Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: "Giải pháp tăng cường công tác kiểm toán nội bộ đối với công tác kế toán tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Trùng Khánh – Cao Bằng” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.68 KB, 71 trang )









Báo cáo tốt nghiệp


"Giải pháp tăng cường công tác kiểm toán nội bộ đối với
công tác kế toán tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn Trùng Khánh – Cao Bằng”

MụC LụC
LỜI Mở ĐầU 1
chương 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về KIểM TOáN NộI Bộ 8
CÔNG TáC Kế TOáN TRONG NHTM 8
1.1 KHÁI Niệm kiểm TOÁN 8
1.1.1- Khái niệm, bản chất kiểm toán 8
1.2 KHÁI NIệM KIểM TOáN NộI Bộ 9
1.2.1 Khái niệm, bản chất của kiểm toán nội bộ 9
1.2.2 Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường . 11
1.2.3 Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ 12
1.3 Kiểm toán nội bộ tại NHTM 14
1.3.1 Hệ thống tổ chức KTNB trong hệ thống NHTM 14
1.3.2 Quy trình kiểm toán 17
1.4. Nội dung cơ bản của kiểm toán nội bộ về công tác kế toán 27
1.4.1 Mục tiêu 27
1.4.2 Nội dung của kiểm toán nội bộ công tác kế toán 27


1.4.3. Phương pháp KTNB công tác kế toán. 29
Chương 2: Thực trạng hoạt động KTNB công tác kế toán tại chi nhánh NHNo
Trùng Khánh. 30
2.1 Khái quát quá trình thành lập và phát triển của chi nhánh NHNo Trùng khánh. 30
2.1.1 Cơ cấu tổ chức 31
2.1.2 Nhiệm vụ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện
Trùng Khánh. 31
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban 32
2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Trùng Khánh trong những
năm vừa qua 34
2.2.1. Công tác nguồn vốn 34
2.2.2. Công tác đầu tư tín dụng thể hiện qua bảng số liệu sau: 36
2.2.3. Kết quả tài chính 38
2.2.4. Công tác kế toán kho quỹ 39
2.3. Thực trạng hoạt động KTNB công tác kế toán tại NHNo Trùng Khánh 40
2.3.1. Tổ chức, điều hành KTNB tại NHNo Trùng Khánh. 40
2.3.2. Hoạt động kiểm toán nội bộ công tác kế toán 41
2.4. Đánh giá kết quả hoạt động kiểm toán nội bộ công tác kế toán tại chi nhánh NhNo
Trùng Khánh 51
2.4.1. Những kết quả đã đạt được 51
2.4.2. Những hạn chế, tồn taị 52
2.4.3 Nguyên nhân chủ yếu 54
Chương 3: GIảI PHáP TĂNG CƯờNG CÔNG TáC KTNB ĐốI VớI CÔNG
TáC Kế TOáN TạI CHI NHáNH NHNo&PTNT TRùNG KHáNH – CAO
BằNG 56
3.1. ĐịNH HƯớNG PHáT TRIểN CHUNG 56
3.1.1 Định hướng công tác kiểm toán nội bội tại NHNN Việt Nam 58
3.1.2 Định hướng và mục tiêu hoạt động kiểm toán nội bộ đối với công tác
kế toán tại NHNo&PTNT huyện Trùng Khánh 58
3.2. Các giải pháp để tăng cường công tác kiểm toán nội bộ 59

3.2.1. Nhóm giải pháp tổng thể 59
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể 64
3.3. Một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp 66
3.3.1. Kiến nghị với NHNo Tỉnh 66
3.2.2. Kiến nghị với chi nhánh NHNN Việt Nam 67
KếT LUậN 70

Danh mục bảng biểu

Biểu 01: Tình hình huy động vốn
Biểu 02: tình hình dư nợ qua các năm 2007 – 2008 – 2009
Danh sách tài liệu tham khảo

1. Kiểm toán căn bản - PTS. Nguyễn Đình Hựu (chủ biên) - Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia 1999.
2. Giáo trình kiểm toán của Học viên ngân hàng
3. Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam
4. Hệ thống hoá văn bản về kế toán, thanh toán quản lý tài chính và xây dựng
cơ bản củ TCTD các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001.
5. Tạp chí Ngân hàng
6. Thời báo Ngân hàng
7. Các quyết định, văn bản, chế độ liên quan đến công tác kiểm soát, kiểm
toán nội bộ NHNN và NHTM.
8. Các báo cáo kết quả hoạt động của NHNN Trùng khánh















LỜI Mở ĐầU
Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán đã trở thành nhu cầu không thể thiếu
được đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng các tác dụng
thực tiễn to lớn của mình, kiểm toán đã khẳng định là một yếu tố tích cực, là một
trong những nhân tố góp phần đảm bảo duy trì tính kinh tế, tính hiệu quả trong hoạt
động kinh tế. Kiểm toán cung cấp dữ liệu tin cậy để thực hiện phân bổ và điều hành
ngân sách một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn, loại trừ những chi phí
bất hơp lý, lãng phí gây thất thoát.
Kiểm toán thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ trong hoạt động kinh
tế tài chính, làm lành mạnh hoá các hoạt động kinh tế tài chính trong doanh nghiệp
và trong nền kinh tế. Căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp luật, kiểm
toán xác định tính đúng đắn hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo tài
chính, báo cáo quyết toán hàng năm. Mọi sai phạm các quy định về quản lý kinh tế,
tài chính được phát hiện và đề xuất biện pháp giải quyết. Thông qua đó trật tự kỷ
cương được xác lập duy trì.
Kiểm tra, kiểm toán là một trong những công cụ quản lý nền kinh tế của Nhà
nước sử dụng để có thể kiểm soát một cách có hiệu lực phát triển kinh tế xã hội và
giữ vững định hướng XHCN. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của công cụ
quản lý kinh tế, kiểm toán ngày càng trở nên hết sức quan trọng và cần thiết không
chỉ đối với các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước mà còn đối với các nhà
quản lý, các nhà đầu tư. Những thông tin do kiểm toán cung cấp sẽ là những căn cứ
đáng tin cậy giúp cho Nhà nước nhìn nhận, đánh giá, xử lý đúng đắn các vấn đề

