Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 86 trang )






LUẬN VĂN:

Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước, tỉnh Quảng
Nam đến nay đã có những bước phát triển căn bản trên tất cả các mặt về đời sống, kinh tế -
xã hội, v.v Từ năm 2000 đến năm 2005: Tốc độ tăng GDP bình quân đạt 10,4%. Giá trị
sản lượng công nghiệp tăng bình quân gần 26%; dịch vụ tăng 14%; nông nghiệp tăng
4,3%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 25% (năm 2000) tăng lên 34% (năm 2005);
dịch vụ từ 33% tăng lên 35%. Toàn tỉnh có 05 khu và 18 cụm công nghiệp đang thu hút
mạnh đầu tư trong nước và nước ngoài [10, tr 22]. Tuy nhiên, so với tiềm năng về vốn,
tài nguyên, nhân lực thì kết quả đạt được còn chưa tương xứng. Có nhiều nguyên nhân cả


về chủ quan và khách quan; nhưng nguyên nhân chủ yếu và nổi cộm hàng đầu là cơ cấu
kinh tế của tỉnh còn lạc hậu, nhiều điều bất hợp lý cả về nhận thức và thực tiễn. Vì vậy,
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam chủ trương xác định, giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH luôn là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế.
Phương hướng chung và mục tiêu phát triển chủ yếu giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, quyết tâm đổi mới, tạo bước
đột phá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp và dịch vụ” [10, tr 42]. Đồng thời xác định về cơ cấu kinh tế chung trong giai đoạn
2006 - 2015 là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
trước năm 2020 [10, tr 44 ].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với nền kinh tế của tỉnh
là một vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp, luôn đòi hỏi phải có những nhận thức
toàn diện, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cùng với những giải pháp đồng bộ, liên quan đến mọi
ngành, mọi cấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp, nông thôn; chuyển hướng mạnh sang đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, phương
tiện, nhà xưởng, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất; phát triển các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khả năng tiêu thụ tốt là chiến lược chủ đạo trong phát triển kinh
tế của nhiều địa phương.

Để phát huy được tất cả các nguồn lực cho sự phát triển cần phải sử dụng hợp lý, có
hiệu quả các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ.
Trong đó phải chú trọng đặc biệt tới giải pháp về vốn, mà trước hết là khu vực ngân hàng
cần có những giải pháp về vốn tín dụng thích hợp, dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá chuyển đổi từ cơ cấu “nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ” sang cơ cấu “công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp” nhằm khai thông, tạo
động lực cho việc khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực nội tại và nguồn lực nước ngoài
thúc đẩy nhanh quá trình CDCCKT của tỉnh. Thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã
cung ứng vốn đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với tiềm năng và yêu cầu đặt ra
trong quá trình CDCCKT của điạ phương.

Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài: " Giải pháp mở rộng tín dụng ở Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Nam góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên
địa bàn " làm luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng với sự CDCCKT là vấn đề hiện nay đang được
nhiều người quan tâm. Đã có một số công trình khoa học, bài viết được công bố với nhiều
cách tiếp cận khác nhau liên quan đến đề tài như:
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” của tác giả Võ Văn Lâm - Luận án Thạc
sỹ khoa học kinh tế, Học viện CTQGHCM, Hà Nội,1999.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy chuyển dịch kinh tế trên
địa bàn tỉnh Nghệ An” của tác giả Hà Huy Hùng - Luận án thạc sỹ khoa học kinh tế, Học
viện CTQGHCM, Hà Nội,1999.
- "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường" của tác giả Võ Văn Lâm -
Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện CTQGHCM, Hà Nội, 2003.
- “Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng
sông Cửu Long” của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2005.
- “Một số giải pháp tín dụng nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào khu công
nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc” của tác giả Hà Thạch - Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học
Đà Nẵng, 2005

- “Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng nam góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh” của TS. Võ Văn Lâm - Tạp chí Cộng
sản, số 7 (tháng 4/2006).
Các công trình khoa học có các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề nghiên cứu.
Nhằm làm rõ hơn sự tác động của vốn tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy CDCCKT
trên địa bàn tỉnh, tác giả chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu với hy vọng góp phần
nhỏ vào việc phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa vốn tín dụng ngân hàng
với quá trình CDCCK. Đề xuất các giải pháp không ngừng mở rộng tín dụng ở
NHNo&PTNT Quảng Nam phục vụ quá trình CDCCKT trên địa bàn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá để làm sáng tỏ một số vấn đề về tác động của vốn tín dụng ngân hàng
với sự CDCCKT theo hướng CNH, HĐH.
- Phân tích đánh giá thực trạng tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam đối với sự
CDCCKT trên địa bàn trong thời gian qua, chỉ ra những vướng mắc cần tháo gỡ và nguyên
nhân của thực trạng đó.
- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam góp phần
CDCCKT trên địa bàn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tuợng: Nghiên cứu về tác động của vốn tín dụng NHNo&PTNT với sự
CDCCKT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào sự tác động đến 3 loại cơ cấu: cơ cấu ngành và nội
bộ ngành sản xuất trong cơ cấu GDP (cụ thể là ba khu vực chính trong nền kinh tế: nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ), cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu xuất nhập khẩu. Thời gian khảo sát
chủ yếu từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình giải quyết các vấn đề của đề tài, sử dụng các phương pháp khoa học:
Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, thống kê, so

sánh, phân tích và tổng hợp, diễn giải và quy nạp nhằm làm rõ tính quy luật để rút ra kết luận về
những vấn đề được xem xét.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Luận giải tác động của vốn tín dụng ngân hàng với sự CDCCKT theo hướng
CNH, HĐH.
- Làm rõ tác động của vốn tín dụng NHNo&PTNT với sự CDCCKT trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, phát hiện và chỉ ra được những vướng mắc cần tháo gỡ

cũng như nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực, có tính khả thi về mở rộng tín dụng ở
NHNo&PTNT Quảng Nam góp phần CDCCKT trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
3 chương.
Chương 1
tác động của tín dụng ngân hàng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá


1.1. Cơ cấu kinh tế và yêu cầu về vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và những nhân tố tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế
* Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu hay kết cấu là một phạm trù triết học, phản ánh cấu trúc bên trong của một
sự vật, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành
nên sự vật đó trong một thời gian nhất định. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân (KTQD) là
tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế (các lĩnh vực sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng ); các ngành KTQD (công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, giao thông vận tải, y tế, giáo dục ); các thành phần kinh tế ( nhà nước, tập thể, tư
nhân, tư bản ); các vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế (CCKT) là tổng thể các ngành, lĩnh vực,
bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối

ổn định hợp thành[14, tr 15]. Trong thực tiễn, các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
trình độ phát triển của phân công lao động trong nước và quốc tế; quy luật lợi thế tuyệt đối
và lợi thế so sánh, lợi thế của nước đang phát triển; xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời
sống, lý thuyết về tái sản xuất và cân đối liên ngành đã tác động với mức độ nhiều hoặc
ít khác nhau trên các phạm vi từ rộng đến hẹp trong việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế (CDCCKT) của mỗi quốc gia từng thời kỳ nhất định. Vì vậy CCKT là một phạm
trù kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi một quốc gia qua các thời kỳ nhất định.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
CDCCKT là một quá trình đòi hỏi sự tác động phù hợp của nhân tố chủ quan của
con người bằng một hệ thống chính sách và biện pháp đồng bộ, tác động liên tục, phù hợp
với quy luật và điều kiện khách quan thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển CCKT
mới.
Thông thường chuyển dịch CCKT chỉ diễn ra khi:
- Có những thay đổi lớn về điều kiện phát triển;
- Có khả năng và giải pháp mới thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện
tại;
- Trong quan hệ phát triển giữa các bộ phận của CCKT có những trở ngại.
Như vậy, CDCCKT là quá trình làm biến đổi các yếu tố trong cấu trúc kinh tế và mối
quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành nền kinh tế theo một mục đích và phương hướng xác
định. Đó là sự thay đổi về lượng, thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế, các cấu trúc kỹ thuật công nghệ, lao động, đầu tư, sao cho phù hợp
với qui luật khách quan, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới nhằm
làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Vì thế, CDCCKT không chỉ
đơn giản là thay đổi tốc độ và tỷ trọng trong cơ cấu chung của nền kinh tế, mà phải tạo ra
sự thay đổi về chất trong cơ cấu và trình độ phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành
phần, để CCKT được chuyển dịch tới là CCKT hợp lý và hiệu quả nhất.
CDCCKT theo hướng CNH, HĐH là sự vận động và phát triển đi lên để tiếp cận
một CCKT phù hợp nhất, là phương tiện nhằm khai thác tối ưu lợi thế của các ngành, các
lĩnh vực, các vùng để thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế. Đó là quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế từ sử

dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên cơ sở phát triển cao của công nghiệp và
tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ở mức cao

nhất [14, tr 18]. Thực chất CDCCKT là làm biến đổi một nền kinh tế từ thấp đến cao,
từ không cân bằng đến cân bằng, đảm bảo vừa phát triển, vừa tăng trưởng nhanh, vừa
giải quyết vấn đề xã hội và phát triển con người toàn diện.
* Yêu cầu của chuyển dịch CCKT:
- Sử dụng tốt nhất lợi thế so sánh của quốc gia so với các nước khác trên thế giới (ví
dụ như Việt Nam có thế mạnh về du lịch phải tận dụng và phát triển tối đa ngành du lịch,
dịch vụ).
- Khai thác tối đa tiềm năng hiện có của quốc gia, vùng lãnh thổ trên cơ sở nguồn
tiềm lực sẵn có về tài nguyên, lao động nhưng phải chú trọng đến bảo vệ môi trường sinh
thái.
- CDCCKT góp phần tạo nên khối lượng tích luỹ ngày càng lớn trong toàn bộ nền
kinh tế xã hội của đất nước.
- CDCCKT phải đi đôi với việc phát triển và ổn định nền văn hoá xã hội.
- CDCCKT phải kết hợp kinh tế trong nước với kinh tế thế giới trên cơ sở hợp tác
và hội nhập.
1.1.1.2. Những nhân tố tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự CDCCKT chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố kinh tế khách quan và chủ
quan.
- Trình độ phát triển của kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó nhu cầu của con người cần được thoả
mãn thông qua thị trường. Nhu cầu con người lại phụ thuộc vào việc nền kinh tế được phát
triển và chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế như thế nào? Sản xuất cái gì? Sản xuất bằng công
nghệ gì và sản xuất cho ai? Trong nền “kinh tế chỉ huy tập trung”, các câu hỏi trên được
trả lời thông qua cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu và bao cấp gắn liền với một cơ
cấu kinh tế trì trệ, lạc hậu, kém năng động và thiếu hiệu quả. Khi nền kinh tế Việt nam
chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới thì câu trả lời
cho các câu hỏi trên chính là việc xây dựng, phát triển và chuyển dịch sang một CCKT

năng động, thích nghi với sự biến động của nhu cầu thị trường mà trong đó trình độ phát
triển kinh tế thị trường tỷ lệ thuận với trình độ phát triển và CDCCKT theo hướng CNH,

HĐH nền KTQD.
- Vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu:
Mỗi quốc gia có một vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu, mang tính đặc thù. Nét đặc
thù này tác động mạnh đến quá trình CDCCKT. Việt Nam nằm ở vòng cung Châu á - Thái
Bình Dương có sự phát triển kinh tế nhạy bén, năng động đang có những ảnh hưởng rất
lớn đến nền kinh tế toàn cầu với quá trình chuyển dịch sự phát triển kinh tế từ Đại Tây
Dương sang Thái Bình Dương. Các nước nằm ven Thái Bình Dương đang có mức tăng
trưởng cao; có sản phẩm quốc dân bằng 1/6 thế giới; tổng mức ngoại thương chiếm 1/10
và trong vòng 10 năm tới có thể lên 1/2 của thế giới. Với vị trí lợi thế đó, Việt Nam đang
có những điều kiện thuận lợi để khai thác tốc độ phát triển và CDCCKT mở trong thời
gian tới. Đồng thời là một trong những nước phát triển muộn về công nghiệp, Việt Nam
hoàn toàn có lợi thế hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
[41]. Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên nước ta tương đối phong phú chưa được khai
thác nhiều. Các tài nguyên có trữ lượng khá bao gồm: khí hậu nhiệt đới, gió mùa; bờ biển
dài 3260 km với nhiều hải cảng quan trọng nằm trên tuyến đường thuỷ huyết mạch của thế
giới; tài nguyên đất và nước; năng lượng và khoáng sản; tài nguyên rừng biển Đây là
một nhân tố cần coi trọng, liên quan chặt chẽ tới sự hình thành, vận động của quá trình
CDCCKT.
- Nhân tố kinh tế - xã hội:
Các quốc gia khác nhau có những thể chế chính trị, trình độ kinh tế, văn hoá xã hội
hoàn toàn khác nhau nên sự vận động và phát triển lực lượng sản xuất khác nhau và tác động
đến CDCCKT khác nhau. Việt Nam có dân số đông, có nền văn hoá lâu đời, người dân cần cù
lao động, chi phí nhân công thấp và nguồn lao động thiếu việc làm chiếm rất cao trên số lao
động xã hội. Điểm xuất phát của nền kinh tế thấp (sản xuất nhỏ là chủ yếu) lại chịu ảnh hưởng
nặng nề của chiến tranh, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Các nhân tố trên
đồng thời cùng tác động trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn trong quá trình hình thành và
CDCCKT. Với dân số đông, người đến tuổi lao động nhiều thì nhu cầu lao động, nhu cầu việc
làm rất lớn tác động đến quy mô của CCKT khi bố trí trình độ cơ cấu kỹ thuật - công nghệ.
Hậu quả của chiến tranh, của CCKT cũ, làm hạn chế năng lực tích luỹ vốn trong nước sẽ là


