LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng hoạt động cho
vay của Ngân hàng Thương mạI
Lời mở đầu
Hệ thống các ngân hàng thương mại là một bộ phận của ngân hàng trung gian, chiếm
một vị trí quan trọng nhất về qui mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Bởi lẽ nằm
trong hệ thống ngân hàng trung gian cho nên Ngân hàng Thương mại cũng có hoạt động thu
gom nguồn tích luỹ nhỏ từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân để tạo thành vốn
kinh doanh của nó rồi tiến hành cho vay. Cứ như vậy tạo nên dòng luân chuyển vốn trong
nền kinh tế. Điều đó một mặt đáp ứng nhu cầu về vốn của những người đi vay để phát triển
sản xuất, mặt khác lại làm gia tăng những khoản vốn nhàn rỗi, đồng thời cũng đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp
vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian
( dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn , thông tin…). Trong ba lĩnh vực này thì nghiệp vụ cho
vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng Thương mại, đồng thời cũng là
nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro. Nghiệp vụ này luôn được đặt trong mối quan tâm hàng
đầu của Chính phủ và bản thân các Ngân hàng Thương mại bởi nó ảnh hưởng lớn đến sự tồn
tại và phát triển của Ngân hàng Thương mại cũng như đảm bảo cung ứng vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc bảo đảm an toàn cho nó đang là
vấn đề hết sức bức bối tại hầu hết các Ngân hàng Thương mại trên thế giới nói chung và tại
Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên em muốn đi sâu nghiên cứu đề tài
về cho vay để có thể tìm hiêủ thêm về bản chất và hoạt động của một nghiệp vụ chứa đầy
những yếu tố rủi ro bất ngờ này.
Chương I
Tổng quan về nghiệp vụ cho vay
trong Ngân Hàng thương Mại
1- vai trò của nghiệp vụ cho vay đối với Ngân hàng thương mại
NHTM huy động tiền từ các cá nhân, các doanh nghiệp và các hình thức tín dụng
khác và đương nhiên ứng với mỗi loại tiền gửi do các ngân hàng phải chi trả cho một khoản
lãi nhất định. Để đảm bảo khả năng chi trả, ngân hàng sẽ phải sử dụng phần lớn khoản tiền
huy động đưa vào các hoạt động kinh doanh như cho vay, đầu tư … . Trong đó cho vay là
hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM tạo ra lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng. Sở dĩ
cho vay được coi là một trong những loại hình quan trọng nhất không thể thiếu được của các
ngân hàng bởi lẽ chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp mọi chi phí mà các ngân
hàng phải bỏ ra như: Chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, quản lý, thuế và
các chi phí rủi ro đầu tư…
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của tầng lớp dân cư các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế ngày càng lớn. Do vậy
lượng cho vay của các NHTM càng tăng và kèm theo nó thì các loại hình cho vay ngày càng
được mở rộng và phát triển hết sức đa dạng. ở các nước phát triển hàng đầu thế giới thì nhu
cầu vay dài hạn đã dần thay thế cho nhu cầu ngắn hạn. Trong khi đó thì ở các nước đang
phát triển, hầu hết cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ lệ lớn so với cho vay trung và dài hạn.
Điều đó cũng có lẽ bởi các nước này vẫn chưa tìm được biện pháp khắc phục, hạn chế sự
thiếu an toàn cho các khoản vay dài hạn. Họ e sợ cùng với nền kinh tế đất nước còn yếu
kém, lạc hậu mà rủi ro của các khoản vay dài hạn đó xảy ra đồng thời sẽ dấn đến sự sụp đổ,
nợ nần của các NHTM ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Nói đến cho vay tức là nói đến rủi ro cao. Đa phần rủi ro tín dụng xẩy ra đều bắt
nguồn từ những khoản cho vay của NHTM. Đối với những khoản cho vay càng lớn thì độ
rủi ro càng cao. Mỗi một khoản rủi ro lớn xẩy ra nó tác động mạnh mẽ đến hoạt động của
ngân hàng. Có thể nói nghiệp vụ cho vay là một nghiệp vụ phức tạp, độ an toàn thấp,rủi ro
cao nhưng lại là hoạt động không thể thiếu được, quyết định và ảnh hưởng rất lớn đến sự
tồn tại và phát triển của NHTM. Nó chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu tổng tài sản của ngân
hàng (trên , dưới 70%).
2. Phân loại Ngân hàng cho vay
Nghiệp vụ cho vay có rất nhiều căn cứ để phân loại, như: Căn cứ vào mục đích, căn
cứ vào thời hạn cho vay, căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, căn cứ vào hình
thái giá trị của tín dụng …. Ta có thể xem xét một số hình thức phân loại sau:
2.1-Phân loại dựa vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn
Loại cho vay này có thời hạn dưới một năm, được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu
động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tại các NHTM
Việt Nam hiện nay thì tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn
Loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 hoặc 5 năm , được sử dụng chủ yếu để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong công
nghiệp thì chủ yếu là cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng: máy cày , bơm nước,
xây dựng các vườn cà phê, điều
- Cho vay dài hạn
Đây là loại vay có thời hạn trên 3 hoặc 5 năm, là loại tín dụng cung cấp để đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như xây nhà ở, xây dựng các xí nghiệp mới, mua sắm các thiết bị,
phương tiện vận tải với quy mô lớn.Hiện nay các NHTM đang cố gắng nâng cao tỷ trọng
cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Mặc dù độ rủi ro gặp phải là
rất lớn nhưng bù lại lãi suất cho vay rất cao, có khả năng đem lại lợi nhuận lớn cho ngân
hàng.
2.2 Phân loại dựa trên mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không có đảm bảo:
Là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của người
thứ ba mà việc cho vay được thực hiện chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Đối với
khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu
quả thì ngân hàng có thể tin tưởng sẵn sàng cấp tín dụng mà không cần một nguồn thu nợ
thứ hai bổ sung. Hình thức cho vay này sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho ngân hàng nếu như có
sự nhầm lẫn, sơ ý trong việc đánh giá, phân tích, thẩm định hồ sơ khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải đi kèm
theo tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng thực sự
thiếu tin tưởng đối với khách hàng nên sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có
thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất nếu như xảy ra một sự cố
nào đó trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
3- Quy Trình cho vay.
3.1-Hợp đồng cho vay.
3.1.1-Khái niệm hợp đồng cho vay.
Hợp đồng cho vay là cơ sở pháp lý để xác lập mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng
và khác hàng đồng thời cũng là công cụ để quản lý tiền cho vay và những rủi ro có thể xẩy
ra.