kinh tế nảy sinh đồng thời làm cơ sở cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý khi đưa ra
quyết định làm ăn mới. Thông qua thực hiện chức năng của mình, kiểm toán còn
giúp các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế biết được và khắc phục những sai sót, vi
phạm trong quản lý và trong việc chấp nhận chính sách, luật lệ kinh tế của Nhà nước.
Ngày nay, sự phát triển của ngành kiểm toán và đang có sự đóng góp không
nhỏ của kiểm toán nội bộ. Đó là một hoạt động nội bộ có tính độc lập trong một
đơn vị, thực hiện chức năng chính là kiểm tra, đánh giá các hoạt động tài chính
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các
đơn vị.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, kiểm toán ngoài những lợi ích
đã đem lại thì vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để
làm cho công tác này phát huy hết chức năng nhiệm vụ của mình nhằm quản lý nền
kinh tế có hiệu quả hơn đồng thời giúp cho các doanh nghiệp đi đúng hướng.
Chính vì vậy, quá trình thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn Trùng Khánh Cao Bằng kết hợp với những lý luận được học tại
Học viện Ngân hàng, tôi thấy kiểm toán nội bộ là một vấn đề mới mẻ và hấp dẫn
cần phải đi sâu tìm hiểu, nên tôi đã chọn: "Giải pháp tăng cường công tác kiểm
toán nội bộ đối với công tác kế toán tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn Trùng Khánh – Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kiểm toán nội bộ công tác kế toán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ công tác kế toán tại
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Trùng Khánh –
Cao Bằng.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị tăng cuờng công tác kiểm toán nộ bộ
đối với công tác kế toán tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn Trùng Khánh – Cao Bằng
Chương 1
NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về KIểM TOáN NộI Bộ
CÔNG TáC Kế TOáN TRONG NHTM


1.1 KHÁI NIỆM KIỂM TOÁN
1.1.1- Khái niệm, bản chất kiểm toán
Có rất nhiều khái niệm kiểm toán khác nhau, mặc dù thuật ngữ kiểm toán đã
có từ lâu trên thế giới, từ khi xuất hiện nhu cầu xuất hiện tính trung thực, độ tin cậy
của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể
trong quan hệ kinh tế. Dưới đây là một khái niệm về kiểm toán thông dụng nhất.
Kiểm toán là một quá trình do các chuyên gia có đủ năng lực, độc lập tiến
hành nhằm thu thập và đánh giá các bằng chứng về những thông tin có thể định
lượng được của một tổ chức nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa những
thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập.
Như vậy có thể hiểu bản chất của kiểm toán trên 5 vấn đề cơ bản sau:
- Kiểm toán thực chất là việc thực hiện chức năng kiểm tra, xác minh tính
đúng đắn, mức độ tương quan phù hợp của các thông tin được kiểm tra với các
chuẩn mực đã được xây dựng, trên cơ sở đó kiểm toán viên bày tỏ ý kiến của mình
về kết quả đã được kiểm tra thực hiện chức năng tư vấn giúp đơn vị, tổ chức kinh tế
hoạt động có hiệu quả.
- Đối tượng của kiểm toán về thông tin, là các văn bản báo cáo tài chính, theo
nghĩa rộng là kiểm toán về thông tin, là các văn bản báo cáo tài chính và các thông
tin không phải về báo cáo tài chính, kiểm toán tính tuân thủ xem xét việc chấp hành
luật pháp, chính sách chế độ, kiểm toán tính hiệu lực, hiệu quả quá trình hoạt động
của đơn vị.
- Khách thể kiểm toán được coi là đơn vị được kiểm toán, là một thực thể kinh
tế một tổ chức có tư cách pháp nhân. Trong một số trường hợp, đơn vị được kiểm
toán có thể là một đơn vị thành viên không có tư cách pháp nhân, một phòng, ban
hay một phân xưởng, một lĩnh vực hoạt động.
- Chủ thể kiểm toán: Là người thực hiện hoạt động kiểm toán, là kiểm
toán viên, chuyên gia có đủ thẩm quyền, độc lập, có trình độ nghiệp vụ.
- Cơ sở thực hiện kiểm toán: Là việc thu thập đánh giá bằng chứng để xác định
mức độ tương quan phù hợp với các chuẩn mực, chế độ, luật định, tiêu chuẩn chung

đã được thừa nhận từ
1.2 KHÁI NIỆM KIểM TOáN NộI Bộ
1.2.1 Khái niệm, bản chất của kiểm toán nội bộ
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kiểm toán nội bộ trên thế giới.
Theo các chuẩn mực hành nghề của kiểm toán nội bộ do viện kiểm toán nội bộ Hoa
Kỳ ban hành thỡ“ Kiểm toỏn nội bộ là một chức năng xác định độc lập sắp đặp bên
trong một tổ chức bên trong đế xem xét,đánh giá các hoạt động và được coi là một
dịch vụ đối với tổ chức”
Như vậy theo định nghĩa trờn kiểm toỏn nội bộ là một loại hỡnh kiểm toỏn
cú tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những việc kiểm soát
có tổ chức mà chức năng la đo lường và đánh giá hiệu quả của những việc kiểm
soỏt và mang tớnh nội kiểm.Kiểm toỏn nội bộ là một bộ phận cấu thàn, là bộ phận
trọng tõm cấu thành hệ thống kiểm toỏn nội bộ, nó hoạt động theo những nguyờn
tắc của kiểm toỏn
Cụ thể, kiểm toán nội bộ có các nội dung hoạt động như sau:
- Thứ nhất, thẩm tra các thủ tục kiểm toán để xác định thích hợp và tính ưu
việt của nó
Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng
định rằng hệ thống kiểm soát nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi
mục tiêu đó định trước. Việc thẩm tra đẻ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bỡnh
thường và gây lóng phớ với bản chất lặp đi lặp lại nhăm ngăn chặn và giảm thiểu
chỳng.
- Thứ hai, kiểm tra tớnh trung thực và độ tin cậy của thông tin
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy không chỉ
cua bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phương tiện sử dụng để
xác định, đo đạc phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống
thông tin này là cơ sở để khằng định các số sách và báo cáo tài chính chứa dựng các
thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích.
- Thứ ba, kiểm tra việc tuõn thủ cỏc chớnh sỏch, cỏc quy định, các kế hoạch
và các thủ tục hiện hành.

Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống nhằm xác định hoạt
độngcủa các đơn vị có đảm bảo tuân thủ các chính sách thủ tục, luật pháp và các
quy định mà có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt động tổ chức. Tiếp nối với
chức năng này, trong một số trường hợp và nếu được phép của ủy ban quản trị tối
cao, các kiểm toán viên nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự ưu tiên của các chính
sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức đọ tuân thủ ưu tiên các
chính sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuõn thủ.
- Thứ tư, kiểm tra các phương tiện đảm bảo cho tài sản
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các phương tiện được sử dụng để
đảm bảo an toàn cho các tài sản nhằm trỏnh cỏc dạng mất mỏt khac nhau. Mặt khỏc,
kiểm toỏn viờn nội bộ cần cú những kiến nghị cho nhà quản lý để phũng ngừa cỏc
hoạt động bất hợp pháp xâm phạm tài sản của đơn vị, tổ chức.
- Thứ năm, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả của các nguồn lực
Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được
giao. Việc thực hiện này liên quan đén các nhóm và các nhân viên đơn vị. Ở đây
kiểm toán viên nội bộ không chỉ quan tâm đến việc các nhóm hay các nhân viên
thực hiện công việc của họ một cỏch hiệu quả, tiết kiệm mà cũn quan tõm đến việc
thực hiện của họ có mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp không? Do công
việc (đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật) rất đa dạng trong một tổ chức kinh tế nên
để hoàn thành được nhiệm vụ trên, bộ phận kiểm toán viên nội bộ phải tuyển chọn
được những người có trỡnh độ nghiệp vụ tương xứng.
- Thứ sáu, kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương
trỡnh hay cỏc hoạt động nghiệp vụ
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chương trỡnh để
xem xét kết quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt
động, chương trỡnh đó có được thực hiện theo kế hoạch đó định không. Bên cạnh
đó, kiểm toán viên nội bộ cần trợ giúp cho những người lónh đạo khi xây dựng các
mục tiêu cho các chương trỡnh bằng việc xỏc định xem những giả thiết, dữ liệu
quan trọng có hợp lý không, những thông tin hiện thời có chính xác và có được sử
dụng không và hệ thống kiểm tra kiểm soát có được thiết lập trong các hoạt động

hay chương trỡnh khụng.
- Thứ bảy là nghiên cứu, phát hiện, dự báo các rủi ro có thể xảy ra trong
động của đơn vị,góp phần ngăn chặn, xử lý các rủi ro. KTNN là tổ chức nội kiểm,
am hiểu mọi đặc trưng của quản lý và hoạt động của đơn vị, do đó có điều kiện và
phải coi trọng nhiệm vụ phát hiện, ngăn ngừa, xử lý rủi ro là một trong những
nhiệm vụ ưu tiên, nhằm đảm bảo sự ổn định phát triển bền vững.
- Thứ tám, các nhiệm vụ đặc biệt khỏc khi lónh đạo đơn vị giao phó
Ngoài các chức năng trực tiếp, kiểm soát viên nội bộ có thể được giao phó
thêm những nhiệm vụ có ích cho Ban giám đốc. Một số ví dụ về các nhiệm vụ đặc
biệt được giao cho kiểm toán viên nội bộ là: điều tra về cá nhân đại diện cho ban
giám đốc hoặc giám sát cho cuộc thỏa thuận, tham gia vào các chương trỡnh đào tạo
của các đơn vị….
1.2.2 Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể (doanh nghiệp) hoạt động cạnh tranh
với nhau, hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Muốn nền kinh tế phát triển và Nhà
nước có thể quản lý sự phát triển của nền kinh tế theo chiến lược và định hướng
nhất định thì sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải là cạnh
tranh lành mạnh, không phải là cạnh trạnh theo kiểu "lừa gạt, chụp giật'. trong quá
trình cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu
quả cao hơn sẽ thắng, sẽ chiếm lĩnh được thị trường. Muốn đạt được kết qủa kinh
doanh tốt các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải dựa trên cơ sở những thông tin về
chủ thể kinh tế tham gia trên thị trường là minh bạch, trung thực, chính xác, kịp thời
để các doanh nghiệp, đưa ra được các chiến lược kinh doanh đúng đắn đem lại
nhiều lợi nhuận. Để có được các thông tin đáng tin cậy thì cần có một nghề có tư
cách pháp nhân với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực và trình độ thẩm định các
thông tin đó chính là nghề kiểm toán. Chính vì vậy kiểm toán trở thành một yêu cầu
hết sức cần thiết đối với công tác quản lý Nhà nước và các chủ thể (doanh nghiệp).
Bởi thông tin tài chính của một doanh nghiệp rất cần cho nhiều đối tượng như: Chủ
đầu tư, ngân hàng, người mua, người bán, cho hoạt động đầu tư cổ phiếu, trái phiếu,
thị trường chứng khoán, đối với người quản lý Nhà nước tức là tới cả đối tượng thứ

