Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.99 KB, 86 trang )









Báo cáo tốt nghiệp



“Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang”
Mục lục

Lời nói đầu
Chương I
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp
đối với sự phát triển của hộ sản xuất
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất 10
1.1.1. Vị trí: 10
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất. 11
1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất. . 13
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất. 13
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. 14
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất: 17
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ. 18
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng. 18
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản


xuất 18
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản
xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế: 19
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn: 19
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành
kinh tế: 20
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở
nông thôn: 21
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản
xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế: 21
1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng sản
xuất hàng hoá: 22
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội: 22
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn: 23
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với
hộ sản xuất : 23
1.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiẹu quả tín dụng đối với hộ sản
xuất : 26
1.2.3.3. Qui trình và phương thức cho vay 27
Chương II
thực trạng về cho vay hộ sản xuất ở hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn tỉnh Hà Giang
2.1- Tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng 31
2.1.1- Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường kinh doanh của Ngân
hàng: 31
2.1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội. 31
2.1.1.2. Môi trường kinh doanh của ngân hàng . 33

2.1.2- Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất trên địa
bàn thị xã Hà Giang: 33
2.2- Khái quát hoạt động của hội sở NHNo&PTNT tỉnh Hà Giang: 35
2.2.1- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hội sở: 35
2.2.2 - Về tình hình hoạt động kinh doanh của Hội sở NHNo & PTNT
Hà Giang 37
2.2.2.1- Hoạt động huy động vốn: 38
2.2.2.2. Về hoạt động sử dụng vốn: 41
2.2.2.3. Hoạt động khác: 47
2.3. Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng nông nghiệp Hà
Giang 50
2.3.1. Tình hình cho vay kinh tế hộ ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp Hà
Giang: 50
2.3.2. Hoạt động cho vay đối với kinh tế hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp Hà Giang: 51
2.3.3. Đánh giá kết quả và chất lượng tín dụng hộ sản xuất của Hội sở
Ngân hàng Nông nghiệp Hà Giang: 58
2.3.4. Một số tồn tại và nguyên nhân: 59
Chương III
một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Hội sở Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Giang
3.1- Những Giải pháp đối với Hội sở ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Hà Giang. 64
3.1.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp Hà Giang. 64
3.1.2 Giải pháp của Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Hà Giang 66
3.1.2.1. Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý và có hiệu quả. 66
3.1.2.2. Cần phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động trong
hoạt động tín dụng 66

3.1.2.3. Nghệ thuật cho vay - một bộ phận quan trọng trong phân tích
tín dụng. 68
3.1.2.4. áp dụng các biện pháp bù đắp rủi ro. 69
3.1.2.5. Công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. 71
3.1.2.6. Tăng cường tếp cận với khách hàng thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. 73
3.2. Các giải pháp điều kiện 74
3.2.1. Từ Nhà nước 74
3.2.1.1. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho
hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với cho vay phát
triển nông nghiệp nông thôn. 74
3.2.1.2. Khuyến khích và đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn. 75
3.2.1.3- Từng bước hoàn thiện cơ chế hoạt động của hệ thống NHTM
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. 75
3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm
nânng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. 76
3.2.2 Giải pháp từ phiá NHNN 77
3.2.2.1. Hoàn thiện các văn bản về cho vay. 77
3.2.2.2. Thành lập công ty bảo hiểm tín dụng. 78
3.2.2.3- Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát các tổ
chức tín dụng 80
3.2.2.4. Tổ chức thông tin tín dụng có hiệu quả. 81
3.2.2.5. Tăng cường hỗ trợ đối với các NHTM. 82
kết luận


Lời nói đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nứơc trong đó có đổi
mới về cơ chế quản lý kinh tế, những năm qua ngành ngân hàng đã thực hiện

được chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức hoạt
động của mình. Về mô hình tổ chức từ hệ thống ngân hàng một cấp chuyển
thành hệ thống ngân hàng 2 cấp, hệ thống các ngân hàng thương mại làm
nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng tăng cường huy động, khai thác mọi
nguồn vốn, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác
thanh toán và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Do đó, đã góp phần quan
trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm
phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị đồng tiền ổn định.
Với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta diễn ra dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đã đem lại những thành tựu ban đầu đáng kể,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế nước ta dần dần đẩy lùi lạm phát, sản
xuất được mở rộng thu nhập của dân cư được nâng cao và bước đầu có tích
luỹ cho tái đầu tư. Những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành
ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các
ngành kinh tế, thúc đẩy và tăng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT (NHNo
& PTNT nói riêng là một trong những ngành có vốn lớn nhất để giúp cho nền
kinh tế nói chung và cho nông nghiệp - nông thôn nói riêng phát triển, góp
phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi
khu vực nông thôn.
Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, đời sống của nông dân
ngày càng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Những kết
quả đó có sự đóng góp to lớn của NHNo & PTNT với phương châm "đi vay
để cho vay", Ngân hàng Nông nghiệp đã huy động được một khối lượng vốn
lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần khu vực nông
nghiệp - nông thôn.
Định hướng đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là tiếp cận khách
hàng, đưa vốn đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển
kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực
dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến. Đồng thời nó cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công
nghiệp, tạo công văn việc làm, tận dụng mọi nguồn lực lao động trong nông
thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội nhất là trong khu vực nông thôn
hiện nay.
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận thấy
rõ sự cần thiết phải chuyển hướng nhanh đối tượng tín dụng từ khu vực kinh
tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và hộ sản
xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mặt
khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng và nhiệm
vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thị trường tín dụng
nông thôn là mảnh đất còn chứa ẩn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói - giảm
nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn đối với kinh tế hộ sản xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc
và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nhằm tìm ra nguyên nhân và
cách tháo gỡ là rất cần thiết.
Qua thời gian học tập tại trường ĐHTCKT Hà Nội và quá trình thực
tập nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Giang. Em chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp mở rộng và nâng
cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở Hội sở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang -”
làm đề tài viết luận văn tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương.
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự
phát triển của hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Hội sở Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất ở
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà giang.


Chương I
hộ sản xuất và vai trò của tín dụng Ngân hàng nông nghiệp
đối với sự phát triển của hộ sản xuất

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo lần thứ V đã đề ra là " Xoá bỏ triệt để quan liêu, bao cấp trong giá, lương,
tiền là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất quyết định để
đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, ổn định và cải thiện một bước đời
sống nhân dân"
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải
triệt để thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế
quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xây dựng và phát triển
một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vốn ngân sách Nhà nước tập
trung đầu tư cho các mục tiêu lớn của Chính phủ như xây dựng cơ sở vật chất,
chi cho quốc phòng an ninh, văn hoá xã hội Bản thân các thành phần kinh tế
trong điều kiện cơ chế mới có sự cạnh tranh cần vốn để phát triển mở rộng
sản xuất, đổi mới công nghệ, do đó nhu cầu về vốn là rất lớn, nhất là khi Nhà
nước cho phép các thành phần kinh tế được tự do đầu tư sản xuất trong khuôn
khổ pháp luật dưới nhiều hình thức. Như vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng
vốn cho các nhà sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế như thế nào?. điều đó
có thể thực hiện được bằng nhiều cách khác nhau thông qua nhiều nguồn như:
vốn tự có của các thành phần kinh tế, vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn liên
doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Nhưng trong đó có thể
nói nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng
nhất, vì chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh
nghiệp.
Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian, kinh doanh trên lĩnh vực
tín dụng - tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của

khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu,
thanh toán vốn giưã các thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng và
có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi họ rút vốn.
Khi nền kinh tế mở cửa các thành phần kinh tế được khuyến khích tự
do phát triển, kinh tế ngoài quốc doanh đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộn
nhịp, đa dạng và phong phú. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp thì kinh tế
ngoài quốc doanh bao gồm : Hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ
sản xuất
Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã mở rộng quan hệ
Quốc tế nhiều tổ chức Quốc tế tài trợ vốn, đầu tư vốn cho nông nghiệp, lâm
nghiệp nhiều nguồn vốn được hình thành. Song hiện nay nguồn vốn tín dụng
của Ngân hàng Nông nghiệp vẫn là người bạn đồng hành chủ yếu cuả các hộ
sản xuất.
1.1. Vị trí, vai trò của kinh tế hộ sản xuất
1.1.1. Vị trí:
Nước ta là một nước nông nghiệp thuần tuý với trên 80% dân số sống ở
khu vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chiếm giữ vai
trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
và phát triển kinh tế của đất nước. “Chỉ khi nào nông thôn được công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, khi học vấn, kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong
tay nông dân, được bà con sử dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con
trâu đi trước, cái cày theo sau”, khi xưởng máy mọc lên ở các làng mạc, thị
trấn, ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở
thành công nhân công nghiệp, hình thành cục diện mới ở các vùng nông thôn
thì lúc đó mới có thể nói công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hoàn thành cơ
bản trên phạm vi cả nuớc”
(1)
. Chính vì lẽ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn
mà chủ nhân là hộ sản xuất có vị trí vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi
mới đất nước.