Hợp đồng cho vay thường được viên cố vấn pháp lý của ngân hàng chuẩn bị và được
luật sư của người vay duyệt lại. Các điều khoản trong mỗi hợp đồng sẽ được điều chỉnh thay
đổi ứng với từng tình huống riêng biệt. Hợp đồng cho vay được coi như công cụ pháp lý
quản trị tín dụng. Do vậy, nếu cấu trúc của một hợp đồng cho vay vừa bao quát vừa, vừa chi
tiết và chặt chẽ sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ lợi ích cho chính ngân hàng. Tuy
nhiên trên thực tế, trong hầu hết hợp đồng cho vay hiện nay thiếu những nội dung mà cho
phép ngân hàng giám sát các khoán cho vay tốt hơn, để kịp thời ra tay thực hiện những biện
pháp cần thiết cứu nguy cho các khoản vay có dấu hiệu cảnh báo có thể đưa đến chỗ rủi ro.
3.1.2- Các yếu tố cấu thành hợp đồng cho vay.
Một hợp đồng cho vay thường chứa đựng các thành phần căn bản sau:
- Lời mở đầu:
Đôi khi nêu tên của các bên và đưa ra lời tuyên bố rằng đang thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên cũng có khi nêu lên mục đích của khoản cho vay.
- Số lượng và kỳ hạn của khoản vay.
Trong phần này sẽ nêu lên khối lượng của khoản cho vay, cách thức người vay rút tiền,
lãi suất cho vay, ngày đáo hạn, số chi phí (nếu có) và các điều khoản liên quan đến các
khoản chi trả trước. Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro trong phần này bằng cách tổ chức
các khoản vay theo phương thức trả dần hoặc áp đặt một số dư đặt cọc. Các ngân hàng nói
chung thường không phạt trong trường hợp trả trước khoản trả góp hoặc trả hết toàn bộ
khoản vay trước hạn nếu như nguồn vốn có được từ các vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng, từ việc thu nợ, hay bán các tích sản. Tuy nhiên nếu như việc hoàn trả sớm
khoản vay được thực hiện do khách hàng đi vay của ngân hàng khác thì một mức phạt đối
với hành vi đó sẽ được áp dụng.
- Xin vay và bảo đảm.
ở phần này người vay sẽ trình bày và cam kết là các báo cáo tài chính mà kế hoạch
đã nộp cho ngân hàng nhằm hình thành các quyết định tín dụng là đúng và thực sự phản ánh
được tình hình tài chính hiện tại của người vay.
- Các điều kiện cho vay.
ở phần này cũng liên quan đến sự đảm bảo của khách hàng đó là tính hợp pháp của
các điều kiện phải tồn tại. Các tài liệu giấy tờ cần thiết về khách hàng phải được giao cho
người vay trước khi khoản vay được thực hiện. Đương nhiên, để suất bất cứ khoản tiền nào
cho vay thì những tài liệu đó phải đáp ứng được nhu cầu mong muốn của cố vấn pháp lý
cho ngân hàng về khách hàng cần vay vốn. Nếu như trong hợp đồng yêu cầu cung cấp một
khoản tín dụng tuần hoàn theo sau khoản vay định kỳ thì nhân viên yêu cầu người vay phải
cung cấp thêm thông tin trước mỗi lần xuất tiền để ngân hàng có thể xác định rằng những gì
đã trình bày có bảo đảm trước đây vẫn chính xác, không có dấu hiệu nào cho thấy là khách
hàng sẽ không trả được cho họ theo như thoả thuận.
- Mô tả vật thế chấp:
Các khoản vay ngân hàng có thể được đảm bảo hoặc không được đảm bảo. Nếu như
trong trường hợp khoản vay phải có bảo đảm thì hợp đồng phải mô tả chi tiết vật thế chấp
cũng như phải được xử lý như thế nào. Trong nhiều trường hợp thì vật thế chấp được coi
như phòng tuyến cuối cùng bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Do vậy trong hợp đồng cần có
điều khoản minh bạch, rõ ràng khi nào, bằng cách nào ngân hàng có thể chấp hữu tài sản thế
chấp để thu hồi khoản vay nếu như khách hàng có nguy cơ không trả được và khi thẩm định
tài sản thế chấp cần chú ý quan tâm đến các đặc điểm sau:
+ Có tính thanh khoản tốt.
+ Không bị mất giá bởi bất cứ nguyên nhân nào.
+Có giá trị cao hơn giá trị khoản vay càng lớn càng tốt.
+ Có quyền sở hữu rõ ràng, hợp pháp.
+ Chưa bị đem sử dụng để đảm bảo cho một khoản vay khác.
- Các cam kết của người vay:
Phần này xác định những cam kết nào đó mà người vay phải thực hiện hoặc không
được thực hiện sau khi đã thoả thuận với ngân hàng. Đây là phần rất quan trọng của hợp
đồng cho vay. Số lượng và chi tiết của các điều cam kết nhiều hay ít tỷ lệ nghịch với sức
mạnh tài chính của người đi vay và chất lượng quản lý của họ. Xét về góc độ quản lý tín
dụng và rủi ro liên quan thì đây là phần tập trung thể hiện sự giám sát của ngân hàng đối với
người vay trong suốt quá trình khoản vay còn hiệu lực, đảm bảo được tính hiệu quả trong
việc sử dụng vốn vay cũng như trả nợ của khách hàng đồng thời căn cứ vào cam kết này
ngân hàng có thể can thiệp cần thiết khi một phần hay toàn bộ các thoả thuận không được
tôn trọng làm ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng. Có hai loại cam kết.
*Cam kết thực hiện là những giao ước áp dụng đối với quản lý, yêu cầu người vay phải thực
hiện một số hành động nào đó, như: Cung cấp các báo cáo tài chính trong phạm vi 60 ngày
sau khi kết thúc năm tài chính, Ngân hàng được phép thanh tra tồn kho, các khoản thu và tài
sản khác nếu thấy cần thiết theo định kỳ, người vay phải thông báo cho ngân hàng bất cứ
tranh chấp pháp lý hoặc sai quyền nào làm ảnh hưởng đến sự thực hiện nghĩa vụ của mình
đối với ngân hàng….
*Cam kết không thực hiện là những hành động mà người vay đồng ý không thực hiện trong
suốt thời hạn của khoản vay trừ phi được sự đồng ý của ngân hàng cho vay. Mục tiêu của
cam kết nhằm ngăn ngừa sự phung phí các tài sản làm suy yếu sức mạnh tài chính của ngân
hàng, có thể làm suy yếu khả năng chi trả của người vay.
- Các điều khoản hạn chế.
Các điều khoàn này cho phép các hành động nhất định nhưng giới hạn phạm vi của
chúng. Để đảm bảo nâng cao năng lực tài chính trong kinh doang, các doang nghiệp vay sẽ
giữ lại một phần lợi tức, các giới hạn thường được đặt trên số cổ tức có thể được chi trả.