ba cần sử dụng thông tin. Vì vậy, những thông tin đó phải được kiểm toán bởi các
chuyên gia có trình độ, độc lập, khách quan đối với các doanh nghiệp, để đảm bảo
mức độ ti n cậy, chính xác của các thông tin.
Đối với cá nhân, doanh nghiệp những thông tin tài chính của các doanh nghiệp
đối tác đã được kiểm toán có đủ tin cậy sẽ là cơ sở quyết định các hợp đồng kinh tế,
hợp đồng đầu tư, phát triển các quan hệ kinh tế hợp lý có hiệu quả.
Bản thân các đơn vị được kiểm toán, tạo được uy tín đối với người thứ 3, củng
cố chế độ tài chính kế toán, hệ thống kiểm toán nội bộ, được tư vấn đề trên cơ sở đó
tìm cách nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động.
Kết quả hoạt động kiểm toán tốt giúp cho hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm
soát vĩ mô của Nhà nước tốt hơn, thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phát triển, mở cửa giao lưu và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới trong khi đó
vẫn giữ vững định hướng XHCN cho sự phát triển.
1.2.3 Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Vai trũ
Kiểm toán nội bộ hình thành và phát triển xuất phát từ những lý do khách
quan của nhu cầu quản lý của bản thân các đơn vị tổ chức. Kiểm toán nội bộ là một
chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của
đơn vị. Phạm vi của kiểm toán nội bộ gồm tất cả các hoạt động của đơn vị ở các cấp
quản lý khác nhau. Kiểm toán nội bộ xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng
của hệ thống kiểm soát nội bộ và những phân tích, kiến nghị, tư vấn mang tính
chuyên nghiệp để các nhà quản lý có cơ sở tin cậy trong việc quản lý các hoạt động
của đơn vị, hướng tới hiệu quả, chất lượng và phù hợp với các quy tắc và chế định
của Pháp luật.
Trước hết, cần khảng định rằng kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản
lý, cho nên chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và vai trò của nó cũng trải qua quá trình
phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lý, trình độ và kinh nghiệm quản
lý của các nhà lãnh đạo.
Chức năng
- Rà soát lại hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nộ bộ, giám sát sự hoạt

động của hệ thống này cũng như tham gia vào việc hoàn thiện đúng phương hướng
tuân thủ các quy định của cấp trên, các đơn vị mà trước tiên là các nguyên tắc,
chuẩn mực kế toán và quản lý tài chính.
- Giúp chủ doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin bao gồm các thông tin tài
chính và các thông tin tác nghiệp: kiểm tra tính toán phân loại báo cáo khoản mục
khác biệt theo yêu cầu của nhà quản lý.
- Kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, tính kinh tế và tính hiệu quả trong các hoạt
động của đơn vị bằng những phương pháp so sánh, phân tích kinh tế.
- Kiến nghị với lãnh đạo và các cán bộ quản lý những biện pháp cụ thể nhằm
chấn chỉnh công tác quản lý, tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Như vậy, lĩnh vực chính của KTNB là kiểm tra hoạt động, sau nữa là kiểm
toán tuân thủ chứ không phải là kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp. Kiểm
toán viên nội bộ cũng phải thực hiện soát xét kiểm tra các thông tin tài chính giúp
lãnh đạo đơn vị ký duyệt báo cáo tài chính mà không thực hiện kiểm toán báo cáo
theo đúng nghĩa của từ này.
Nhiệm vụ
- Kiểm tra tớnh phự hợp, hiệu lực và hiệu quả của HTKSNB
- Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin tài chính, BCTC,
báo cáo quá trỡnh trước khi trỡnh duyệt
- Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, sự tuân
thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, ccacs chính sách nghị quyết
quyết địn của hội đồng quản trị, của ban giám đốc
1.3 Kiểm toán nội bộ tại NHTM
1.3.1 Hệ thống tổ chức KTNB trong hệ thống NHTM
Ngày 27/12/1990, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 115/NHQĐ
thành lập vụ Tổng kiểm soát trên cơ sở tách bộ phận tổng kiểm soát từ vụ kế toán và
tổng kiểm soát.
Ngày 7/3/1991, Thống đốc ban hành quyết định số 115/NHQĐ thành lập Vụ
tổng kiểm soát trên cơ sở tách bộ phận Tổng kiểm soát từ Vụ kế toán và Tổng kiểm
soát.

Ngày 7/3/1991, Thống đốc ban hành quyết định số 24/NHQĐ về quy chế tổ
chức hoạt động của vụ tổng kiểm soát NHNN. Trong đó các chức năng của Vụ tổng
kiểm soát được quy định rộng, bao gồm cả việc tham gia ý kiến vào dự thảo các văn
bản pháp quy của các đơn vị thuộc NHNN; Quản lý, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ
về công tác xét giải quyết khiếu tố thuộc hệ thống NHNN.
Ngày 7/7/1995, Thống đốc ban hành chỉ thị số 06/CT - NH4 về tổ chức triển
khai nội dung KTNB trong hệ thống NHNN. Chỉ thị yêu cầu đi sâu đánh giá thực
hiện chức năng nhiệm vụ được giao, việc chấp hành các chế độ, quyết định của
Thống đốc; Việc xây dựng và thực hiện các quy trình nghiệp vụ đối với hoạt động
có độ rủi ro cao.
Sau 2 lần bổ sung, sửa đổi, đến nay quy chế về tổ chức và hoạt động của vụ
tổng kiểm soát được ban hành theo quyết định số 413/1998/QĐ - NHNN9 ngày
23/12/1998. Theo quy chế này, vụ tổng kiểm soát là đơn vị thuộc bộ máy NHNN,
có chức năng tham mưu cho Thống đốc trong việc kiểm soát hoạt động các đơn vị
thuộc hệ thống NHNN và kiểm soát nội bộ đối với các đơn vị thực hiện nhiệm vụ
như NHTƯ (gồm có các NHTM).
Quy định trên được xây dựng căn cứ vào điều 57 luật NHNN được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997.
Nội dung điều 57 như sau:
1. Tổng kiểm soát là đơn vị thuộc bộ máy NHNN, có chức năng nhiệm vụ sau
đây:
- Kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNN.
- Kiểm toán nội bộ đối với các đơn vị thực hiện nghiệp vụ NHTƯ.
2. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Tổng kiểm soát do Thống đốc
quy định.
Theo Quy chế về tổ chức và hoạt động, vụ tổng kiểm soát có các nhiệm vụ sau
đây:
+ Trình Thống đốc ban hành, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về hoạt động kiểm soát và KTNB.
+ Kiểm tra đánh giá việc chấp hành các chủ trương chính sách, chế độ thể lệ