nhân tố cản trở quá trình điều chỉnh khi chuyển dịch từ CCKT cũ sang CCKT mới
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ diễn ra trên thế giới và trong nước có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự biến đổi CCKT của mỗi quốc gia. Trước hết, nó làm thay đổi vị trí
của các ngành trong nền KTQD do khoa học kỹ thuật và công nghệ làm thay đổi vai trò
của nguyên liệu, vai trò của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi cần có quan điểm mới
trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong quá trình CDCCKT thực hiện mục tiêu
CNH, HĐH ở nước ta.
- Tiết kiệm và đầu tư vốn:
Tiết kiệm và đầu tư vốn là phương tiện để khai thác các nhân tố tác động của: kinh tế
thị trường, điều kiện tự nhiên, tiềm lực kinh tế - xã hội và tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ phục vụ cho CDCCKT. Với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất
lao động thấp, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp, đời sống nhân dân lao động vẫn còn ở
mức độ thấp dẫn đến khả năng tiết kiệm và đầu tư vốn chiếm trong GDP còn hạn hẹp. Vì vậy,
thực hiện tiết kiệm để đầu tư là điều cần đặt lên hàng đầu để nâng tỷ trọng huy động vốn đầu
tư trong GDP từ 20% trở lên [42]. Đồng thời huy động vốn nước ngoài qua các hình thức đầu
tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp để đáp ứng các nhu cầu trung dài hạn của nền kinh tế (nhất là
xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc ). Ngoài ra một kênh huy động vốn không kém
phần quan trọng là việc huy động vốn thông qua hoạt động tín dụng phục vụ cho CDCCKT ở
nước ta.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI về trước, theo tư
duy cũ với những quan niệm không đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ đã hình
thành và tồn tại CCKT kém năng động, trì trệ lạc hậu và kém hiệu quả; một nền kinh tế
đơn nhất về thành phần kinh tế không khai thác được tiềm năng của toàn xã hội cho công
cuộc phát triển. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đến
nay nhiều quan điểm mới xuất hiện ngày càng rõ nét được cuộc sống chấp nhận và ủng hộ
đã tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử nhận thức về chính trị, kinh tế ở nước ta. Một
loạt các quan điểm đổi mới được đưa ra như: đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát
triển kinh tế; phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN, vận

động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước; thực hiện CCKT “mở”;

CNH gắn liền với HĐH; gắn sự nghiệp giáo dục đào tạo với khoa học - công nghệ
Những quan điểm mới này thực sự trở thành nhân tố chính trị tác động rất quan trọng đến
việc hình thành vào CDCCKT ở nước ta hiện nay.
Giữa các nhóm nhân tố nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và có tác động nhất
định đến việc hình thành và CDCCKT nên cần tính đến tất cả các tác động này thông qua
vai trò quản lý của Nhà nước. Do vậy, suy đến cùng, nhân tố bao quát mang tính hiện thực
của việc hình thành và CDCCKT là vai trò tác động của Nhà nước trên thực tế điều tiết vĩ
mô nền kinh tế.
1.1.2. Yêu cầu về vốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa
- Xuất phát từ yêu cầu về vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng:
CNH, HĐH đất nước là cả một quá trình chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội từ
thủ công lạc hậu lên trình độ công nghiệp hiện đại. Ngày nay không thể tiến hành CNH
chỉ đơn giản là một quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành
KTQD trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quốc tế hoá sản xuất và
đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Để tiến hành CNH tránh nguy cơ tụt hậu, Đảng
ta đã xác định:
"Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển mạnh các ngành và
sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi
trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ
cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Giảm chi phí trung
gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành,
lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân" [9, tr
87-88].

Như vậy, để đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao của toàn bộ nền kinh tế như
trên đã xác định phải có một nền tảng cơ sở hạ tầng hiện đại. Do đó cần thiết đầu tư
vốn xây dựng hệ thống đường giao thông, đường sắt, cầu cảng, sân bay, điện năng,
thông tin liên lạc đáp ứng cho nhu cầu sử dụng, phục vụ phát triển của toàn bộ nền
kinh tế. Đây là các dự án đầu tư cần rất nhiều vốn và công nghệ cao, chậm thu hồi vốn
(có những dự án thu hồi vốn sau hàng chục năm) nên các doanh nghiệp hoặc là không
có khả năng đầu tư hoặc không mạnh dạn đầu tư. Do vậy, chỉ có ngân hàng với chức
năng trung gian tài chính trong nền kinh tế mới có khả năng cung ứng.
-Xuất phát từ nhu cầu vốn của chính các ngành kinh tế trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng côngnghiệp hoá, hiện đại hoá:
Bản thân các ngành kinh tế (mà chủ yếu là công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp)
muốn phát triển đều cần một quá trình tích tụ và tập trung vốn. Một đòi hỏi của chính
bản thân các ngành kinh tế là cần đầu tư để mở rộng và duy trì các nhà xưởng, thiết bị,
nhà hàng, khách sạn với số lượng vốn ngày càng tăng. Đặc biệt với những tính chất
đặc thù trong hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ thì mức đầu tư ngày càng cao.
Cũng chính từ đó đầu tư làm gia tăng năng suất các nguồn của cải của xã hội và tạo ra
mức sống cao hơn cho cá nhân, gia đình và bản thân các ngành kinh tế
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với yêu cầu vốn đầu tư cho công nghệ mới:
Như trên đã xác định, CDCCKT hợp lý là một phần của CNH, HĐH đất nước.
Kinh nghiệm cho thấy các nước có nền kinh tế kém phát triển, tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế thấp không thể có ngay một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại mà phải chuyển
dần từng bước bằng cách tận dụng toàn bộ nguồn lực sẵn có ở trong nước, khơi thông
những lợi thế so sánh của nước mình, thực hiện CNH, HĐH đất nước trên cơ sở lấy
CDCCKT phát huy khả năng sẵn có kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại để khai
thác tối ưu tiềm năng và lợi thế so sánh của mình. Như vậy CNH là một quá trình phát
triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc
dân được động viên để phát triển một CCKT nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật

hiện đại. Điều này đòi hỏi các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế đầu tư các máy
móc thiết bị tiên tiến với công nghệ mới để tạo ra những sản phẩm đáp ứng được nhu
cầu thị trường với chi phí thấp nhất. Từ nhu cầu đó, với khả năng tích tụ và tập trung
vốn thấp thì việc đầu tư vốn cho thiết bị, công nghệ mới chỉ có thông qua tín dụng ngân