Nếu như ngân hàng nhận tháy doanh nghiệp vay cần vốn ngắn hạn để thoả mãn nhu cầu
theo thời vụ thì những khoản vay như thế được cho phép nhưng thông thường một giới hạn
được áp dụng đối với tổng số tiền vay cả dài hạn lẫn ngắn hạn. Nếu người vay mắc nợ các
người khác những khoản nợ dài hạn , sự giới hạn cũng được áp dụng đối với số lượng được
dùng để chi trả hàng năm. Mục đích của nó là ngăn ngừa tình trạng đặt ngân hàng vào vị trí
người cuối cùng được chi trả cũng như là việc doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng để
trả hết cho một người cho vay khác.
- Trường hợp không trả được nợ.
Tất cả các khoản cho vay định kỳ có các điều khoản về việc không trả được nợ khiến
cho toàn bộ khoản cho vay lập tức hết hạn và có thể được trả dưới các địa chỉ nhất định.
Nếu các địa chỉ nhất định không được đáp ứng thì toàn bộ khoản cho vay lập tức được coi là
đáo hạn. Việc này sẽ tiết kiệm ít phiền hà hơn là chờ cho đến khi mỗi khoản tích góp đáo
hạn mới áp dụng hành động pháp lý.
3.2- Lãi suất cho vay ở các Ngân hàng Thương mại.
3.2.1- Khái niệm lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay là tỉ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả thêm cho người cho
vay sau một thời hạn nhất định sử dụng số tiền vay đó. Lãi suất cho vay có thể được tính
theo tháng hoặc theo năm ( ở Việt Nam thường tính theo tháng còn hầu hết các nước khác
đều tính theo năm).
Lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi thông thường biến động cùng chiều: khi lãi suất
tiền gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay nâng lên và ngược lại, làm sao dung hoà được hai
yêu cầu: nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kiềm chế lạm phát. Hạ lãi
suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay, nâng đỡ sản suất.
Lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động trung bình. Khoản chênh
lệch chính là “lãi gộp” của ngân hàng để bù đắp chi phí, thuế, phí dự trữ bắt buộc, đề phòng
rủi ro và có lãi. Có thế mới hạn chế được hiện tượng vay ồ ạt mang tính bao cấp do lãi suát
vay quá thấp, buộc người vay phải đảm bảo hài hoà 3 mặt lợi ích của người gửi, người vay
và bản thân ngân hàng.
3.2.2- Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại.
Lãi suất cho vay được đàm phán giữa người vay và ngân hàng cho vay giữa các ngân
hàng khác nhau thì lãi suất cho vay cũng khác nhau. Chúng phản ánh cả dặc tính cá biệt của
khoản cho vay lẫn cung cầu về tín dụng trên thị trường tiênf tệ. Lãi suất cho vay chịu tác
động của nhiều yếu tồ. Nó thay đổi theo sự biến động cuă các yếu tố như: Lãi phải trả cho
người gửi, chi phí ngân hàng, rủi ro tín dụng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng số dư tiền
gửi của người vay và các chứng khoán ….Lãi suất cho vay luôn luôn phải lớn hơn lãi suất
tiền gửi, có như vậy mới bảo đảm được hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, mới
bù đắp được những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra trước đó. Hay cạnh tranh giữa các ngân
hàng, đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất. Để đảm bảo thu hút được khách
hàng về phía mình các ngân hàng luôn luôn phải cân nhắc, giảm lãi suất cho vay đến một
mức độ nhất định hòng giành khách hàng với các ngân hàng khác. Nói chung khả năng cho
vay của ngân hàng tuỳ thuộc vào mức dự trữ thặng dư trong hệ thống Ngân hàng. Nếu nhu
cầu về tín dụng ngân hàng tương đối ổn định, các khoản dự trữ thặng dư gia tăng, lãi suất
cho vay sẽ giảm khi các ngân hàng tìm kiếm các tích sản sinh lợi. Tuy nhiên nếu có nhu
cầu mạnh được tín dụng ngân hàng và khoản dự trữ thặng dư tiếp tục ổn định hay phát triển
chậm hơn nhu cầu tin dụng, lãi suất sẽ tăng lên. Thái độ con người cũng ảnh hưởng đến lãi
suất. Nếu người ta có cái nhìn bi quan về kinh tế thì các giám đốc Ngân hàng không hạ mức
lãi suất mặc dù nguồn vốn cho vay có thể bảo đảm. Nếu lạc quan nghĩa là họ thấy rằng hệ
thống dự trữ sẽ cấp thêm vốn cần đến, lãi suất không bị tăng lên một cách rõ rệt, mặc dù dự
trữ thặng dư tương đối thấp lãi suất thị trường cũng chịu sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước theo chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn mở
rộng tiền tệ thì lãi suất thị trường giảm để thu hút người vay và ngược lại khi Ngân hàng
Nhà nước muốn thắt chặt tiền tệ thì lãi suất sẽ tăng lên để hạn chế tín dụng. Ngoài ra, lãi
suất còn chịu sự chi phối của kỳ hạn vay. Kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao, thanh toán
khó khăn nên lãi suất cao để bù đắp những khó khăn có thể xảy ra.
3.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay của các ngân hàng thông thường diễn ra qua 5 bước sau:
a) Hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xin vay vốn
Nếu lần đầu xin vay thì khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng những tài liệu
chứng minh tính pháp lý của mình. Gửi đơn xin vay, trong đó điền đầy đủ những thông tin
cần thiết . Ngoài ra, người xin vay phải nộp kế hoạch sản xuất kinh doanh để xác định nhu
cầu, cung cấp cho ngân hàng những hợp đồng kinh tế liên quan đến việc thực hiện kế hoạch,
dự án để xác định tính khả thi của dự án. Nộp báo cáo tài chính kinh doanh hiện tại của
khách hàng, kèm theo những tài liệu chứng minh về đảm bảo an toàn tiền vay như : giấy tờ
sở hữu, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.
b)Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin
Căn cứ vào các tài liệu trên thì ngân hàng tiến hành kiểm tra về tính pháp lý của các
tài liệu, uy tín của khách hàng, khả năng sinh lời của dự án, quyền sở hữu tài sản để xem
khách hàng có đảm bảo đủ độ tin cậy hay không . Ngân hàng có thể kiểm tra thông qua các
cách sau:
+Phỏng vấn người xin vay:
Qua phỏng vấn người xin vay, nhân viên tín dụng sẽ biết được lý do vay, biết được
yêu cầu xin vay có đáp ứng được các đòi hỏi khác nhau do các chính sách cho vay của
ngaan hàng ấn định không. Qua phỏng vấn, nhân viên tín dụng có mmột ý niệm nào đó về
tính thật thà và khả năng của người vay và coa thể có ý kiến xem có cần thiết phải có vật thế
chấp hay không. Những thông tin về lịch sử và sự phát triển của ngành kinh doanh, bản chất
của các sản phẩm dịch vụ, nguồn nhiên liệu, thế cạnh tranh và các kế hoạch trong tương lai
có thể có được qua phỏng vấn.