nghiệp vụ của các đơn vị thuộc NHTM.
+ Giám sát đảm bảo an toàn tài sản tại các kho tiền Trung ương.
+ Kiểm toán báo cáo tài chính, KTNB đối với các đơn vị thực hiện nghiệp vụ
NHTƯ.
+ Kiểm soát các mặt hoạt động của các đơn vị thuộc NHNN.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo công tác kiểm soát nội bộ các đơn vị thuộc NHNN.
+ Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm soát và KTNB cho kiểm soát viên.
Theo Quyết định số 25/1999/QĐ - NHNN9 ngày 11/1/1999 của
Thống đốc V/v ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, tại điều 7 điểm 2 quy định: "Giám đốc Chi nhánh
có nhiệm vụ tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về công tác kiểm soát hoạt động
nội bộ của Chi nhánh".
Kế toán trưởng, trưởng các phòng, bộ phận chuyên môn thực hiện chức
năng kiểm soát gắn liền với các nghiệp vụ chuyên môn diễn ra hàng ngày nhằm
ngăn ngừa không để xảy ra sai phạm.
Kiểm soát viên, kiểm soát trưởng có trách nhiệm giúp thủ trưởng thực hiện
công tác kiểm soát nội bộ, giám sát trực tiếp các khâu nghiệp vụ dễ phát sinh rủi ro ;
chấp hành nghiêm chỉnh quy định về thông tin báo cáo gồm cả những báo cáo đột xuất
về những sai phạm ngoài phạm vi xử lý của đơn Kiểm soát viên trưởng phải đảm bảo
yêu cầu vể trình độ và nhiệm vụ theo quyết định số 15/2000/QĐ -NHNN ngày
11/12/2000 của Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành quy chế kiểm soát viên NHNN.
* Một cuộc kiểm toán nội bộ được thực hiện theo trình tự các bước sau
Bước 1: Lập kế hoạch kế toán
Mọi cuộc kiểm toán nội bộ đối với chi nhánh đều phải lập kế hoạch được vụ
trưởng Vụ tổng kiểm soát hoặc giám đốc Chi nhánh phê duyệt, bao gồm cả kế
hoạch dài hạn, ngắn hạn cụ thể từng chuyên đề.
Căn cứ để lập kế hoạch, kiểm toán nội bộ dựa trên cơ sở đánh giá sơ bộ về đơn
vị được kiểm toán và các báo cáo, kiểm toán trước đó.
Nội dung kế hoạch, kiểm toán nội bộ gồm:
- Kế hoạch về thời gian: Xác định thời gian tiến hành và thời hiệu kiểm

toán nội bộ.
- Kế hoạch về nội dung: Trên cơ sở những đánh giá sơ bộ, xác định rõ phạm vi
công việc thực hiện trong đợt, kiểm toán nội bộ; xây dựng đề cương, kiểm toán nội
bộ.
- Kế hoạch về nhân sự: Xác định thành phần đoàn tham gia kiểm toán nội bộ
và trưởng đoàn (nếu thành lập đoàn).
- Kế hoạch, kiểm toán phải được thông báo cho đơn vị được, kiểm toán nội bộ
trong vòng 5 ngày làm việc trước khi bắt đầu thực hiện cuộc, kiểm toán nội bộ (trừ
trường hợp phải kiểm toán nội bộ đột xuất theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền).
Bước 2: Thực hiện kiểm toán
Căn cứ để tiến hành, kiểm toán nội bộ là các văn bản, chính sách chế độ của
Nhà nước về quản lý Nhà nước trong hoạt động Ngân hàng; các văn bản chế độ của
ngành; Chế độ chính sách về hạch toán kế toán và quản lý tài chính, đầu tư XDCB
của Nhà nước và của ngành; các kế hoạch thu chi tài chính dự toán và quyết toán
được duyệt.
1.3.2 Quy trình kiểm toán
Chuyên gia kiểm toán phải tìm kiếm được những bằng chứng kiểm toán đầy
đủ và thích hợp để chứng minh rằng đã không xảy ra gian lận và sai sót có ảnh
hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính, hoặc nếu những gian lận hoặc sai sót đó đã
xẩy ra thì chuyên gia kiểm toán phải có được bằng chứng chỉ ra rằng ảnh hưởng của
gian lận được phản ánh đúng trong báo cáo tài chính hoặc sai sót đã được sửa chữa.
Quy trình tìm kiếm bằng chứng này chính là quy trình kiểm toán.
Mặc dù rất khác nhau về thời gian, quy mô và nội dung tiến hành, nhưng nhìn
chung, các cuộc kiểm toán nội bộ đều bao gồm những bước đi nhất định, bao gồm:
- Phân tích rủi ro.
- Lập kế hoạch kiểm toán.
- Thực hiện kiểm toán.
- Lập báo cáo kiểm toán.
1.3.2.1 Phân tích rủi ro.
Việc phân tích rủi ro nhằm mục đích để không bỏ sót lĩnh vực nhiều