Hộ sản xuất ra đời là một yêu cầu bức xúc của ngành kinh tế, thể hiện
chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi Chỉ thị
100 khoán 10 ra đời, kinh tế hộ sản xuất đã hình thành và phát triển đa dạng.
Thực chất hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả
sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm mà mình làm ra. Nói cách khác hộ sản
xuất là chủ thể trong mọi mối quan hệ sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế hộ sản xuất.
Hộ sản xuất là bộ phận quan trọng hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc
dân, có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành kinh tế quốc dân khác và có
những đặc điểm riêng sau:
*Đặc trưng thứ nhất:
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân, các hộ sản xuất ở
nông thôn nước ta đang chuyển dần từ cơ chế khép kín, tự cung tự cấp sang
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Ngày nay các hộ nông dân không đủ làm duy
nhất một nghề nông mà đã biết kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp kinh doanh
ngành nghề phụ theo hướng ai có khả năng gì thì làm nghề đó. Sự chuyển đổi
nói trên đã giúp cho các hộ sản xuất ở nông thôn bớt lệ thuộc vào yếu tố thời
tiết, mùa vụ góp phần nâng cao thu nhập cho hộ, đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
* Đặc trưng thứ hai:
Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất ở các
vùng, các khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch đáng kể.
Thậm chí đối với các hộ sản xuất trong cùng một vùng cũng có sự khác biệt


về qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ lực lượng lao động, khả năng vốn
tự có, sở dĩ có sự khác biệt nói trên một phần là do mỗi vùng mỗi khu vực có
những đặc điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng phần lớn là do sự
khác biệt về tiềm năng kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó cũng có một yếu tố
khác ảnh hưởng tới quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ sản xuất đó là

khả năng của chính bản thân các hộ đó.
Do có sự chênh lệch lớn về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các
hộ, cùng với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ, tất yếu sẽ
dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật,
quá trình tích tụ và tập trung này sẽ góp phần giảm bớt chất phân tán lạc hậu
của nền kinh tế tiểu nông tạo điêù kiện thuận lợi để phát triển, mở rộng sản
xuất kinh tế hộ.
* Đặc trưng thứ ba:
Cùng với sự chuyển hoá nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ suất hiện thêm nhiều
hình thức tổ chức kinh tế hộ sản xuất khác nhau như hộ nhận khoán, hộ nhận
thầu, hộ gia đình là hộ thành viên của hợp tác xã, nông trường, tập đoàn sản
xuất, doanh nghiệp Nhà nước. Sự xuất hiện các hình thức tổ chức mới đã góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng thu nhập của hộ. Tuy nhiên
các hình thức tổ chức như thế này cũng chịu mức độ rủi ro rất lớn vì vậy Nhà
nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản xuất
củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Với những đặc trưng kể trên kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố
quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát triển
nông thôn.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và trong tương lai, quan tâm
phát triển kinh tế hộ sản xuất, làm cho hộ nghèo giảm bớt, hộ giàu thêm nhiều
là vấn đề quan trọng trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới
hiện đại rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đây là vấn đề lớn
quan trọng.
Hộ sản xuất thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ, tiểu thủ
công nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, song phần lớn hiện nay trong tổng số lao
động nằm trong các ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp
chiếm hơn 70%. Hộ sản xuất vừa sản xuất vừa làm nghề phụ kinh doanh để
tăng thu nhập cho gia đình nâng cao đời sống .