+Kiểm tra qua sổ sách của ngân hàng
Một ngân hàng có thể lưu trữ tập trung của cả người ký thác và người vay, từ đó có
thể nhận được thông tin về tín dụng. Thậm chí, nếu người xin vay chưa từng là khách hàng
của ngân hàng, hồ sơ tập trung cũng có một số thông tin nào đó.
+ Điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay
Người xin vay phải cho phép một nhân viên tín dụng đến tham quan nơi kinh doanh
của mình. Một nhân viên tín dụng có kinh nghiệm sẽ biết được một cách đáng kể về mức độ
phát triển hiện nay trong kinh doanh của người vay cũng như trình độ quản lý thông qua
tham quan các tiện nghi của nó.
+ ĐIều tra qua việc thẩm định các báo cáo tài chính
Việc đánh giá chính xác thông tin phản ánh trong những báo cáo tài chính là rất
quan trọng trong phân tích tín dụng. Ngân hàng dựa trên báo cáo tài chính để đánh giá các
khoản mục tài sản, tài sản và vốn tự có, đánh giá báo cáo lãi lỗ, những thay đổi tình hình tài
chính.
Nếu không chấp nhận thì gửi giấy báo từ chối trong vòng 10 ngày. Chấp nhận thì ra quyết
định cho vay.
c)Ra quyết định cho vay
Khi ra quyết định cho vay thì ngân hàng sẽ ấn định mức cho vay căn cứ vào nhu cầu
xin vay vốn của khách hàng và khả năng có thể đáp ứng được của ngân hàng, xác định thời
hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của những kỳ hạn. Những đIều này thể hiện trên
hợp đồng cho vay được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng.
d) Giải ngân
Việc tiến hành cho vay diễn ra căn cứ vào mức cho vay đã được xác định. Ngân hàng
mở tài khoản xin vay vốn của khách hàng. Rồi tiền hành chuyển tiền cho khách hàng một
lần hoặc nhiều lần.
e)Kiểm tra giám sát khách hàng
Sau khi trao tiền vào tay khách hàng, ngân hàng vẫn phải tiếp tục thường xuyên theo
dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng cần kiểm tra xem người vay
có sử dụng tiền đúng mục đích như đã cam kết hay không? kinh doanh có hiệu quả không?
Nếu có dấu hiệu của thua lỗ, khó có thể vớt vát được thì lập tức còn rút vốn về nhằm hạn
chế những tổn thất có thể xảy ra, và có những hình phạt thích đáng đối với những cá nhân vì
lợi ích của bản thân mà đang tâm lừa đảo chiếm đoạt.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
4.1 Nguồn vốn
Vốn kinh doanh của một ngân hàng thực chất là tiền gửi của người ký thác. Quy mô
nguồn vốn của một NHTM quyết định đến quy mô của khối lượng tín dụng mà ngân hàng
đó có thể phát ra, ảnh hưởng đến số lượng rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận. Một ngân
hàng có quy mô lớn có thể phát ra một khối lượng tín dụng lớn với kỳ hạn dài hơn nhưng đi
kèm theo đó là rủi ro cũng nhiều hơn.
Mục đích lớn nhất của ngân hàng là lợi nhuận. Do vậy, tất cả các ngân hàng đều xem
xét đến yếu tố quan trọng này,các chính sách tín dụng thường tìm cách nâng cao tỉ phần sinh
lợi của tài sản,đặc biệt là nâng cao khả năng cung cấp tín dụng. Các ngân hàng có nhu cầu
lớn hơn về lợi nhuận thường áp dụng chính sách cho vay năng động hơn so với các ngân
hàng không xem lợi nhuận là quan trọng nhất. Chẳng hạn như các ngân hàng này sẽ cho vay
vốn với khối lượng lớn hơn, mức lãi suất cao hơn so với cho vay ngắn hạn mặc dù biết là
mình có nguy cơ gặp phải rủi ro nhiều hơn.
4.2 Tính ổn định của các khoản ký thác
Ngân hàng luôn xem xét sự biến động của các khoản ký thác khi quyết định chính
sách cho vay. Khi các khoản ký thác ổn định ngân hàng có thể hoạch định chính sách tín
dụng mà ở đó quy mô thơì hạn tín dụng được ổn định, tỉ phần sinh lợi của tài sản co cũng có
thể được hoạch định cao hơn. Tuy nhiên nếu sự ký thác không ổn định thì buộc các ngân
hàng phải xem xét đến tính sử dụng của các khoản ký thác,luôn luôn phải dự trữ hiện kim và
dự trữ thứ cấp để đảm bảo thanh toán khi cần thiết.
4.3 Điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế được coi là một yếu tố khách quan thể hiện sự tăng trưởng hay trì
trệ của nền kinh tế. Một nền kinh tế đang ở trong một hoàn cảnh ổn định thuận lợi , sức mua
cao, xuất khẩu dễ dàng cho phép các NHTM bành chướng tín dụng, thực hiện một chính
sách cho vay tự do. Ngược lại, với một nền kinh tế bị trì trệ lệ thuộc vào các biến động thời
vụ và chu kỳ thì tín dụng sẽ bị co hẹp lại. Các khoản ký thác trong nền kinh tế không ổn
định thường chao đảo , biến động mạnh so với các khoản ký thác trong một nền kinh tế ổn
định, điều kiện kinh tế có thể thể hiện qua toàn bộ hoạt động kinh tế cũng có thể thể hiện ở
các ngành kinh tế, lĩnh vực kinh tế.
4.4 Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
Chính sách tiền tệ và tài chính của Nhà nước bao gồm các chính sách như dự trữ
pháp định, chính sách chiết khấu, chính sách thị trường mở…Những chính sách này mang
tính cưỡng chế của pháp luật, áp dụng lên toàn bộ nền kinh tế nên các NHTM buộc phải
tuân theo. Nếu các chính sách tài chính tiền tệ được mở rộng thì hệ thống NHTM được cấp
thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng được gia tăng. Ngược lại, khi Nhà nước
muốn hạn chế tín dụng, sử dụng chính sách thắt chặt thì buộc các ngân hàng cũng phải hạn
chế tín dụng.
4.5 Khả năng và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu để vạch ra các chính sách kinh
doanh của ngân hàng nói chung và chính sách tín dụng nói riêng. Tùy thuộc vào khả năng
chuyên môn, khả năng quản lý của nhân viên mà các NHTM mở rộng tín dụng vào những
phạm vi mà nhân viên của mình có thể quản lý được. Bởi lẽ, cho vay luôn đi liền với những
rủi ro nếu như các nhân viên không đủ trình độ, khả năng đánh giá sự trung thực của các hồ
sơ khách hàng, tính khả thi của các dự án xin vay thi sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho hoạt động
của ngân hàng.