rủi ro khi lên kế hoạch kiểm toán. Các kiểm toán viên s
ẽ phân tích theo
hệ thống. Các đối tượng kiểm toán có rủi ro cao sẽ được chọn lựac đưa vào chương
trình kiểm toán trước. Các đối tượng rủi ro thấp hơn sẽ đựơc đưa vào kỳ sau, sau
khi trưởng bộ phận kiểm toán nội bộ xét thấy các đối tượng có rủi ro cao đã được
quan tâm đúng mức. Ngoài cách phân tích theo hệ thống cũng cần chú ý ưu tiên
kiểm toán đối với những bộ phận hay vấn đề đang có "sự cố". Đây chính là nơi có
thể phát hiện ra các sai sót của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Việc phân tích rủi ro còn nhằm giúp kiểm toán viên có thể quyết định được
phương pháp kiểm toán sẽ sử dụng. Nếu kiểm toán viên đáng giá mức độ rủi ro
thấp, anh ta sẽ có xu hướng về sử dụng phương pháp kiểm tra tiếp cận dựa trên hệ
thống kiểm soát nội bộ và giảm bớt phương pháp kiểm tra chi tiết. Kiểm toán viên sẽ
có quyết định ngược lại nếu đánh giá mức độ rủi ro cao.
1.3.2.2. Lập kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất mà kiểm toán viên phải thực
hiện. Lập kế hoạch đúng đắn sẽ giúp cho cuộc kiểm toán được thực hiện một cách
hữu hiệu và hiệu quả. Việc lập kế hoạch kiểm toán một cách hợp lý đảm bảo được
rằng những lĩnh vực hoạt động có nhiều rủi ro sẽ được quan tâm một cách hợp lý
(kiểm toán định hướng rủi ro), nhận biết được các vấn đề có thể phát sinh và cuối
cùng công tác kiểm toán được hoàn thành một cách nhanh gọn.
Điều 47 SAS "Rủi ro kiểm toán và trọng điểm khi tiến hành công tác kiểm
toán" đưa ra hướng dẫn để lập kế hoạch thanh tra các báo cáo tài chính phù hợp
theo những chuẩn mực kiểm toán được công nhân. Kiểm toán viên cần phải lưu ý
đến những loại rủi ro kiểm toán như rủi ro nội tại ( Inhevent risk), rủi ro kiểm soát,
rủi ro phát hiện. Lập kế hoạch đúng đắn có thể giảm thiêt rủi ro phát hiện trong
trách nhiệm kiểm toán.
Điều quan trọng là kiểm toán viên phải hiểu rằng công tác kiểm toán các báo
cáo tài chính là một tiến trình đòi hỏi sự phân tích liên tục chứng cứ kiểm toán. Thí
dụ như thông tư thu nhập được tiến trình kiểm toán có thể khác với thông tin mà kế
hoạch kiểm toán đã dựa vào. Do đó, lý luận về rủi ro nội tại và rủi ro kiểm soát của

kiểm toán có thể thay đổi và đưa đến những thay đổi trong kế hoạch kiểm toán.
Điều 22 SAS " Lập kế hoạch và thanh tra" nêu ra rằng "khi lập kế hoạch thanh
tra thì kiểm toán viên phải cân nhắc những việc sau (trong số những điểm khác)".
a. Những sự việc liên quan đến mặt kinh doanh của đơn vị và ngành mà đơn
vị đó hoạt động
b. Chính sách và thủ tục hạch toán của đơn vị.
c. Những phương pháp mà chủ thể sử dụng để xử lý các thông tin hạch toán
quan trọng, kể cả việc sử dụng các tổ chức dịch vụ bao gồm cả những trung tâm
dịch vụ bên ngoài.
d. Mức phụ thuộc dự kiến vào công tác kiểm soát hạch toán nội bộ.
e. Những ước tính sơ bộ về các mức độ cụ thể có lợi cho mục đích kiểm toán.
f. Những khoản mục trong báo cáo tài chính có chiều hướng cần điều chỉnh.
g. Những điều kiện có thể đòi hỏi sự gia hạn hoặc sửa đổi những kiểm nghiệm,
kiểm toán, thí dụ như khả năng có những sai sót cụ thể hoặc những trường hợp bất
thường hay là sự tồn tại của các giao dịch của các bên liên quan.
h. Tính chất của những báo cáo dự kiến phải nộp (thí dụ như một bản báo về
các báo cáo tài chính tổng hợp, những báo cáo tài chính nộp cho Sở giao dịch chứng
khoán, hay là những báo cáo đặc biệt tương tự như những bản phù hợp theo các
điều khoản hợp đồng).
Việc lập kế hoạch sơ bộ thường đòi hỏi kiểm toán viên phải thực hiện các
bước sau:
- Có sự hiểu biết về việc kinh doanh của khách hàng.
- Có sự hiểu biết về ngành mà khách hàng đang hoạt động.
- Tiến hành đánh giá sơ bộ về hệ thống kiểm soát hạch toán nội bộ của khách
hàng.
- Soạn thảo một kế hoạch kiểm toán bao gồm các bước kiểm toán, định thời
gian cho các quy trình kiểm toán và ngân sách.
* Tìm hiểu về việc kinh doanh của khách hàng
Mặc dù hoạt động ngân hàng bị điều tiết nghiêm ngặt, nhưng không phải mọi
Ngân hàng đều hoạt động cùng một cách thức như nhau hoặc giao dịch cùng một