hàng. Tín dụng ngân hàng là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ thể và thành phần
khác nhau trong nền kinh tế [40, tr221]
- Sự cạnh tranh trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế:
Sự ra đời và phát triển các mô hình kinh tế mà nhân loại trải qua cho đến nay đã
khẳng định kinh tế thị trường có tác động rất to lớn đối với sự phát triển khoa học công
nghệ, sự thay đổi ngành, vùng kinh tế; tăng năng suất lao động xã hội; thay đổi và phát
triển lực lượng sản xuất xã hội tạo nên những thách thức, đòi hỏi một công cuộc đổi
mới.
Nước ta khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường ở một điểm xuất phát thấp - nền
kinh tế mang nặng tính tự nhiên, tự cấp tự túc, lại chịu ảnh hưởng lâu ngày của mô hình
“kinh tế tập trung” mà thực chất là mô hình “kinh tế tự nhiên” hiện vật được biến dạng với
quy mô lớn diễn ra trong thời kỳ nhân loại phát triển văn minh. Bởi vậy, khi chuyển đổi
nền kinh tế “kinh tế tập trung” sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế
thị trường tất yếu là phải đổi mới cấu trúc hay CCKT cũ, xây dựng và chuyển dịch sang
CCKT mới cho phù hợp với nó và đi đôi với nó chính là vấn đề vốn. Các lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ cũng ngày càng phải mở rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu trong nước, xuất
khẩu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra
gay gắt. Cạnh tranh kéo tất cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế vào vòng xoáy đã
tạo nên các yêu cầu đổi mới từ công nghệ đến phương thức quản lý nhằm đạt hiệu quả cao
nhất. Từ đó đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn để tồn tại và phát triển bền vững.
- Thực tiễn nền kinh tế nước ta đòi hỏi:
Mặc dù trong mấy năm gần đây, nước ta có những bước phát triển nhất định, song
nông nghiệp và nông thôn nước ta cho đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất
nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ còn lạc hậu, năng suất lao
động và năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp. Nông nghiệp nhiều vùng chưa thoát khỏi

tình trạng độc canh cây lúa; con giống và cây giống chưa đổi mới kịp nhu cầu thị trường.
Sản phẩm làm ra khó bán, trở thành nỗi lo của nông dân. Năng suất lao động, vật nuôi, cây
trồng và ngành nghề tăng chậm; thu nhập và sức mua của nông dân còn rất hạn hẹp; nông
nghiệp chưa trở thành thị trường rộng lớn cho sự phát triển công nghiệp.Trong bối cảnh
đó, không thể dừng lại ở sự đổi mới cơ chế kinh tế mà phải thông qua CNH, HĐH để
CDCCKT nông nghiệp nước ta.

Trong lĩnh vực công nghiệp, trình độ công nghệ còn lạc hậu; công nghiệp truyền
thống chậm được đổi mới; ngành công nghệ mới, mũi nhọn hầu như chưa có hoặc mới bắt
đầu; sản phẩm làm ra chưa đảm bảo chắc chắn đứng vững trên thị trường trong nước, nên
rất khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; vì vậy mà khó hội nhập với nền
kinh tế các nước trên thế giới và khu vực
Hệ thống kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất kinh doanh và dịch vụ xã hội tuy có
những tiến bộ nhất định; song về trình độ còn rất thấp kém; nhất là đối với vùng núi, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa so với các nước trong khu vực đã và đang cản trở sự hình thành và
phát triển kinh tế thị trường trong nước; cản trở việc mở rộng đầu tư của nước ngoài vào
Việt Nam.
Với điều kiện thuận lợi so với một số nước về tài nguyên, khí hậu và vị trí địa lý,
nhưng cho đến nay tiềm năng đó chưa được khai thác có hiệu quả. Do đó, muốn giải quyết
thực trạng này thì điều tiến quyết là vấn đề vốn đầu tư. Cần cung ứng vốn đầu tư cho các
ngành, các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để tạo ra được sự phát triển mới, sự
tăng trưởng tiến tới một CCKT hợp lý.
Ngoài ra để thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn
minh” theo định hướng XHCN đã chọn, đưa nước ta nhanh chóng vượt qua ngưỡng nghèo
nàn lạc hậu và tụt hậu trở thành nước có nền kinh tế phát triển đòi hỏi phải CDCCKT hợp
lý. Vì vậy để có thể đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngoài các giải pháp khác về mặt xã hội
thì giải pháp bổ sung và đầu tư vốn là rất quan trọng.
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.1. Mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Khái niệm tín dụng ngân hàng:

Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi
trong một thời gian nhất định. Theo quan điểm của C.Mác: “Tín dụng là một quá trình
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một thời
gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu” [12, tr100].
"Ngân hàng ra đời với vai trò môi giới tài chính trung gian để tập trung các khoản tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các doanh nghiệp và công chúng vay. Do đó, khi một ngân
hàng cho khách hàng của mình vay, bằng cách đó, tạo nên sức mua cho họ thì không làm giảm

sức mua của bất kỳ ai. Đó chính là nét nổi bật nhất trong vai trò của ngân hàng tạo điều kiện
và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ" [19, tr.28].
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, ngày nay tín dụng còn được dùng
để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, ký thác Trong mỗi hành vi tín dụng như trên, hai bên cam kết với nhau và cùng
nhau thực hiện cam kết.
- Một bên trao ngay một số hàng hóa hay tiền bạc.
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại một số hàng hoá hay tiền bạc trong một thời gian
nhất định và theo một số điều kiện nào đó [40. tr133].
Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho
vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
có hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
Quá trình thực hiện tín dụng thực chất không chỉ chứa đựng hai quá trình riêng biệt
cho vay và hoàn trả mà còn bao gồm cả quá trình sử dụng tiền vay được thực hiện trong
lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Như vậy, một quá trình tín dụng khép kín có thể
chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay;

- Giai đoạn sử dụng vốn tín dụng trong quá trình sản xuất;
- Và giai đoạn hoàn trả của tín dụng [40, tr134,135].
Từ những phân tích trên luận văn rút ra:
Thực chất tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa
họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị. Vốn tín dụng được biểu
hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau
một thời gian nhất định quay về với người cho vay với lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Tín dụng được cấu thành từ sự kết hợp của 3 yếu tố chính là: Lòng tin; thời hạn của
quan hệ tín dụng; sự hoàn trả. Đây cũng chính là 3 đặc trưng chủ yếu của tín dụng[12,

tr101]. Cùng với thời gian, hoạt động tín dụng chuyên nghiệp đã xuất hiện và ngày nay,
khi nói tới tín dụng, người ta thường nghĩ ngay tới các tổ chức tín dụng mà đại diện tiêu
biểu là ngân hàng, cơ quan chuyên cho vay, bảo lãnh, chiết khấu và cả phát hành giấy bạc.
Và tín dụng ngân hàng được hiểu là:
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ
theo nguyên tắc hoàn trả giữa một bên là ngân hàng và một bên là các đơn vị kinh tế, các
tổ chức xã hội và dân cư. Quá trình hình thành quan hệ tín dụng chính là quá trình hình
thành các quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội. Đó là mối quan hệ vay mượn có hoàn
trả cả gốc và lãi sau một khoảng thời gian nhất định, là quan hệ chuyển dịch tạm thời
quyền sử dụng vốn, là quyền bình đẳng cả hai bên đều có lợi. Trong nền kinh tế thị trường,
đại bộ phần quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung
cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu
vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân mà còn tham gia
cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất. Ngoài
ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như
vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời [40, tr222].
* Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế thuộc về kinh tế hàng hoá, là mối quan hệ kinh tế
phát sinh giữa hai chủ thể về khả năng và nhu cầu tiền tệ, có nhu cầu chuyển nhượng giá