1.1.3. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất và vai trò của hộ sản
xuất.
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất.
* Trước Chỉ thị 100.
Sản xuất nông nghiệp nông thôn tồn tại dưới hình thức tập trung như
hợp tác xã, nông trường quốc doanh người lao động làm việc theo kiểu ghi
công tính điểm, họ không có quyền gì trong vấn đề lựa chọn kế hoạch sản
xuất, ăn chia, phân phối hay sở hữu tư liệu sản xuất. Lúc này khái niệm hộ sản
xuất chưa có, hiệu quả sản xuất kém.
* Sau Chỉ thị 100 và khoán 10.
Khi chủ trương của Nhà nước được đưa ra thực hiện việc giao khoán
sản phẩm cuối cùng đến nhóm người lao động thì hình thức hộ sản xuất nhận
khoán ra đời. Họ là người nhận ruộng khoán và tự mình mua sắm vật tư sản
xuất, tiến hành đầu tư thâm canh trên ruộng của mình và chỉ phải nộp sản
phẩm theo quy định cho tập thể. Nhất là khi có quyết 652 của Nhà nước thực
hiện giao ruộng đất lâu dài cho hộ gia đình thì kinh tế sản xuất đã được thực
sự phát triển theo hướng đa năng trong tất cả các ngành nông - lâm - ngư -
diêm nghiệp Cùng trong bối cảnh đó, do biết sắp xếp bố trí lao động phù
hợp mà các hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ thương nghiệp dịch vụ đã hình thành,
củng cố ngày càng phát triển.
1.1.3.2. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế nông nghiệp,
nông thôn.
Trước đây kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển một cách ỳ ạch,
hiệu quả thấp, vì vậy việc bố trí lao động chưa hợp lý, cách tổ chức sản xuất
và phân phối sản phẩm chưa khích lệ được người lao động. Nhưng từ khi hộ
sản xuất ra đời, kinh tế hộ sản xuất phát triển rộng rãi thì việc tận dụng lao
động về mặt số lượng, cường độ đã được sử dụng hợp lý.
Chính vì vậy, hộ sản xuất đã tự chủ trong tất cả các khâu công việc: Từ
việc mua sắm vật tư thiết bị sản xuất đến việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi
cho phù hợp với đặc điểm của từng vùng đất, từng địa phương, từng thời kỳ

nhằm thu được hiệu quả cao và tăng cường được khối lượng hàng hoá cho
xuất khẩu Việt Nam từ một nước nghèo, đói ăn đã trở thành nước thứ 2 trên
thế giới về xuất khẩu gạo. Đó là do có sự đóng góp to lớn của kinh tế hộ sản
xuất nông nghiệp nông thôn.
Không những thế, việc khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng, khai
thác mặt nước trồng thuỷ - hải sản đã được thực hiện tốt, tạo ra sự phong
phú về sản phẩm, đa dạng về chủng loại. Những làng nghề mọc lên cùng với
truyền thống, kinh nghiệm lâu đời của cha ông đã góp phần làm cho bộ mặt
kinh tế nông nghiệp nông thôn được đổi mới toàn diện.
* Kinh tế hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao
động, giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ
là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong quá trình và hoà
nhập với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế hộ sản xuất có ưu thế là mức đầu tư cho một lao động thấp đặc
biệt là trong ngành nông nghiệp, nông thôn do cấu tạo hữu cơ thấp qui mô sản
xuất nhỏ. Kết quả nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua cho thấy vốn
đầu tư ban đầu cho một hộ gia đình là 1,3 triệu đồng cho một lao động, xí
nghiệp tư nhân là 3 triệu đồng cho một lao động, xí nghiệp quốc doanh là 12
triệu đồng trên một lao động ( chỉ là vốn cố định, chưa kể vốn lưu động). Như
vậy chi phí cho một lao động trong hộ sản xuất thấp.
Trong điều kiện hiện nay, nước ta còn nghèo, vốn tích luỹ trong nước
còn ít thì với đặc điểm kể trên kinh tế hộ sản xuất là một hình thức tổ chức
kinh tế phù hợp, nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động trong cả nước nói
chung và nông thôn nói riêng.
* Kinh tế hộ sản xuất nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng đất đai, tài
nguyên, công cụ lao động.
Việc giao quyền sử dụng, quản lý lâu dài đất đai, tài nguyên cho hộ sản
xuất đã tạo ra động lực mới thúc đẩy các hộ chăm lo sản xuất, nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên của các hộ sản xuất được gắn liền với hiệu quả sử
dụng tài nguyên nên các hộ đã có những biện pháp thích hợp làm tăng độ màu