loại khách hàng. Thí dụ như một số Ngân hàng chủ yếu bán lẻ (làm ăn kinh doanh
với các cá nhân), trong khi đó những Ngân hàng khác lại chủ yếu là bán buôn (làm
ăn kinh doanh với các Ngân hàng và Công ty đa Quốc gia khác). Ngay cả những
Ngân hàng nhỏ cũng có nhiều sự khác biệt rõ rệt. Chức năng cho vay của một Ngân
hàng có thể là tổng quát hoặc là chuyên môn hoá. Sự tập trung hoạt động có thể vào
một hoặc nhiều địa bàn then chốt, thí dụ như chỉ một ngành công nghiệp hoặc một loại
cho vay tiêu dùng trả góp.
Ngoài sự hiểu biết về tính chất tổng quát của Ngân hàng, kiểm toán viên phải
ý thức được những nét đặc thù của từng Ngân hàng để có thể thực hiện những bước
xem xét phân tích có hiệu quả. Mặt khác, kiểm toán viên phải giảm những quy trình
kiểm toán cá biệt cho phù hợp với Ngân hàng được kiểm toán. Thí dụ đòi hỏi ít thời
gian hơn để kiểm tra các hồ sơ cho vay và các chứng từ liên quan (chẳng hạn như
các báo cáo tài chính của người vay tiền) so với một Ngân hàng tập trung vào các
khoản kinh doanh cũng khác biệt với tỷ suất của các khoản cho vay tiêu dùng trả
góp.
* Tìm hiểu về ngành mà khách hàng đang hoạt động
Kiểm toán viên phải ý thức được rằng ngành Ngân hàng đang có nhiều thay
đổi trong những năm gần đây. Lãi suất biến động thường xuyên đã đặt áp lực rất
nặng nề lên ban quản trị và lợi nhuận của Ngân hàng. Kiểm toán viên phải làm quen
với môi trường thay đổi này để có thể phân tích đúng đắn Ngân hàng được kiểm tra.
Kiểm toán viên phải có khả năng phát hiện và phân tích các nguyên nhân của những
sự thay đổi về lợi nhuận phát sinh từ đó. Những thay đổi về lợi nhuận và nghiệp vụ
của Ngân hàng có thể đối chiếu với những Ngân hàng tương tự, cũng như chiều
hướng của ngành như là một phần trong tiến trình lập kế hoạch. Kết quả cuối cùng
của việc lập kế hoạch và xem xét phân tích tốt chắc chắn sẽ giúp cho công tác kiểm
toán tốt hơn, bởi vì kiểm toán viên có thể đặt trọng tâm vào những lĩnh vực quan
trọng nhất trong hoạt động của một Ngân hàng.
Một kế hoạch kiểm toán thường bao gồm các nội dung kiểm toán, phương pháp
kiểm toán, phương pháp kiểm toán, kế hoạch nhân sự và thời gian.
* Nội dung kiểm toán

Nội dung chính của một kế hoạch kiểm toán bao gồm:
- Tập hợp những hiểu biết về hoạt động và những văn bản, chế độ quy định
liên quan đến bộ phận kiểm toán.
- Ví dụ: Kiểm toán về báo cáo tài chính thì phải biểu về hệ thống kế toán, chế độ kế
toán, quy chế kiểm soát
- Xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán.
- Đánh giá về mức trọng yếu (nói một cách khác là xác định mức độ tin cậy dự
kiến thực hiện kiểm soát nội bộ).
- Xác định nội dung, thời gian, phạm vi và các phương pháp kiểm toán sẽ thực
hiện.
- Tổ chức lực lượng và phối hợp các bước công việc.
- Kế hoạch kiểm toán được duy trì trong suốt quá trình kiểm toán và triển khai
kế hoạch toàn diện về phạm vi dự kiến và thực hiện kiểm toán. Triển khai chương
trình kiểm toán thể hiện nội dung, thời gian và phạm vi phương pháp kiểm toán.
* Phương pháp kiểm toán
Căn cứ vào sự đánh giá rủi ro trên, kiêm toán viên xác định phương hướng áp
dụng những kỹ thuật kiểm toán, cụ thể.
- Lựa chọn kỹ thuật kiểm toán cần sử dụng. Ví dụ: Phân tích, xác nhận…
- Xác định về phạm vi: Lấy mẫu kiểm tra hay phải kiểm tra toàn bộ.
- Xác định các trọng tâm cần kiểm tra: Qua việc phân tích các thông tin thu
thập được giúp cho kiểm toán viên nhanh chóng xác định được các vùng trọng tâm
cần chú ý và ghi vấn. Khi đánh giá rủi ro kiểm toán kiểm toán viên cũng cần quan
tâm đến những điểm ghi vấn của báo cáo kiểm toán kỳ trước đó.
*Kế hoạch nhân sự và thời gian
Kiểm toán viên phải xác định xem những người nào nên thực hiện những chức
năng kiểm toán, loại quy trình nào phải tuân theo và lúc nào cũng như ở đâu nên
hoàn tất những quy trình đó. Khi quyết định ai sẽ thực hiện những chức năng nào,
điều quan trọng là phải nắm vững trình độ, năng lực phù hợp cho mức độ khó khăn
của mỗi bước kiểm toán. Thí dụ như không thể nào giao cho một phụ tá kiểm toán
không kinh nghiệm thẩm định tính khả thi của danh mục cho vay hay là xem xét