trị và chấp nhận giá trị. Tín dụng không chỉ là một hình thức vận động của vốn tiền tệ (vốn
vay) mà còn là một loại quan hệ xã hội, trước hết là lòng tin. Từ xa xưa, tín dụng dựa trên
lòng tin là chủ yếu, đến nay nó được bảo trợ của pháp luật nhà nước. Song tín dụng không
phản ánh mọi mối quan hệ xã hội, mà chỉ là những quan hệ xã hội biểu hiện các mối liên
hệ vay mượn. Tín dụng biểu hiện các mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình phân phối
lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả. Cơ sở vật chất của tín dụng là tiền tệ và hàng hoá
[12, tr100].
Đặc điểm của tín dụng biểu hiện ở các chủ thể của nó, những người cho vay và
những người đi vay. Trong quan hệ tín dụng phải có mặt đồng thời cả hai chủ thể: Người
vay và người cho vay. Quan hệ tín dụng có thể xuất hiện giữa các Nhà nước, giữa các tổ
chức kinh tế và ngân hàng, giữa các tổ chức kinh tế với nhau, cũng như giữa các cá nhân

với nhau.
Người cho vay là chủ thể cấp tín dụng. Để cấp tiền vay, người cho vay cần phải có
một lượng giá trị tài sản nhất định, mà nguồn của nó có thể là tiền vốn tự có, là hàng hoá
hoặc tài sản vay mượn ở các chủ thể khác của quá trình tái sản xuất. Hiện nay, ngân hàng
cấp tín dụng chủ yếu bằng nguồn vốn huy động. Cùng với sự hình thành hệ thống ngân
hàng, đã diễn ra sự tập trung tín dụng. Các ngân hàng trở thành người đại diện cho tất cả
những người cho vay bằng tiền. Với tư cách đó, ngân hàng có thể động viên mọi nguồn
vốn tạm thời chưa sử dụng trong nền KTQD. Trong tín dụng thương mại, một hình thức
tín dụng khá phát triển trong kinh tế thị trường, là người cho vay chuyển cho người đi vay
bằng các hàng hoá đang được tiêu thụ và khi đó chưa xuất hiện ngay các quan hệ thanh
toán bằng tiền tệ.
Người đi vay là chủ thể thứ hai trong quan hệ tín dụng. Vị trí của người vay trong
quan hệ tín dụng về cơ bản khác với người cho vay về tư cách sở hữu vốn, sử dụng vốn và
tính định đoạt, trách nhiệm hoàn trả vốn.
Tính hoàn trả tiền vay là một trong những dấu hiệu thể hiện bản chất của tín dụng.
Khác với các hàng hoá khác, giá trị và giá trị sử dụng của nó trong khi bán được chuyển từ
người bán sang người mua, còn vốn được chuyển giao thông qua tín dụng chỉ tạm thời
chuyển nhượng quyền sử dụng. Thực chất trong quan hệ tín dụng, chỉ có giá trị sử dụng

được chuyển đến người chủ mới. Tính hoàn trả không tự nó xuất hiện mà dựa vào quá
trình vật chất, vào sự kết thúc tuần hoàn vốn và được đảm bảo bằng hiệu quả cụ thể sau
một chu kỳ sử dụng vốn cuả người vay cá biệt [40, tr134]. Như vậy bản chất của tín dụng
được thể hiện là hình thức vận động của vốn tiền tệ trong xã hội theo nguyên tắc có hoàn
trả nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức
sống cho dân chúng.
1.2.2. Nội dung, vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
* Nội dung của hoạt động tín dụng ngân hàng:
Trong nền kinh tế hàng hoá, tín dụng thực hiện 2 chức năng cơ bản là:
Thứ nhất, tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả. Thực hiện
chức năng này, tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối

lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu
về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Tập trung và phân phối lại
vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. ở đây tín
dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh
tế, trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu[7, tr215].
Thứ hai, phản ánh một cách tổng hợp và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.
Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ yêu
cầu tái sản xuất, tín dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình
hoạt động của nền kinh tế[7, tr102]. Do đó, tín dụng còn được coi là một trong những công
cụ quan trọng của Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các tiết kiệm tiền
mặt trong lưu thông, do tín dụng gắn liền với thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế. Đồng thời, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm
quốc dân trong nền kinh tế.
* Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Tín dụng ngân hàng, trên góc độ là một kênh đầu tư vốn quan trọng vào quá trình
CDCCKT có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CDCCKT. Được thể hiện trên
những vai trò chủ yếu sau:

Một là, góp phần khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hóa tỷ
suất lợi nhuận, thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. Tín dụng ngân hàng luôn chuyển
hướng đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào
những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng góp phần làm thay đổi
quan hệ cung cầu hàng hóa và thay đổi CCKT.
- Thông qua đầu tư vào các tổ chức kinh tế của từng ngành kinh tế, sẽ làm cho thay
đổi nội bộ ngành kinh tế. Từ đó làm thay đổi CCKT ngành; đây là loại cơ cấu quan trọng
nhất và là yếu tố quyết định nhất, tín dụng ngân hàng tác động vào để chuyển dịch tất cả
các loại CCKT, song chuyển dịch CCKT ngành là rõ nét và bao trùm. Tín dụng ngân hàng
góp phần hình thành các vùng trọng điểm, như các khu công nghiệp tập trung, khu công
nghệ cao, các vùng công - nông nghiệp kết hợp, thay đổi cơ cấu cây con, để thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành. Chẳng hạn: Ngành nông nghiệp, thông qua cho vay thu mua
lương thực, thực phẩm để chế biến và xuất khẩu, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện khai

thông thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, kích thích nông nghiệp phát triển. Nhờ cho
vay trung và dài hạn đã hình thành và mở rộng các vùng trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp, vùng nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả và năng suất cao Hoặc ngành công nghiệp,
thông qua tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình sắp xếp lại lực lượng công nghiệp hiện có
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
- Tín dụng ngân hàng tác động vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Tín dụng
ngân hàng tham gia vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả của các thanh phần kinh tế.
Vì thế muốn tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế đều phải tự khẳng định mình.
Thực tế cho thấy có nhiều DNNN làm ăn thua lỗ, sau cổ phần hoá thì lại phát triển tốt. Tín
dụng ngân hàng cũng đầu tư vào các tổng công ty lớn thuộc ngành kinh tế mũi nhọn của
Nhà nước. Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều chỉnh tỷ trọng các thành phần
trong nền kinh tế và thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn.
Nước ta có tài nguyên thiên nhiên ưu đãi, dân nông nghiệp chiếm đại đa số và hình thành
nhiều làng nghề. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà có thêm nhiều sản phẩm của làng nghề đạt