4.6 Nhu cầu của khu vực phục vụ
Các ngân hàng muốn đực cấp giáy phép hoạt động thì cần phải đáp ứng phục vụ
được nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Tại khu vực mà nền kinh tế chủ yếu là trồng trọt,
chăn nuôi thì đương nhiên ngân hàng không thể từ chối những khoản xin vay như vậy mà
trái lại phải điều chỉnh hoạt động, đIều chỉnh các chính sách để đáp ứng được nhu cầu hoạt
động của khu vực kinh tế này. Do vậy, trong mỗi một môi trường sông khác nhau, các ngân
hàng luôn phải cố gắng tìm hiểu nhu cầu, điều kiện sống của dân chúng và nền kinh tế của
địa phương mà có chính sách phục vụ cho phù hợp. Có như vậy thì ngân hàng mới có thể
tồn tại và phát triển được.
4.7 Rủi ro và khả năng sinh lợi của các khoản cho vay khác nhau
Thông thường một khoản tín dụng có khả năng cho vay sinh lợi cao thì độ rủi ro
cũng cao và ngược lại. Chẳng hạn như đối với những khoản cho vay dài hạn, với một khối
lượng tiền lớn, đi kèm theo một độ rủi ro cao do vậy các ngân hàng thương mại thường đặt
ra một mức lãi suất cho vay cao đối với các khoản vay dài hạn. Hay cho vay nông nghiệp
cũng là hình thức cho vay gặp rủi ro rất lớn. Rủi ro xảy ra cho nông nghiệp thường không
dự tính trước được bởi lẽ nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào thời tiết và khí hậu. Thiên tai
dịch bệnh bất ngờ xảy ra có thể mất trắng toàn bộ….
Trong hoạt động cho vay thường gặp rủi ro thông tin không cân xứng. Thông thường
các ngân hàng muốn có những thông tin về khách hàng của mình nhưng những thông tin
này thường không đầy đủ và không chính xác
Có hai loại rủi ro thường gặp: Thứ nhất là rủi ro do lựa chọn sai đối nghịch tức là
chọn sai khách hàng cần cho vay, có độ rủi ro cao thường không thu hồi được vốn. Loại thứ
hai là rủi ro đạo đức: là rủi ro xảy cho những người có vốn cho vay do đạo đức của những
người vay vốn gây ra. Họ cố tình cung cấp những thông tin không chính xác, những thông
tin giả để thuyết phục những người có vốn cho vay và chiếm dụng luôn số vốn vay đó hoặc
sử dụng sai mục đích với những cam kết ban đầu nên không thu hồi được vốn để trả nợ cho
ngân hàng.
Rủi ro là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng, đến sự tồn
tại, phát triển của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng thường xuyên phải tìm kiếm các giải
pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động của rủi ro nhằm bảo đảm an toàn cho
các khoản vốn cho vay của mình.
5. Nguyên tắc quản lý tiền cho vay
Rủi ro xảy ra là điều khó có thể tránh khỏi trong hoạt động cho vay của ngân hàng
nhưng không phải là không có cách để hạn chế nó. Quản lý tiền cho vay bao gồm sàng lọc
và giám sát khách hàng, thế chấp tài sản và số dư bù, hạn chế tín dụng, quan hệ khách hàng
lâu dài và quy tắc tính dụng là một trong những cách mà các ngân hàng luôn luôn sử dụng
để kìm chế sự xuất hiện của các loại rủi ro.
5.1 Sàng lọc và giám sát
Thông tin không cân xứng có mặt trong các thị trường cho vay bởi những người đi
vay thường không muốn cung cấp đầy đủ, chính xác về thực trạng hoạt động sản xuất kinh
doanh hiện nay của mình cho người cho vay. Tình trạng này đưa đến hai hoạt động sản xuất
thông tin do các ngân hàng thực hiên: Sàng lọc và giám sát.
5.1.1 Sàng lọc
Bởi lẽ ngân hàng luôn phải đối đầu với những thông tin bất đối xứng, do vậy ngân
hàng phải tiến hành sàng lọc những khách hàng có nhu cầu vay vốn để cho ra những khách
hàng có đủ độ tin cậy để cho vay. Để sàng lọc thì ngân hàng phải tổ chức, thu thập nắm giữ
những thông tin từ tất cả các khách hàng có nhu cầu vay vốn ( tài sản thế chấp, cầm cố,
thuyết trình tỷ lệ nợ của khách hàng, bản báo cáo tài chính…). Sau đó ngân hàng tiến hành
sàng lọc bằng cách phân tích, thẩm định đánh giá độ chính xác của các hồ sơ. Đối với những
hồ sơ thoả mãn tiêu chuẩn của ngân hàng thì người có trách nhiệm đối với khoản tín dụng sẽ
ký quyết định cho khách hàng vay và vay bao nhiêu.
5.1.2 Giám sát
Chỉ sàng lọc không thôi cũng chưa đảm bảo rằng ngân hàng sẽ không gặp phải một
rủi ro nào khác nữa sau khi tiền được xuất ra khỏi ngân hàng, bởi lẽ ngân hàng còn gặp phải
rủi ro về đạo đức. Để giảm bớt những rủi ro về đạo đức, các ngân hàng phải viết ra những
điều khoản cam kết trong các hợp đồng cho vay để nhằm hạn chế người vay không được
thực hiện những hoạt động làm phát sinh rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng tiến hành kiểm
tra, phân tích, theo dõi khách hàng trước và sau khi cho vay, kiểm tra xem liệu người vay có
thi hành đúng những quy định trong hợp đồng không và sẽ có những biện pháp cưỡng chế
đối với cá nhân vì lợi ích bản thân mà cố tình vi phạm cam kết.
5.2- Thế chấp tài sản và số chi bù
Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ, làm
giảm bớt hậu quả của lựa chọn đối nghịch bởi vì nó giảm các tổn thất của người cho vay
trong trường hợp xẩy ra vỡ nợ. Sự bắt buộc về vật chất tài sản đối với khoản tiền vay là một
trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro. Nếu người vay vỡ nợ, không đủ khả năng
để hoàn trả lại ngân hàng thì ngân hàng có thể bán tài sản thế chấp và dùng tiền thu được để
bù đắp lại những tổn thất của mình do món cho vay đó gây ra. Thông thường đảm bảo bằng
tài sản thế chầp thì mức cho vay của ngân hàng thấp hơn bởi tính lỏng của loại tài sản cố
định rất thấp. Họ chỉ xem xét cho vay 70% giá trị của tài sản thế chấp tại thời điểm cho vay.
Khi người vay nhận được tiền vay, NHTM yêu cầu người vay phải giữ một số tối
thiểu bắt buộc trong các tài khoản ở ngân hàng gọi là “số dư bù”. Đây là một dạng riêng của
vật thế chấp bắt buộc khi một ngân hàng cho vay thương mại. Nếu khách hàng không trả
được nợ thì Ngân hàng sẽ thu nợ từ “số dư bù”. Cho vay “số dư bù” thì người vay phải có
tài khoản tại ngân hàng cho vay. Do vậy có lợi cho ngân hàng là có thể giám sát được khách
hàng vay thông qua hoạt động tài khoản của họ. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các
thủ tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho Ngân hàng vay phải tiến hành
điều tra.