mỡ của đất, kết hợp việc khai thác với duy trì, bảo vệ tài nguyên. Hộ sản xuất
với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ sẽ phải tự chịu trách nhiệm và đã toàn
quyền sử dụng đối với các công cụ sản xuất của mình, do đó họ sẽ tìm mọi
cách thức, biện pháp để sử dụng chúng có hiệu quả nhất, kết hợp với việc bảo
quản tốt để có thể sử dụng lâu dài.
* Khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hoá
của nền kinh tế hộ.
Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh, các đơn vị kinh tế tự chủ nói
chung, các hộ sản xuất nói riêng có quyền quyết định mục tiêu, quy trình công
nghệ sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trường, tự hạch toán lỗ lãi
để muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì các doanh
nghiệp phải không ngừng mở rộng sản xuất. Thường xuyên nâng cao chất
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với như cầu của thị trường, phải kết
hợp với việc hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán để khích thích nhu cầu người
tiêu dùng. Một trong những ưu điểm lớn nhất của kinh tế hộ sản xuất là có
được bộ máy gọn nhẹ, năng động do đó sẽ dễ dàng nắm bắt được thay đổi của
thị trường để kịp thời nghiên cứu, điều chỉnh, triển khai phương thức sản xuất
mới. Bên cạnh đó bộ máy tổ chức, quản lý gọn nhẹ còn góp phần làm giảm
chi phí quản lý, từ đó giá thành sản phẩm hạ làm tăng thêm khả năng cạnh
trạnh của sản phẩm trên thị trường.
Tóm lại hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế năng động, hiệu
quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường.
* Thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá và do đó
tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Một trong những đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ sản xuất đó là sự
chênh lệch về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật giữa các hộ sản xuất, sự
chênh lệch này dẫn đến tình trạng các hộ thuộc loại có thu nhập thấp thường
không có khả năng tổ chức kinh doanh nhiều loaị hàng hoá hay trồng trọt,
chăn nuôi nhiều loại cùng một lúc do đó giữa các hộ sản xuất thường có sự
phân công lao động theo hướng ai giỏi nghề gì, có điều kiện tự nhiên, kỹ thuật

vốn để sản xuất mặt hàng nào thì làm nghề đó. Các ngành nông lâm, ngư,
diêm nghiệp thông thường các hộ sản xuất này thường chỉ chuyên môn hoá
vào việc trồng trọt một loại cây, hay chăn nuôi một loại gia súc nào đó, vì như
vậy họ sẽ có điều kiện tập trung vốn, kỹ thuật để nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi, trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất
thường tập trung vào một loại hàng hoá. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ
đặc biệt là ở nông thôn thì sự chuyên môn hoá cũng được thể hiện rõ một số ở
nông thôn đã tập trung đầu tư để kinh doanh các dịch vụ như tuốt lúa, xay xát
thuê, bơm nước thuê
Để quá trình chuyên môn hoá đạt kết quả cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ
xuất hiện đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau chuyên môn
hoá sẽ làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn,
trong khi đó hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn
thiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân các hộ sản xuất và thị trường.
Tóm lại : Hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá từ
đó tạo ra khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
1.1.3.3. Xu hướng vận động của kinh tế hộ sản xuất:
+ Xu hướng phát triển không đều giữa các hộ sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại được thì các doanh nghiệp
phải không ngừng mở rộng sản xuất, tuy nhiên không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng có khả năng vốn, kỹ thuật để mở rộng phát triển sản xuất.
Kinh tế hộ sản xuất cũng chịu ảnh hưởng lớn của quy luật nói trên trong nền
kinh tế thi trường, hộ nào có trình độ quản lý, có vốn, có sức lao động, có điều
kiện kỹ thuật thì sẽ có khả năng phát triển ngành nghề của mình theo ý muốn
ngược lại những hộ nào không có đủ điều kiện ở trên thì họ sẽ bị phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, không chủ động tiến hành sản xuất được, do vậy họ đã
nghèo lại càng nghèo thêm . Như vậy, việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường một mặt làm tăng số hộ
giàu ở nước ta lên, mặt khác cũng làm tăng hố sâu phân cách giàu nghèo dẫn