tiêu chuẩn xuất khẩu ra nước ngoài thu được lợi nhuận cao.
Hai là, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp và nền kinh
tế.
Tín dụng ngân hàng có chức năng giám sát bằng đồng tiền để đảm bảo hiệu quả của
đồng vốn cho vay không bị mất gốc và sinh lời, nên tín dụng ngân hàng cần phải đầu tư
vào các dự án, các đơn vị làm ăn có hiệu quả, có sức cạnh tranh lớn. Để vay được vốn
ngân hàng, các doanh nghiệp, cá nhân phải tính toán, cân nhắc các dự án trước khi xin vay.
Quá trình sàng lọc, tín dụng ngân hàng sẽ đầu tư vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân sản
xuất kinh doanh có yếu tố đầu vào thấp nhưng đầu ra được thị trường chấp nhận. Vì vậy,
các đơn vị phải tiết kiệm chi phí, tăng vòng quay vốn, tăng năng suất lao động để hạ giá
thành sản phẩm. Kết quả là thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế trong hoạt động kinh doanh [12, tr103].
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM phải thường xuyên cạnh tranh với nhau,
nên các sản phẩm dịch vụ ra đời ngày càng đa dạng, phong phú và phù hợp với các nhu
cầu của doanh nghiệp và cá nhân. Vì thế, các tổ chức và cá nhân khi tạm thời thừa vốn sẵn
sàng gửi vào ngân hàng để nâng cao hiệu quả vốn, doanh nghiệp vay vốn ngân hàng sử

dụng vốn có hiệu quả hơn. Kết quả đồng vốn của doanh nghiệp, cá nhân và NHTM có hiệu
quả hơn, làm cho vốn của toàn bộ nền kinh tế được sử dụng hiệu quả hơn .
Ba là, tác động tới sự hình thành đồng bộ hệ thống thị trường tạo điều kiện thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hệ thống thị trường càng đầy đủ thì các câu hỏi: Cái gì? như thế nào? cho ai? càng
đòi hỏi phải được trả lời đầy đủ chính xác. ở đó, các nhà sản xuất kinh doanh và người tiêu
dùng đã tìm đến với nhau và hiểu nhau không phải bằng lời nói mà phải thể hiện bằng vật
chất, hàng hoá, thành phẩm, vật phẩm cần trao đổi.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã cho các nhà sản xuất kinh doanh, dịch
vụ vay vốn để cung cấp hàng hoá dịch vụ thị trường cần. Thị trường lại tạo cho các xí
nghiệp hoạt động một cách độc lập, động viên tính tích cực của từng đơn vị qua cạnh tranh
lành mạnh để điều tiết phân phối nguồn tài nguyên, nhân lực, vật lực, tài lực một cách hợp
lý, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián

đoạn, dần dần hệ thống thị trường sẽ hình thành và phát triển [40, tr54].
Người sản xuất kinh doanh dịch vụ càng có nhiều vốn, thị trường càng sôi nổi. Đối
với những nước có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn rất ít nên phụ thuộc vào nguồn
vốn đi vay là chủ yếu. Tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời
gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc
độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế [40, tr54].
Bốn là, góp phần thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng tạo điều kiện đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH ở nông thôn. Các khu công nghiệp ở thành thị có mật độ dầy, gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng và không có khả năng để mở rộng hơn nữa. Tất yếu các
khu công nghiệp sẽ phải mở rộng về nông thôn, nơi đất rộng, người đông, lao động rẻ làm
giảm yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Với hình thức cho vay ngắn hạn các công trình
xây dựng, tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng vốn cho bên thi công để thuê nhân công, thiết bị,
mua nguyên vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp tập trung, khu công nghệ cao ở nông thôn. Ngân hàng còn cho các doanh nghiệp, cá
nhân vay vốn dự án trung và dài hạn có hiệu quả cao ở các khu công nghiệp tập trung, khu
công nghệ cao, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến.

Thời đại khoa học kỹ thuật công nghệ của thế giới phát triển như vũ bão thì việc áp
dụng khoa học đã có vào các nước đang phát triển là cần thiết. Vốn Nhà nước không thể có
đủ và kịp thời bằng vốn tín dụng ngân hàng. Các doanh nghiệp và cá nhân muốn đổi mới
và ứng dụng công nghệ mua sắm thiết bị tiên tiến nhằm nâng cao năng suất lao động, tạo ra
sản phẩm có chất lượng cao, để tăng sức cạnh tranh đều cần phải có vốn. Khi sự tích luỹ của
các doanh nghiệp còn nhỏ và thấp thì tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng đưa vốn kịp thời cho nhu
cầu này, góp phần đẩy nhanh CDCCKT theo hướng CNH, HĐH đất nước.
Năm là, góp phần lành mạnh tình hình chính trị, xã hội và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tri thức.
Tín dụng ngân hàng cho vay làng nghề truyền thống, cho vay đi lao động xuất khẩu,
cho vay tạo việc làm để người lao động có thu nhập say mê công việc, vừa tạo ra tích luỹ

cho bản thân gia đình và xã hội vừa góp phần giữ trật tự chính trị - xã hội. Tình hình chính
trị - xã hội ổn định, sẽ góp phần CDCCKT được thuận lợi hơn và có hiệu quả hơn.
Tín dụng ngân hàng còn cho các sinh viên vay để trang trải chi phí trong quá trình
học tập, tạo điều kiện cho những học sinh học giỏi nhưng có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế
được yên tâm học tập, phát huy tài năng sau này cho đất nước. Giáo dục đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế tri thức. Nguồn nhân lực dồi dào,
kinh tế tri thức phát triển sẽ góp phần đắc lực để CCKT chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH.
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất to lớn đối với việc CDCCKT. Thông qua các chính
sách, quy định của Ngân hàng Nhà nước và cơ chế quản lý tín dụng của NHTM, tín dụng
ngân hàng đã tác động gián tiếp và trực tiếp vào việc mở rộng khối lượng cung ứng vốn cho
nền kinh tế một cách hiệu quả để thực hiện việc CDCCKT theo hướng CNH, HĐH đất nước
và cũng chính từ đó tạo nên những hiệu quả kinh tế xã hội to lớn hơn.
1.2.3. Yêu cầu mở rộng tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong CDCCKT thì CDCCKT ngành có vai trò quyết định nhất vì nó quyết định
sản xuất cái gì? bao nhiêu? chất lượng ra sao? Sản xuất cho ai? Có phù hợp với yêu cầu
của thị trường không? Trong tổng GDP hàng năm thì giá trị sản lượng ngành nông nghiệp
mặc dù vẫn tăng tuyệt đối nhưng phải giảm về tương đối còn giá trị sản lượng ngành công
nghiệp và dịch vụ thì tăng cả về số tuyệt đối, số tương đối và ngày càng chiếm tỷ trọng cao