5.3- Hạn chế tín dụng
Đây là một phương pháp cũng giúp cho ngân hàng đối phó với lựa chọn đối nghịch
về rủi ro đạo đức. Hạn chế tín dụng có hai dạng: Dạng thứ nhất là ngân hàng hoàn toàn từ
chối một khoản cho vay nếu qua sàng lọc kiểm tra thấy độ rủi ro cao, khách hàng không
đáng tin cậy với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay này sẵn lòng
thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng không từ chối hoàn
toàn, vẫn cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà vay muốn. Với khoản cho vay
nhỏ như thế thì ngân hàng vẫn có thể thu lãi suất và người đi vay cũng có đủ khả năng thanh
toán.
5.4- Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng
Để thu nhập được thông tin về người vay tiền, ngân hàng có thể dựa trên quan hệ
khách hàng lâu dài. Người vay tiền có tài khoản séc hay tài khoản tiết kiệm hoặc đã từng
vay ở ngân hàng trong một thời gian dài thì ngân hàng sẽ biết được nhiều thông tin về họ
bởi người phụ trách việc cho vay sẽ căn cứ vào hoạt động quá khứ đối với tài khoản đó mà
tìm hiểu về khách hàng. Chẳng hạn như ngân hàng sẽ biết người vay tiền này không vững
chắc như thế nào, vào lúc nào trong năm người đó rất cần tiền mặt, ai đã cung cấp tiền vay
cho khách hàng này và những ghi chép khác liên quan đến khách hàng.
Mặt khác do người vay này trước đây đã vay tiền ở ngân hàng cho nên ngân hàng đã
có sẵn phương thức giám sát khách hàng. Do vậy mà chi phí sẽ giảm thấp hơn so với những
khách hàng mới. Đồng thời quan hệ lâu dài này cũng mang lại lợi ích cho cả hai bên khách
hàng lẫn ngân hàng. Đối với khách hàng thì do quan hệ cũ nên dễ được vay ở lãi suất thấp,
thời gian quy định cho vay nhanh hơn. Còn đối với ngân hàng thì có thêm một lợi ích nữa là
việc khách hàng biết rằng với quan hệ lâu dài thì có thể được giảm lãi suất . Do đó anh ta sẽ
cố gắng giảm thiểu những rủi ro của mình để gây được niềm tin trong ngân hàng. Nhờ vậy
mà ngân hàng có thể đối phó được với những rủi ro đạo đức bất ngờ xảy ra ngay cả khi ngân
hàng cũng không lường trước được lúc ban đầu.
Các ngân hàng cũng xây dựng mối quan hệ lâu dài và tập hợp thông tin bằng cách
đưa ra một mức tín dụng cho khách hàng Thương mại. NHTM cam kết (trong một khoảng
thời gian nhất định) cung cấp cho khách hàng các món vay tới một mức nhất định với một
lãi suất gắn với một lãi suất thị trường nào đó. Lợi ích của việc này đối với ngân hàng là ở
chỗ hạn mức tín dụng sẽ đưa đến một mối quan hệ lâu dài và tạo điều kiện dễ dàng cho việc
tập hợp thông tin. Thoả ước tín dụng là phương pháp hữu hiệu để giảm chi phí cho việc
sàng lọc và tập hợp thông tin.
Chương hai
Thực trạng hoạt động cho vay
ở các ngân hàng thương mạI hiện nay
1-Thực trạng hoạt động cho vay ở các ngân hàng thương mại
Tham gia vào thị trường cho vay vốn, ngoài hệ thống các tổ chức tín dụng còn có hệ thống kho
bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của các địa phương…
Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các tổ chức này đều có nguồn vôn cho vay từ nguồn Ngân sách
Nhà nước, có cơ chế riêng. Các tổ chức khác chiếm thị phần rất nhỏ bé. Do đó thị trường cho
vay chủ yếu vẫn là hoạt động của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng. Đây là lực lượng
chủ lực trên thị trường vốn. Cho nên, hoạt động cho vay của các Ngân hàng Thương mạI hiện
nay thực sự có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Nhìn chung, tình hình cho vay của
hệ thống các Ngân hàng Thương mại hiện nay như sau:
- Về thị phần cho vay :
Giữa các Ngân hàng Thương mại quốc doanh (NHTMQD) với các NHTM ngoàI QD luôn có sự
cạnh tranh gay gắt về thị phần cho vay. Thị phần của các NHTMQD luôn bị đe doạ, vẫn chưa
chiếm được ưu thế về phía mình. Tại hai khu vực tài chính lớn nhất của cả nước: Thành phố Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thị phần của nhóm NHTMQD bị tác động rõ rệt và luôn bị dao
động.
Diễn biến thị phần cho vay của các khối ngân hàng trên
địa bàn TP HCM.
Khối ngân hàng 12/ 96 12/ 97 12/ 98 12/ 99 12/ 00
NHTMQD 39,6 37,9 46,2 45,9 49,3
NHTM ngoàiQD
Trong đó:
NHTM CP
NHNg & NHLD
60,4
34,4
26,0
62,1
28,6
33,5
53,8
24,4
29,4
54,1
22,5
31,6
50,7
23,3
27,4
Diễn biến thị phần cho vay của các khối Ngân hàng trên địa bàn TP Hà Nội
Kh
ối ngân hàng
12/ 96
12/ 97
12/ 98
12/ 99
NHTMQD 36,8 33,0 34,2 32,0
NHTM ngoàiQD
Trong đó:
NHTM CP
NHNg & NHLD
63,2
19,4
43,7
67,0
17,0
50.0
65,8
17,1
48,6
68,0
15,3
52,7
Chú thích: Ngân hàng thương mại cổ phần:NHTHCP
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài: NHNg
Ngân hàng liên doanh: NHLD
NHTMQD mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn bị NHTM ngoài QD chén ép, chưa giành
giật được ưu thế cạnh tranh về phía mình. ở TP HCM năm 2000, các NHTMQD đã vươn lên
xấp xỉ gần 50% thị phần cho vay. Trong khi đó ở TP Hà Nội, 4 năm liên tiếp chưa lần nào
vượt quá 40%.
-Về tỷ trọng cho vay:
Tín dụng ngân hàng tập trung vào các ngành công nghiệp tăng 21%, nông lâm ngư nghiệp
tăng 16%, thương nghiệp và dịch vụ tăng 18%(số liệu năm 1995 so với năm 1994). Năm
1997, tín dung cho nền kinh tế tiếp tục tăng (22,6%) so với năm 1996. Trong đó, tín dụng
cho khu vực kinh tế tư nhân, ngoài quốc doanh tăng mạnh chiếm tỷ trọng 50% tổng dư nợ.
Cho vay trung và dài hạn tăng lên. Năm 1991 cho vay trung dài hạn chiếm 15% tổng dư nợ.
Năm 1995 chiếm 29% tổng dư nợ. Năm 1998 chiếm 37% tổng dư nợ.