đến có sự phát triển không đều giữa các hộ sản xuất.
+ Xu hướng phát triển đa dạng các loại hình, các quy mô sản xuất:
Tuỳ thuộc vào khả năng về vốn, lao động, điều kiện tự nhiên các hộ sản
xuất sẽ lựa chọn đối tượng, phương án sản xuất kinh doanh, qui mô sản xuất
sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ vậy mà kinh tế hộ sản xuất phát triển đa dạng,
các hộ có kinh nghiệm, có ruộng đất, không đủ điều kiện về vốn, kỹ thuật sẽ
tập trung vào việc trồng lúa hoặc một số loại cây trồng, vật nuôi như chè, cà
phê, mía, cây ăn quả, trâu bò, lợn gà còn đối với hộ có điều kiện về vốn, kỹ
thuật thì tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp chặt chẽ giữa trồng và chăn
nuôi với kinh doanh ngành nghề phụ.
+ Xu hướng liên doanh liên kết hợp tác trong quá trình sản xuất:
Để tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường các hộ sản xuất
phải bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, liên kết với nhau để nâng cao cạnh tranh. Chính
sự liên kết đó sẽ tạo ra các hình thức hợp tác mới, sự liên doanh, liên kết hợp
tác giữa các hộ sản xuất không đồng nghĩa với việc tập trung sản xuất những
đơn vị nhỏ thành những xí nghiệp, hợp tác xã mà là hợp tác để tăng sức mạnh
của từng đơn vị sản xuất. Khi trình độ sản xuất phát triển, có nhiều vấn đề hộ
sản xuất không tự giải quyết được như những thông tin thị trường, khoa học
công nghệ do đó sự phát triển kinh tế hộ đòi hỏi tất yếu phải hình thành các
hình thức hợp tác kinh tế mới.
1.2. vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ.
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình
thái kinh tế - xã hội . Theo giáo trình “Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng
nâng cao"thì tín dụng được định nghĩa như sau: “Tín dụng là sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để
sau một thời gian sẽ thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban
đầu".
Trong các giai đoạn và thời kỳ phát triển khác nhau của nền sản xuất
hàng hoá, do có nhiều điều kiện tác động khác nhau nên có nhiều hình thức

tín dụng khác nhau. Đối với đề tài này, ta chỉ nghiên cứu về tín dụng ngân
hàng “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân
hàng, còn một bên là các thể nhân và các pháp nhân khác nhau trong nền
kinh tế quốc dân " (Giáo trình “ lý thuyết tiền tệ “ - Đại học tài chính kế
toán Hà nội - 1998 ).
1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ
sản xuất
Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì tín dụng ngân hàng còn
là một công cụ đắc lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, thì tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm
thời về vốn sản xuất. Đặc biệt là cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã
giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất, mỗi hộ sản xuất gìơ đây
trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, phải tính toán mức chi phí bỏ ra, khả
năng thu nhập, xác định mức vốn cần thiết đầu tư cho sản xuất, khả năng cấp
vốn tự có, số vốn cần phải đi vay do đó trong nền kinh tế thị truờng, tín dụng
ngân hàng có vai trò rất lớn đối với quá trình phát triển của hộ sản xuất.
1.2.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình
sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:
Khi chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường thì nhu cầu trao đôỉ hàng hoá giữa các hộ sản xuất trong cùng một
vùng hay giữa các vùng với nhau, ngày một gia tăng. Các hộ sản xuất ngày
nay chỉ chỉ chuyên môn hoá sản xuất các loại nông sản hàng hoá có lợi nhất
và họ loại dần các loại nông sản phẩm sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Các
hộ sản xuất bán cho xã hội sản phẩm hàng hoá mà họ sản xuất ra, đồng thời
mua từ thị trường những hàng hoá mà họ cần để đạt được điều đó các hộ sản
xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật, mua sắm máy móc
thiết bị, trong khi vốn tự có của các hộ còn rất hạn chế, nên các hộ sản xuất
cần tới sự trợ giúp của ngân hàng để mở rộng sản xuất được liên tục.
Vì thế tín dụng ngân hàng nó cực kỳ quan trọng trong việc đáp ứng nhu

cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước
ta hiện nay.
1.2.2.2. Thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần
tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn:
Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện một lượng tiền
tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời cũng xuất hiện những
tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ của ngân
hàng là tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị, cá nhân tạm
thời thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng tập trung đầu tư tín dụng
cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát
triuển của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh
của hộ sản xuất, khuyễn khích các hộ kinh doanh có hiệu quả hơn nữa để
được ngân hàng trợ giúp cho vay.
Đầu tư là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho ngân
hàng, vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kink tế.
Ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian tài chính, là cầu nối
tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên
cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành
kinh tế:
Thông qua hệ thống ngân hàng cụ thể là hoạt động tín dụng ngân hàng
Nhà nước đã góp phần tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc
cho vay ưu đãi với lãi suất thấp thời gian dài, mức vốn lớn. Trong điều kiện
nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng đáp ứng phần lớn
với nhu cầu cần thiết cho xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, nhưng sản xuất ở nông thôn chưa phát triển, kết cấu hạ tầng còn kém lại
chịu ảnh hưởng khắt khe của điều kiện tự nhiên, đơn vị sản xuất chủ yếu là
kinh tế hộ gia đình, năng suất lao động còn thấp, ruộng đất và người lao động
còn thiếu, phương pháp canh tác kỹ thuật còn lạc hậu, khối lượng hàng hoá
sản xuất ra chưa nhiều. Vì vậy trong gia đoạn tới Chính phủ cần tập trung đầu