trong GDP. Đảng ta xác định: “Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thuỷ lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương” [9, tr88]. Phấn đấu đạt được cơ cấu
nông nghiệp, nông thôn hợp lý với chuyển đổi mạnh cơ cấu nội ngành, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ sinh học để thâm canh, tăng năng suất và tăng giá trị trên một đơn vị
diện tích cây trồng, vật nuôi. Phát triển mạnh công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và
dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Bên cạnh đó cần thực hiện CDCCKT theo vùng kinh tế. Đó chính là lựa chọn vùng

nào sản xuất cái gì phù hợp với điều kiện tự nhiên, khả năng kinh tế xã hội trong vùng đó;
sản xuất bao nhiêu? để khai thác tối đa thế mạnh về tài nguyên của từng vùng nhằm đạt
hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất
Ngoài ra cần thực hiện CDCCKT theo thành phần kinh tế. Tức là lựa chọn thành
phần kinh tế nào sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu thì có khả năng khai thác tối đa tiềm
năng sẵn có tiềm tàng của thành phần kinh tế đó với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất
Vì những lý do trên, việc mở rộng tín dụng NHNo&PTNT đối với CDCCKT trên địa
bàn là một yêu cầu tất yếu. Điều này xuất phát từ thế mạnh của NHNo&PTNT là một NHTM
quốc doanh trong hệ thống ngân hàng Việt Nam với màng lưới chi nhánh trải khắp từ thành thị
đến vùng đồng bằng, vùng sâu, vùng xa có khách hàng truyền thống trên thị trường nông
nghiệp, nông thôn, có nhiều kinh nghiệm trong quá trình phục vụ nhu cầu vốn cho phát triển
kinh tế trong cả nước cũng như trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc sử dụng đòn bẩy tín dụng để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.3.l. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới và khu vực Đông Nam á về sử
dụng vốn tín dụng ngân hàng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Qua thực tiễn của một số nước: Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản, nổi lên một số
kinh nghiệm chủ yếu sau [11]:
Trung Quốc: Sáng kiến tập thể là thể hiện sự tăng trưởng nhanh của các ngành nghề
gia đình. Bằng các hình thức cho vay phù hợp của ngân hàng đối với làng nghề mà các

ngành nghề gia đình phát triển mạnh và sản phẩm được đem bán ở thị trường. Các hình
thức sở hữu của ngân hàng cạnh tranh mạnh trên thị trường đã đua nhau cho vay để xây
dựng cơ sở hạ tầng, đường sá nông thôn, các trung tâm buôn bán nhỏ nên đã hình thành thị
trường truyền thống đại lý bán buôn các sản phẩm, tạo điều kiện để phát triển các làng
nghề chuyên sâu. Mỗi làng nghề chuyên sâu làm ra một loại sản phẩm độc đáo. Vì thế các
khu kinh tế đã ra đời bằng nguồn vốn chủ yếu của người thân ở Hải ngoại và vốn vay ngân
hàng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Sản phẩm sản xuất ra được những nhà buôn
bán đường dài cả trong và ngoài tỉnh tiêu thụ. Vì vậy, khi hệ thống chính sách chưa được
hoàn thiện, ngân hàng thường hay đầu tư vào các DNNN. Từ năm 1993 - 1996 các DNNN

ở Trung Quốc được vay vốn ngân hàng tới 90% trong tổng số vốn kinh doanh của họ. ở
nơi nào, thành phần kinh tế nào được ngân hàng đầu tư nhiều thì ở nơi đó thành phần kinh
tế đó có điều kiện phát triển. Ngược lại, nếu thiếu đường lối hướng dẫn của nhà nước, tín
dụng ngân hàng đầu tư vào nền kinh tế sẽ bị rủi ro rất cao hoặc bảo hộ ngân hàng quá mức
sẽ giảm tính tự chủ, năng động và tính chịu trách nhiệm của ngân hàng cũng đem đến rủi
ro lớn trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Singapore: Việc huy động vốn trong nước, chủ yếu tập trung thông qua ngân hàng
tiết kiệm. Thời kỳ đầu khi chưa có đủ vốn để đầu tư lớn, nhà nước quy định phải tiết kiệm
42% tiền lương của người lao động mà ngân hàng tiết kiệm là người thực thi. Khi nền kinh
tế đã chuyển đến điểm cân bằng tăng trưởng cao thì tiết kiệm cũng cao. Lúc này, chính phủ
không phải quy định bắt buộc về tiết kiệm nữa, mà các NHTM phải tự tổ chức huy động,
người dân tự nguyện gửi tiết kiệm và mức tiết kiệm của họ cũng rất cao, thường xuyên đạt
31% GDP. Trên cơ sở vốn huy động được các NHTM cho vay nền kinh tế, đặc biệt những
dự án lớn gồm cả các NHTM nhà nước và ngân hàng tư nhân cùng tham gia. Nhà nước chỉ
tạo điều kiện về hành lang pháp lý, đường lối chính sách còn các công ty phải tự chịu trách
nhiệm về kinh doanh có hiệu quả đảm bảo tồn tại và phát triển. Nhờ có đường lối đúng
đắn, đi đúng quy luật khách quan, tận dụng hết lợi thế của mình, Singapor đã có bước
CDCCKT đáng kể, tỷ trọng dịch vụ trong GDP lớn tạo ra mức tăng trưởng kinh tế khá cao,
từ năm 1970 - 1990 tốc độ tăng trưởng bình quân 8% năm. Từ đó mà cơ sở hạ tầng ngày
được cải thiện và xây dựng ở mức khá hoàn chỉnh.
Nhật Bản: Lại diễn ra quá trình chuyển hoá sâu sắc trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, ở đây quá trình HĐH thực hiện theo kiểu cải biến ''xã hội truyền thống'' thành ''xã hội

phương Tây'' nhưng vẫn giữ được tính độc lập cao về chính trị và kinh tế. Như vậy, CNH,
HĐH ở Nhật bắt đầu từ thời kỳ Minh trị (1868), họ đã tiếp thu một cách chọn lọc tri thức,
khoa học kinh nghiệm của các nước đi trước với bản sắc truyền thống dân tộc của mình tạo
một khuôn khổ để các doanh nghiệp phát huy được tiềm năng với tốc độ tăng trưởng
nhanh chóng. Tự trang bị cho mình trật tự kinh tế với khẩu hiệu ''Nhật Bản hoá '' để hình
thành hệ thống giáo dục hiện đại mang tính truyền thống, chính trị mạnh, hệ thống tiền tệ
ổn định, giao thông vận tải, bưu điện phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường: Nhà