những khoản chi trước.
Số lượng nhân viên và yêu cầu về trình độ nghề nghiệp của họ trong một cuộc
kiểm toán khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất và quy mô của cuộc kiểm toán.
Một cuộc kiểm toán hoạt động về các vấn đề kỹ thuật đòi hỏi có những chuyên gia
khác với một cuộc kiểm toán về tính trung thực của báo cáo tài chính. Kiểm toán
trong môi trường sử dụng máy vi tính đòi hỏi chuyên gia vi tính, còn một cuộc kiểm
toán đòi hỏi các phương pháp chọn mẫu phải có phức tạp lại cần có chuyên gia lấy
mẫu không thống kê.
Điều cuối cùng cần xem xét khi lập kế hoạch kiểm toán là phải đề ra một lịch
trình về thời lượng, nghĩa là lập ra một kế hoạch cần bao nhiêu thời gian kiểm toán.
Kế hoạch này sẽ giúp cho hai mục đích. Thứ nhất, nó đưa ra cơ sở để ước tính khối
lượng thời gian cần thiết mà kiểm toán viên phải làm việc tại văn phòng của khách
hàng, phần tham gia cần thiết của khách hàng, phần tham gia cần thiết của khác
hàng và lệ phí kiểm toán. Điều thứ hai không kém phần quan trọng, nó đưa ra một
phương tiện để phân hạng những lãnh vực kiểm toán ưu tiên. Trong một số trường
hợp có thể có một mối tương quan trực tiếp giữa khối lượng thời gian kiểm toán và
quy mô của tài sản Có và tài sản Nợ. Thí dụ, một kế hoạch về thời lượng kiểm toán
đòi hỏi 1% số giờ kiểm toán về lĩnh vực các khoản vay có thể không đủ nếu các
khoản vay đó chiếm hết 5% tài sản của Ngân hàng. Cũng tương tự như vậy, phân bố
thời lượng quá nhiều cho một tài khoản không quan trọng trong các báo cáo tài
chính sẽ cho thấy một sai sót khi lập kế hoạch trong các quy trình kiểm toán được
dự kiến.
1.3.2.3 Thực hiện kiểm toán
Là quá trình các kiểm toán viên áp dụng các phương pháp kiểm toán để thu
nhập, đánh giá các bằng chứng kiểm toán. Theo kế hoạch và chương trình vạch ra,
giai đoạn này gồm các công việc sau:
- Tiến hành kiểm tra thử nghiệm hệ thống kiểm soát nội bộ (cụ thể theo từng
nội dung, phạm vi).
- Đánh giá lại rủi ro kiểm soát và thiết lập mức rủi ro phát hiện.
- Thực hiện kiểm toán căn bản, bao gồm các thủ tục phân tích và kiểm

tra chi tiết theo từng nội dung cụ thể như đã đề ra trong chương trình kiểm toán đối
với từng khoản mục.
- Ghi chép các bước kiểm toán và các dữ liệu thành tài liệu công tác song song
với quá trình thực hiện kiểm toán.
- Lập dự thảo báo cáo, đưa ra ý kiến đánh giá, yêu cầu cần chỉnh sửa.
- Thảo luận, bàn bạc kết quả kiểm toán và thống nhất ý kiến với bộ phận được
kiểm toán.
Nếu trong quá trình kiểm toán, việc áp dụng những thủ tục kiểm toán được
thiết lập dựa trên những đánh giá về rủi ro cho thấy những dấu hiệu về sự tồn tại của
gian lận hay sai sót, thì chuyên gia kiểm toán phải xét tới những ảnh hưởng có thể
tác động tới những thông tin đang được kiểm toán. Nếu chuyên gia kiểm toán tin
rằng sự gian lận hoặc sai sót được chỉ thị ra có thể ảnh hưởng trọng yếu tới tính
trung thực của những thông tin này, thì chuyên gia kiểm toán phải thực hiện những
thủ tục sửa đổi bổ sung.
1.3 2.4. Lập báo cáo kế toán
* Khái niệm
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 700 (và chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 700) về báo cáo kiểm toán thì chuyên gia kiểm toán Việt Nam phải xem xét
lại và đánh giá những kết luận rút ra từ các bằng chứng đã thu thập được và sử dụng
những kết luận này để hình thành ý kiến của mình về những thông tin được kiểm
toán.
Như vậy báo cáo kiểm toán là văn bản được kiểm toán viên phát hành để trình
bày ý kiến của mình về những thông tin được kiểm toán. Báo cáo kiểm toán là
sản phẩm cuối cùng của công việc kiểm toán và có vai trò hết sức quan trọng.
* Vai trò của báo cáo kiểm toán
Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là sản phẩm của kiểm toán viên
cung cấp cho xã hội, nên họ phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
Đối với người sử dụng thông tin được kiểm toán, báo cáo kiểm toán là căn cứ
để họ đánh giá các thông tin này và đưa ra các quyết định kinh tế. Để đảm bảo vai
trò này, báo cáo phải rõ ràng, dễ hiểu để không gây các hiểu lầm.

Đối với đơn vị được kiểm toán, trong một số trường hợp - thí dụ như kiểm
toán hoạt động - báo cáo kiểm toán và bản kiến nghị về công tác quản lý (nếu có)
còn là căn cứ để đánh giá và cải tiến hoạt động của đơn vị nói chung, kiểm soát nội
bộ hoặc công tác kế toán tài chính nói riêng.
* Nội dung của báo cáo kiểm toán.
Để đảm bảo được những vai trò nêu trên, báo cáo kiểm toán cần phải được
trình bày có sự nhất quán về hình thức và kết cấu để mọi người đọc có thể hiểu một
cách thống nhất dễ nhận biết. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 "báo cáo
kiểm toán về báo cáo tài chính" quy định một báo cáo kiểm toán về báo cáo tài
chính do một Công ty kiểm toán độc lập phát hành phải bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
- Tên và địa chỉ Công ty kiểm soát.
- Số hiệu báo cáo kiểm toán.
- Tiêu đề báo cáo kiểm toán.
- Người nhận báo cáo kiểm toán.
- Mở đầu của báo cáo kiểm toán.
- Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán.
- ý kiến của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đã được
kiểm toán.
- Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán.
- Chữ ký và đóng dấu.
* Các loại ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính
Sau khi hoàn tất bước thực hiện kiểm toán, tuỳ thuộc vào kết quả kiểm toán
mà kiểm toán viên có thể phát hành báo cáo chấp nhận toàn phần hoặc không toàn
phần.
* ý kiến chấp nhận toàn phần
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 " Báo cáo kiểm toán về báo cáo
tài chính" nội dung 35, báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được
trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cho rằng báo cáo
tài chính phải Phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc

được chấp nhận).
ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo được
kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã
điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên.

×