-Về lãi suất cho vay.
Việc xây dựng lãi suất cho vay của từng ngân hàng phụ thuộc vào khả năng của mỗi ngân
hàng đó. Ngân hàng nhỏ tiềm lực không lớn nên khả năng cạnh tranh gặp nhiều khó khăn.
Đối với ngân hàng lớn khả năng cạnh tranh cao hơn. Do đó, rất dễ xẩy ra việc phân chia đối
tượng khách hàng, địa bàn hoạt động giữa các ngân hàng. Hiện nay, nhiều ngân hàng hạ lãi
suất cho vay trong nỗ lực cạnh tranh khách hàng. Ví dụ: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
đã chào lãi suất cho vay nhưng khách hàng uy tín chỉ từ 0,47% - 0,55%/tháng cho các khoản
vay dài hạn, từ 0,56% - 0,58%/tháng cho các khoản vay trung và dài hạn. Mức lãi suất này
ngang bằng với mức lãi suất cho vay ưu đãi của Chính phủ.
-Về tỷ lệ nợ quá hạn.
Năm 1998, tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống NHTM lên tới con số 100.000 tỷ Việt Nam
đồng. Trong đó, nợ quá hạn chiếm khoảng 10% và tính riêng số nợ khó đòi khoảng gần 6,8%
so với tổng dư nợ. Xét 2 thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh ta có số liệu cụ thể sau:
+ TP HCM: nợ quá hạn cho vay của các NHTM trên địa bàn ở mức khá cao chiếm khoảng
gần 20% khoản dư nợ. Năm 1999, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ chờ xử lý/tổng dư nợ là 25,03%.
+ TP HN: Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM chiếm 5% tổng dư nợ (30/9/1998) trong đó nợ
quá hạn khó đòi chiếm khoảng 50%.
Đây quả là vấn đề đáng báo động đối với các NHTM hiện nay.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong những NHTM lớn hiện nay. Ta đi xem xét
tình hình cho vay của ngân hàng này trong những năm 1999 và 2001.
Cho vay ngắn hạn
Năm 1999: đến hết ngày 31/12/1999, dư nợ cho vay của ngân hàng đạt 1106 tỷ đồng, tăng
27% so với cuối năm 1998 và chiếm 68% tổng dư nợ cho vay ( dư nợ cho vay tăng chủ yếu ở
phần cho vay bằng ngoạI tệ với dư nợ đạt 37 triệu USD, tăng 17 triệu USD so với cuối năm
1998).
Năm 2001:dến 31/12/2001, dư nợ cho vay của ngân hàng đạt 1513 tỷ Việt Nam đồng tăng
102 tỷ( 7,23%) so với cùng kỳ năm trước); trong đó dư nợ nội tệ là 1077 tỷ đồng tăng 328 tỷ
đồng(44%),dư nợ ngoạI tệ là 29 triệu USD, giảm 17 triệu USD. So với năm 2000, doanh số
cho vay năm 2001 tăng 14,6% đạt 3900 tỷ đồng, doanh số thu nợ tăng 15,6% đạt 3717 tỷ
đồng.
Cho vay trung dài hạn.
Năm 1999: dư nợ cho vay trung dài hạn tính đến 31/12/1999 chỉ bằng 41% năm
1998.
Năm 2001: dư nợ cho vay trung dàI hạn quy VND tạI thời đIúm 31/12/2000 chỉ có 767 tỷ
đồng. Sang năm 2001 số dư nợ tăng đều qua các tháng ,đến tháng 7 năm 2001 thì đạt 1000 tỷ
đồng và trong quý 3 dao động ở mức 1100 tỷ đồng và tăng mạnh trong quý 4 đạt 1596 tỷ
đồng vào ngày 31/12/2001.
Nợ quá hạn.
Năm 1999: tổng số nợ quá hạn đến 31/12/1999 là 76569 triệu đồng, giảm 4,82% so
với năm trước và chiếm 4,69% tổng số dư nợ cho vay.
Tình hình xử lý: tổng nợ quá hạn, khó đòi đã thu được từ con nợ là 522.000 USD,
bán tàI sản thế chấp thu được 4 tỷ đồng.
Năm 2001: trong năm 2001 nợ quá hạn là 89.000 USD.
Giải quyết nợ tồn đọng: trong năm 2001 đã thu hồi được 71 tỷ đồng và 415.000USD
nợ quá hạn.
2.Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mạI
2.1 Những kết quả thu được
Nghiệp vụ cho vay là một trong những nghiệp vụ cấu thành nên hoạt động của các
NHTM, đem lại lợi nhuận trực tiếp giúp ngân hàng bù đắp những chi phí đã bỏ ra ( chi phí
tiền gửi, lệ phí ngân hàng…) để thu được những khoản lãi cho ngân hàng. Không chỉ có rất
quan trọng đối với ngân hàng mà cho vay còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền
kinh tế. Cùng với sự mở cửa và hội nhập của đất nước thì nhu cầu mở rộng sản xuất kinh
doanh của các cá nhân, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngày càng lớn. Vậy họ sẽ lấy vốn
ở đâu ra để thực hiện? Ngoài vốn tự có của bản thân, vay mượn của bạn bè, đóng góp của
các thành viên thì nhiều cá nhân doanh nghiệp đã đi từ các NHTM. Với tư cách là người cho
vay, các ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân
khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng. Các NHTM đã sử dụng nghiệp vụ cho vay kết hợp hài hoà với nghiệp vụ huy động
tiền gửi để tạo nên một dòng luân chuyển vốn từ những người tạm thời có vốn nhàn rỗi
trong xã hội đến những người có nhu cầu vay vốn. Doanh nghiệp cần vốn để khởi đầu, để
duy trì và mở mạng hoạt động. Tuy nhiên ngay trong bản thân các doanh nghiệp đã xảy ra
tình trạng mất cân bằng các luồng ngân quỹ, họ cần bỏ ra các khoản chi phí trước khi có thu
nhập tạo ra từ việc bán các sản phẩm và dịch vụ. Việc mua sắm các trang thiết bị phục vụ
sản xuất, thuê mướn nhân công, đào tạo nhân lực, phát triển địa điểm kinh doanh mới, tạo ra
các sản phẩm mới …sẽ không khả thi nếu không được sự hỗ trợ kịp thời của các khoản cho
vay kinh doanh. Hay những người nông dân nhỏ vay vốn để có khả năng mua hạt giống,
thức ăn, phân bón và nhiều nhu cầu cần thiết khác cho trồng trọt chăn nuôi, thu hoạch trên
đồng ruộng của mình. Bằng nghiệp vụ cho vay, các NHTM đã và đang thực hiện chức năng
xã hội của mình, gián tiếp làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng,
nhiều ngàng nghề sản xuát được củng cố, ổn định, được cải tạo và phát triển, làm tăng GDP
trong nền kinh tế, mức sống của dân cư được cải thiện rõ rệt.