nước chỉ tạo ra môi trường pháp lý và kinh tế ổn định còn các nhà quản lý công ty phải tự
chịu trách nhiệm về công việc của mình, tính hiệu quả công tác quản lý của công ty được
đưa lên hàng đầu để cạnh tranh. Các công ty lớn cạnh tranh với nhau đưa khoa học công
nghệ tiên tiến của thế giới vào đất nước còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ cải tiến nâng cao
công nghệ hiện có. Ngân hàng thương mại của các thành phần kinh tế cũng cạnh tranh với
nhau để tài trợ cho các công ty và cá nhân kinh doanh thực hiện cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật. Bằng các hình thức huy động tiết kiệm chuyên sâu từ thành thị đến nông thôn,
ngân hàng đã tập trung được lượng vốn lớn để cung ứng cho nền kinh tế, nên hiệu quả
kinh tế của xã hội được nâng lên rõ rệt.
Từ kinh nghiệm của các nước nêu trên, luận văn rút ra những kinh nghiệm sử dụng
giải pháp mở rộng tín dụng ở NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam cho quá trình phát triển kinh
tế nói chung, cho CDCCKT nói riêng có thể áp dụng vào tỉnh Quảng Nam.
1.3.2. Những kinh nghiệm sử dụng vốn tín dụng ngân hàng áp dụng vào sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam [17, tr.68-72]
- Nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh ổn định như hệ thống pháp luật đồng bộ,
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia. ổn định tiền tệ trong nước để khuyến khích đầu tư
trong nước và nước ngoài. Cụ thể hoá chủ trương chính sách phù hợp với đặc điểm phát
triển kinh tế riêng của mình để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư.
- Trên cơ sở chính sách của Nhà nước, của tỉnh, các doanh nghiệp, các tổ chức tín
dụng tự do phát triển và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, lấy hiệu quả
hoạt động làm thước đo tồn tại và phát triển trong cơ chế cạnh tranh.
- Thực hiện đường lối phát triển kinh tế mở, kết hợp khoa học hiện đại của các nước
khác với công nghệ ngành nghề vốn có trong tỉnh để thực hiện CNH, HĐH nền kinh tế

tỉnh. Phát huy lợi thế của tỉnh để thực hiện CDCCKT từ nông nghiệp sang công nghiệp chế
biến và chuyển mạnh sang dịch vụ du lịch. Chuyển hướng sản xuất từ nhập khẩu sang xuất
khẩu là chính, sao cho hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Đó cũng là cơ sở để ngân hàng đầu
tư cho nền kinh tế, đồng thời vốn đầu tư có hiệu quả.
- Mở rộng khả năng tăng tổng mức đầu tư trong tỉnh ở mọi giai đoạn của quá trình
CDCCKT thì sự tích tụ và đặc biệt tập trung vốn qua tín dụng ngân hàng là quan trọng

nhất. Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng sẽ huy động vốn
tiền gửi ở mọi tầng lớp trong tỉnh, ngoài tỉnh và đầu tư lại nhờ nghiệp vụ cho vay đối với
doanh nghiệp và hộ cá nhân.
- Xây dựng một "sân chơi" cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng, thực
hiện cho vay chính sách xã hội riêng biệt thông qua ngân hàng chính sách đối với các hộ
nông dân nghèo vay với lãi suất thấp nhằm xoá đói giảm nghèo, cho vay sinh viên để đào
tạo nhân tài
Những kinh nghiệm trên đây được rút ra từ các nước trên thế giới tiến hành CNH,
HĐH thành công. Thời gian CDCCKT theo hướng CNH, HĐH dài hay ngắn là do áp dụng
vào điều kiện của mình, tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo để phù hợp với đặc điểm
và điều kiện cụ thể từng giai đoạn phát triển kinh tế tỉnh Quảng Nam.
Do đó, để CDCCKT theo hướng tích cực cần phải xây dựng CCKT trên cơ sở phù
hợp với các điều kiện khách quan, chủ quan và phát huy được các lợi thế so sánh, kết hợp
với HĐH để có hiệu quả cao nhất. Đồng thời phải tính tới các nhân tố tác động tới quá
trình CDCCKT. Các yếu tố này có mối quan hệ mật thiết và tác động vào nhau để thúc đẩy
quá trình chuyển dịch nhanh hoặc ngược lại. Nên khi xây dựng các CCKT không thể bỏ
yếu tố này, trọng yếu tố kia, mà tùy vào điều kiện cụ thể theo không gian và thời gian mà
xác định yếu tố nào là trọng tâm; từ đó xác định đối tượng đầu tư tín dụng mới có hiệu quả
thiết thực cho quá trình CDCCKT.
Tín dụng ngân hàng với quá trình CDCCKT đối với các nước có nền kinh tế kém
phát triển lại càng nổi rõ khi ngân hàng, cơ quan trung gian huy động và tập trung vốn
nhàn rỗi để cho vay, sẽ đáp ứng lượng vốn lớn và có hiệu quả cho nền kinh tế để thực
hiện CDCCKT theo định hướng có sự quản lý của Nhà quản. Trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam, điều này càng có ý nghĩa.

Chương 2
Thực trạng tác động của tín dụng
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn



2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh quảng nam và hoạt động
của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam nằm ở khu vực miền Trung Việt Nam, cách Thủ đô Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh một giờ bay, giáp với Lào và đông Bắc Thái Lan bằng một hệ thống
đường bộ thuận lợi, gần đường hàng hải quốc tế. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại thị xã Tam Kỳ
nằm trong tuyến đưòng bay A1, có hệ thống đường sắt và đường bộ xuyên quốc gia. Diện
tích tự nhiên: 10.408,78 km
2
, trong đó vùng đồng bằng ven biển chiếm 25% diện tích; có
17 huyện, thị xã (trong đó có 08 huyện miền núi: Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang,
Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn, Hiệp Đức và Tiên Phước), chiếm khoảng 3,1%
diện tích tự nhiên cả nước. Dân số: 1,454 triệu người; mật độ dân số trung bình 141
người/km
2
; 83,6% là dân số sống trong khu vực nông thôn trong đó có 54% trong độ tuổi lao
động (chiếm khoảng 1,8% dân số cả nước), là nguồn nhân lực dồi dào và ổn định cho sự phát
triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Quảng Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế
để phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và du lịch.
+ Về nông, lâm, ngư nghiệp: Với sự phong phú về thổ nhưỡng, ưu đãi về khí hậu,
Quảng Nam đã và đang phát triển mạnh các loại cây công nghiệp dài ngày như cây tiêu,
cây quế có giá trị xuất khẩu cao; và các loại cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày
như dứa, chè, dâu tằm, mía, sắn, điều Tổng diện tích đất sản xuất nông, lâm nghiệp của
Quảng Nam là 1.040.742ha, trong đó có 83.727ha phát triển nông nghiệp và 443.868ha đất
dùng vào lâm nghiệp, rừng tự nhiên 389.675ha, rừng trồng 54.179ha Đồng thời điều kiện
còn cho phép phát triển mạnh ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm. Với 125 km bờ biển và
40.000 km
2

ngư trường, sản lượng khai thác hàng năm khoảng 50.000 tấn hải sản các loại,
diện tích nuôi trông thuỷ sản khoảng 5.000ha, trong đó có hơn 1.000ha nuôi tôm nước lợ

×