tư hỗ trợ cho nông nghiệp như việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn và các
điều kiện yếu tố khác cho sản xuất nông nghiệp như trạm bơn điện, hệ thống
thuỷ lợi, cải tiến công cụ lao động.
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế cho vay nặng lãi ở
nông thôn:
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính tời vụ cao nên tại thời
điểm chưa thu hoạch được, chưa có hàng hoá để bán thì người nông dân
thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu về chi tiêu tối
thiểu, từ đó tạo điều kiện để nạn cho vay nặng lãi hoành hoành, đặc biệt cơ
bản của tín dụng cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, làm cho hộ sản
xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ thoát khỏi vòng
quẩn đó được. Nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất
phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng
hơn, gây ra tiêu cực ở nông thôn.
Đứng trước tình hình trên ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến
hành cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất. Tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp
xúc với vốn vay ngân hàng, các ngân hàng đã đơn giản hoá các thủ tục cho
vay, tổ chức mạng lưới ngân hàng tới tận các thôn xóm để đáp ứng được nhu
cầu vốn cho sản xuất, khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư, đổi
mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm giàu cho bản thân
và cho xã hội.
Tín dụng ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản
xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vần đề cho vay nặng
lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng bót lột
người lao động để thu siêu lợi nhuận.
1.2.2.5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy
sản xuất thực hiện chế độ hạch toán kinh tế:
Các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng
đồng tiền đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng

thanh toán.
Để thực hiện được món vay, cán bộ tín dụng phải nắm được tình hình
sản xuất kinh doanh trước, trong và sau khi cho vay có đạt được hiệu quả hay
không để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Qua đó tín dụng ngân hàng có thể
kiểm soát được các hoạt động của hộ sản xuất.
Nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vay vốn phải được hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn khi sử dụng vốn vay các hộ sản xuất
phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng, phải trả nợ
đúng hạn và các điều kiện kèm theo khác, như vậy để sản xuất kinh doanh có
hiệu qủa, có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay ngân hàng thì các hộ sản xuất phải
hạch toán kinh tế.
1.2.2.6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận mở rộng
sản xuất hàng hoá:
Ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển hướng quan trọng trong phương
thức sản xuất của hộ sản xuất khi được ngân hàng đầu tư vốn, hộ sản xuất
phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu nhất, để tăng thu
giảm chi nhằm thu lợi nhuận, để hoàn trả cả vốn và lãi vay cho ngân hàng.
Muốn vậy hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới
thu được lợi nhuận cao, giúp hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất
để tiếp cận và thích nghi với thị trường như nâng cao chất lượng sản phẩm,
thay đổi các loại cây trồng vật nuôi cho phù hợp với nhu cầu thị trường, cải
tiến cách thức sản xuất để tiết kiệm vật tư, giảm chi phí, thu hiệu quả cao nhờ
sự tài trợ vốn của ngân hàng để mở rộng qui mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản
xuất hàng hoá cũng được tăng lên.
1.2.2.7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội:
Tín dụng ngân hàng không những thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có
vai trò to lớn về mặt chính trị xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn
nói riêng đặc biệt là với một nước có trên 80% dân số sống ở nông thôn. Tín
dụng ngân hàng thông qua cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết

công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế được tệ nạn
xã hội.
Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm bớt những tệ nạn xã hội trong
quá trình thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần, tạo thêm công
ăn việc làm cho hộ sản xuất, tăng thu nhập, hạn chế bớt những phân hoá bất
hợp lý trong xã hội, giữ vững được nền tảng an ninh chính trị, góp phần củng
cố lòng tin của dân chúng nói chung và của các hộ sản xuất nói riêng vào sự
lãnh đạo cuả Đảng và Nhà nước.
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vi trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về
mặt kinh tế lẫn xã hội, chính trị để tín dụng ngan hàng đến với hộ sản xuất,
các ngân hàng phải ngày càng tự hoàn thiện mạng lưới tổ chức, biện pháp
nghiệp vụ của mình để góp phần đáp ứng một cách thuận tiện, kịp thời nhu
cầu vốn cho hộ sản xuất tạo điều kiện cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh
doanh ngoài những nỗ lực của bản thân ngân hàng thì Nhà nước, các ngành,
các cấp có liên quan cũng cần phải xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các ngân hàng ngày càng được mở
rộng và đạt hiệu qủa cao hơn.
1.2.3. Đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn:
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư tín dụng ngân hàng đối với
hộ sản xuất :
Tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng đối với mỗi ngân hàng nói
riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế tín dụng ngân
hàng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của
Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Đối với ngân hàng tín dụng ngân hàng là một hoạt động mang lại phần
lớn thu nhập cho ngân hàng do đó đánh giá đúng hiệu quả tín dụng sẽ giúp
các ngân hàng, các ngành có liên quan đưa ra được các biện pháp thích hợp để
thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra và là mục tiêu lợi nhuận của
bản thân ngân hàng, hiệu quả tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các mặt

sau:
- Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, hiệu quả tín dụng ngân
hàng trước tiên được thể hiện trong các chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung của
một số quốc gia. Tín dụng ngân hàng chỉ thực sự mạng lại hiệu quả cho nền
kinh tế khi nó làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tạo công ăn việc làm cho
người lao động, giảm lạm phát, góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế, làm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế tín dụng ngân
hàng thực sự có hiệu quả khi nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù
hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước.
- Mức độ lợi nhuận mà ngân hàng thu được với phương châm đi vay để
cho vay, do đó, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng phụ thuộc lớn vào khả
năng mở rộng đầu tư, cụ thể là hoạt động ngân hàng có tập trung được nguồn
vốn nhàn rỗi, có thực hiện cho vay nhiều, sử dụng vốn có hiệu qủa thì mới tồn
tại và đứng vững được. Đối với các ngân hàng, hiệu quả tín dụng được thể
hiện cụ thể nhất, dễ nhận ra nhất đó chính là lợi nhuận mà ngân hàng có được.
Một ngân hàng được coi là có hiệu quả cao nếu có mức lợi nhuận thu được
năm sau cao hơn năm trước.
Mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu trong cơ chế thị trường hiện nay,
ngân hàng thương mại là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập cho nên việc đảm
bảo an toàn tín dụng là rất quan trọng hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng
không chỉ phụ thuộc vào mức lãi suất mà ngân hàng thu được, mà còn phụ
thuộc vào khả năng thu hồi an toàn của mỗi đồng vốn bỏ ra theo đúng kỳ hạn
đã ghi trong hợp đồng tín dụng để tạo ra rủi ro các ngân hàng thương mại phải
chấp hành đầy đủ các qui định, qui chế về an toàn tín dụng do ngân hàng Nhà
nước ban hành, thẩm định cẩn thận trước khi cho vay, thường xuyên kiểm tra
việc sử dụng vốn của người vay.
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với việc phát
triển kinh tế hộ sản xuất.
Chỉ tiêu 1: Doanh số cho vay hộ sản xuất
Tổng số hộ sản xuất

Chỉ tiêu này phản ánh số vốn mà hộ sản xuất vay được từ ngân hàng,
tín dụng ngân hàng được coi là có hiệu quả khi doanh số cho vay cao, số hộ
được vay nhiều và số tiền vay trên mỗi lượt hộ lớn.
Chỉ tiêu 2: Dư nợ cho vay hộ sản xuất trung, dài hạn
Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất
Dư nợ cho vay trung và dài hạn phải đạt một tỷ trọng nhất định trong
tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất thì các hộ mới đủ vốn để cải tạo cơ sở vật chất
sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngăn chặn. Mục tiêu của ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là dư nợ cho vay trung,
dài hạn chiếm 30% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất.
Ngoài ra còn một số chỉ tiêu định tính phản ánh hiệu quả tín dụng ngân
hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản xuất như tốc độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn thu nhập hộ sản xuất.
+ Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất đối
với ngân hàng:
Chỉ tiêu 1: Hiệu quả sử dụng vố
n
=
Dư nợ cho vay bình quân
x 100%
Nguồn vốn huy động bình quân

×