Chính quá trình phân phối lại vốn tiền tệ của Ngân hàng Thương mại thông qua hoạt
động cho vay đã góp phần bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận trong toàn bộ nền kinh tế, tạo nên
sự chuyển dịch vốn từ ngành có lợi nhuận thấp sang nghành có lợi nhuận cao.
Do tính chuyên môn hoá trong kinh doanh, hoạt động cho vay của NHTM đã phát huy
được vai trò quan trọng của mình đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá, trong việc
đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng quá trình tái sản xuất, được sử dụng như một
công cụ tài trợ cho những ngành kinh tế kém phát triển, và các ngành kinh tế mũi nhọn theo
yêu cầu phát triển kinh tế của Nhà Nước. Đối với lưu thông tiền, thông qua hoạt động cho
vay của hệ thống NHTM,Ngân hàng Nhà Nước sẽ kiểm soát được lượng tiền cung ứng bằng
việc thực thi các công cụ của chín sách tiền tệ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn,
hạn mức tín dụng…Những công cụ này tác động trực tiếp đến hoạt động tín dụng của
NHTM làm ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng cho lưu thông.
2.2 Hạn chế
Mặc dù có nhiều mặt tích cực nhưng bản thân ngân hàng vẫn còn tốn tại nhiều hạn
chế làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động cho vay đối với nền kinh tế.
Thứ nhất: Giữa cung và cầu vẫn chưa có sự ăn khớp. Sau khi luật doanh nghiệp ra
đời, thực sự có hiệu lực thì hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập, hoạt động với quy mô
vừa và nhỏ. Do mới đựoc thành lập nên các doanh nghiệp luôn ở trong trình trạng thiếu vốn
cho sản xuất kinh doanh nhưng họ không được vay vốn từ các ngân hàng. Bởi lẽ họ chưa
thể khẳng định uy tín, tín nhiệm của mình đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng vay vốn
nên không được ngân hàng cho vay mà không có tàI sản bảo đảm, nhưng họ cũng chưa có
đủ tài sản để đảm bảo làm vật thế chấp cho Ngân hàng. Không chỉ các doanh nghiệp mà các
cá nhân khi muốn vay vốn cũng thực sự khó khăn. Nhưng người nông dân muốn mở rộng
sản xuất như trồng cây, đào ao thả cá họ cũng cần một lượng tiền lớn nhưng khi đến với
Ngân hàng thì đâu phải ai cũng có uy tín đối vơí Ngân hàng, đâu phải ai cũng có đầy đủ
giấy tờ sở hữu nhà đất , sổ đỏ để làm vật thế chấp. Thậm chí có người còn chưa nhìn thây sổ
đỏ bao giờ. Muốn có được nó thì phải chạy vạy nơi này, xin giấy phép nơi nọ mất bao nhiêu
thời gian, cuối cùng thì cũng chưa làm được một hợp đồng tín dụng với ngân hàng bởi
chẳng một nhân viên ngân hàng nào lại dám cho vay mà không có đủ những thủ tục cần
thiết theo quy định. Như vậy là hiện nay mặc dù các ngân hàng đã hạ lãi suất vay thấp,
nguồn cho vay rất dồi dào nhưng nhiều cá nhân, doanh nghiệp vẫn ở trong trình trạng thiếu
vốn trầm trọng.
Thứ hai: Thử tục xử lý quá rườm rà. Khi vay tư nhân thì lãi suất cao nhưng thủ tục
nhanh chóng, dễ dàng. Nhưng vay ngân hàng mặc dù lãi suất thấp nhưng mất tiền về thủ tục
nên ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay vốn. Điều đó tác
động lớn đến tâm lý của người vay. Nếu muốn vay vốn mà thủ tục gấp gáp thì thà chịu một
lãi suất cao của tư nhân nhưng không bị lỡ kế hoạch còn hơn là đến ngân hàng. Như vậy là
ngân hàng đã tự mình đánh mất khách hàng từ lúc nào.
Thứ ba: Thái độ của nhân viên ngân hàng. Các nhân viên ngân hàng được coi là bộ
mặt của ngân hàng. Quan hệ giữa nhân viên và khách hàng được thông qua sự giao dịch trực
tiếp giữa khách hàng và nhân viên ngân hàng. Nhưng hiện nay ở nhiều ngân hàng vẫn còn
tồn tại nhiều nhân viên có những thái độ bất lịch sự, tự tôn cá nhân mà hách dịch, cửa quyền
thiếu tôn trọng khách hàng. Chính những hành vi, thái độ vô văn hoá đó đã gây ra sự ác
cảm, khó chịu của khách hàng. Chẳng ai muốn trở lại cái Ngân hàng, nơi mà mình không
được coi trọng. Những hành động đáng lên án đó của một số nhân viên ngân hàng đã trực
tiếp làm ảnh hưởng đến uy tín của bản thân ngân hàng.
Thứ tư: Có sự phân biêt đối sử giữa các đối tượng khách hàng.
ở nhiều ngân hàng hiện nay có sự phân biệt giữa khách hàng quen và khách hàng lạ. Đối với
những khách hàng đã quen biết, những khách hàng lâu năm thì được nhân viên phục vụ hết
sức nhiệt tình, chu đáo đến nơi đến chốn. Nhưng những khách hàng mới đến giao dịch tại
ngân hàng thì không được quan tâm là mấy, nhiều khi khách hàng mới phải chờ đợi cho đến
khi giải quyết hết lượt cho khách hàng quen biết và khách hàng lâu năm, khách hàng ưu tiên
rồi mới đến lượt mình. Điều đó gây ra tâm lý bực tức vì mất công bằng giữa khách hàng.
Đây được coi là một trong nhưng lý do gây mất khách hàng của nhiều NHTM.
Thứ năm: Các hình thức cho vay còn đơn điệu, kém linh hoạt, chưa tạo ra đươc sự
phong phú về chủng loại. Trong khi đó thị trường mỗi lúc một thay đổi, nhu cầu của người
vay vốn càng tăng, các NHTM còn chưa thực sự năng động, linh hoạt với những thay đổi đó
nên đã làm giảm khả năng vay vốn của khách hàng.
Thứ sáu: Nợ quá hạn còn nhiều mà vẫn chưa thực sự có những biện pháp đẻ xử lý
cho có kết quả. Tài sản thế chấp là một công cụ để đảm bảo thu hồi nợ vay khi khách hàng
thực sự không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên khả năng thu nợ bằng tiền thực sự từ phát mại
tài sản thế chấp lại là vấn đề hết sức khó khăn.
Trước những hạn chế của các NHTM, ta có thể xem xét một số nguyên nhân sau:
- Các nhân viên tín dụng không dám mạo hiểm khẳng định các dự án xin vay vốn là có khả
thi, mà cho phép các doanh nghiệp vay vốn không có tài sản đảm bảo. Bởi lẽ chỉ một thiếu