hưởng đến tài sản của họ thì họ sẽ
có phả ứng ngay lập tức. Trường hợp của Ngân hàng á châu (ACB) là một ví dụ điển
hình. Khi khách hàng có “tin đồn” về Tổng giám đốc ngân hàng này bỏ trốn khách hàng

đã túc trực ngày đêm để xin rút tiền ra khỏi ACB, điều đó đã gây khó khăn rất lớn cho
ACB và nếu không có sự giúp đỡ của NHNN, UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các
NHTM khác thì hậu quả sẽ còn rất lớn. Thứ hai, Các tài sản của ngân hàng hầu hết là tài
sản tài chính và có tính thanh khoản cao , dễ chuyển đổi nên nó phản ứng nhanh với
những biến động nhỏ của nền kinh tế.
Kinh tế mà ổn định sẽ giúp các DNNQD phát triển mạnh và các ngân hàng kinh doanh
có hiệu quả thì các doanh nghiệp có như cầu vốn nhiều hơn, có khả năng đáp ứng yêu
cầu của ngân hàng tốt hơn; các ngân hàng hàng cũng có đủ các điều kiện về nguồn vốn
và các điều kiện khác để sẵn sàng cho vay. Do đó việc mở rộng cho vay đối với các
DNNQD trở lên dễ dàng hơn. Ngược lại, khi có sự bất ổn từ nền kinh tức thì việc cho
vay các DNNQD trở lên rất khó khăn.
Sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chính là sự tham gia của kinh tế Việt Nam với
kinh tế thế giới thể hiện qua kim ngạch thương mại quốc tế. Sự hoà nhập kinh tế quốc tế
là điều kiện tốt cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, cả hai đều có cơ hội hợp tác, tìm kiếm
khách hàng, tiếp cận công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các ngân
hàng có thể mở rộng cho vay bằng ngoại tệ để các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá,
trang bị máy móc, kỹ thuật công nghệ. Đồng thời, phát triển các dịch vụ như: kinh doanh
ngoại tệ, thanh toán quốc tế
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam có sự hội nhập mạnh mẽ có thể kể ra như: Việt
Nam đã tham gia thị trường tự do thương mại Asian (AFTA); diễn đàn kinh tế Châu á
Thái Bình Dương (APEC); kí hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ Và mục tiêu
đến năm 2005 sẽ chính thức ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đó là điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Ngân hàng tăng thêm khả năng huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời có cơ
hội phát triển nhiều dịch vụ trong kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
 Môi trường an ninh, chính trị, xã hội.
Một môi trường mà chính trị, an ninh, xã hội ổn định thể hiện ở:
- Không có sự tranh giành quyền lực trái hiến pháp và pháp luật.
- An ninh quốc phòng được giữ vững.
- Pháp luật được mọi người tôn trọng.
- Những tệ nạn xã hội phải được đấu tranh và dần bài trừ, xoá bỏ

Yếu tố này không thể tác rời yếu tố ổn định và phát triển kinh tế, không một quốc gia
nào mất ổn định về an ninh chính trị lại có thể có kinh tế phát triển. Nước ta hiện nay có
thể nói là có chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh giá
là có độ an toàn cao. Đó là hai điều kiện hết sức căn bản để phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, ở nước ta, tệ nạn xã hội thực tế còn nhiều nhất là nạn tham nhũng, quan liêu,
cửa quyền, sự hiểu biết pháp luật của người dân rất hạn chế. Điều đó là một trở lực đáng
ngại của con đường phát triển kinh tế đất nước nói chung và mối quan hệ giữa ngân hàng
và các DNNQD.
 Môi trường luật pháp.
Luật pháp được coi là môi trường cho mọi hoạt động, pháp luật chặt chẽ và sự tôn trọng
pháp luật của các thành viên trong xã hội là những điều kiện cơ bản cho mọi mối quan hệ
diễn ra tốt đẹp. Luật pháp điều chỉnh mọi hành động do đó tác động trực tiếp dến các mối
quan hệ trong đó có mối quan hệ giữa ngân hàng với các khách hàng là DNNQD. Hệ
thống các văn bản pháp luật sẽ quy định điều chỉnh mọi họat động trong quan hệ đó,
chẳng hạn quy định của pháp luật Việt Nam là các tổ chức tín dụng cho vay đối với 1
khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Do vậy pháp luật có
mạnh, có hợp lý thì mối quan hệ đó sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, chỉnh sửa nhiều văn bản pháp
luật có liên quan đến quan hệ cho vay của ngân hàng với các DNNQD. Có thể kể ra là
Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật thương
mại cùng hàng loạt các nghị định, quyết định, thông tư và các văn bản pháp luật khác

của chính phủ, các bộ nghành. Tất cả các văn bản pháp luật này điều chỉnh theo hướng
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi. Đó là điều kiện tốt để ngân hàng mở rộng cho vay
các đối tượng này.
1.3.1.2.Hiệu quả hoạt động và khả năng của các DNNQD .
Các doanh nghiệp là người đi vay vốn, ngân hàng có cho họ vay tiền hay không là tuỳ
thuộc vào nhu cầu của họ, tình hình hoạt động của họ và khả năng của họ.
Mục tiêu của ngân hàng là an toàn và lợi nhuận, chính bản thân các DNNQD sẽ là yếu tố
chủ yếu để ngân hàng xem xét chính sách của mình. Nếu các DNNQD hoạt động có hiệu
quả, họ có kế hoạch sản xuất, kinh doanh hợp lý có khả năng tài chính cũng như đáp ứng
các yêu cầu về đảm bảo tiền vay thì đương nhiên sẽ được vay vốn. Ngược lại, các

×