Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dòng Chảy Của Nghệ Thuật Thị Giác pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.75 KB, 5 trang )

Dòng Chảy Của Nghệ Thuật Thị Giác

Khi nói đến các ngôn ngữ
nghệ thuật thì người ta dựa
trên những đặc trưng ngôn
ngữ và quan năng cảm thụ để
rồi chia nó làm ba lĩnh vực lớn
tương ứng: Nghệ thuật không
gian (Spacial Arts) bao gồm
mỹ thuật và kiến trúc, Nghệ
thuật thời gian (Temporal
Arts) bao gồm văn, thơ, âm
nhạc… và Nghệ thuật không
gian – thời gian (Spacial
Temporal Arts) bao gồm nghệ
thuật sân khấu, tạp kỹ, điện
ảnh.
Ở đây, chúng tôi đề cập chủ
yếu đến vấn đề quan năng cảm
thụ của nghệ thuật không gian
là con mắt (thị giác). Do đó,
nó còn được gọi là Nghệ thuật
thị giác (Visual Arts); quan
năng cảm thụ của Nghệ thuật
không gian – thời gian, tức là Nghệ thuật tổng hợp là cả hai: thị giác và thính
giác. Nghệ thuật tạo hình (Plastic Art) và tất cả các loại hình nghệ thuật như
nghệ thuật trang trí (Decorative Art), nghệ thuật thiết kế (Design Art) và
nghệ thuật thủ công (Craft Art) của lĩnh vực mỹ thuật Ứng dụng (Applied
Art) cũng là những bộ phận của nghệ thuật thị giác.
Nghệ thuật không gian và quan năng cảm thụ của loại hình nghệ thuật này
ngoài sự phân chia nói trên, thì ngày nay người ta còn chia mỹ thuật ra làm


các lĩnh vực như sau: Mỹ thuật hai chiều (Two dimensional Fine Arts), Mỹ
thuật ba chiều (Three dimensional Fine Arts) và Nghệ thuật môi trường
(Environmental Arts).Tương tự như vậy, người ta còn có các thuật ngữ như
sau: Truyền thông hai chiều (Two dimensional Media), Truyền thông ba
chiều (Three dimensional Media) và truyền thông đa phương tiện (Multi
Media, trong đó còn có “chiều ảo” được coi là chiều thứ tư).Nghệ thuật điêu
khắc cũng là nghệ thuật thị giác, là nghệ thuật truyền thông, thuộc thể loại ba
ANTHONY CARO. Hạ thánh giới.
Thép rỉ đánh xi
chiều. Trước hết tác phẩm nghệ thuật điêu khắc là sự thể hiện hoàn hảo mối
quan hệ tổng hòa giữa bản thân ý tưởng, hình tượng, ngôn ngữ trên cơ sở
không gian nội tại của mỗi tác phẩm. Ngoài cơ sở của tư duy thị giác, thì
khái niệm không gian ba chiều và môi trường trưng bày tác phẩm là những
yếu tố cơ bản trong tư duy tạo hình
của nghệ thuật này.
Đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ hội họa và
điêu khắc đã có sự chuyển biến
phong phú hơn từ khái niệm “tĩnh”
sang “động”; từ khái niệm nghệ
thuật không gian với đặc trưng “thời
gian đứng im” đã trông lẫn với “thời
gian động” thông qua sự ra đời của
trường phái Vị lai (Futurism) 1909,
với những tác phẩm của Balla
Boccioni, Marcel Duchamp,
Marinetti, Umberto. Năm 1950 với
sự ra đời của Nghệ thuật Chuyển
động (Movement hay Kinetic Arts),
nghệ thuật Động ảnh (Op Arts) với
những tác phẩm độc đáo của Valsarely, của Harvey Tarango, Takemitsu,

Stravinsky, Norman Perryman… Trong lĩnh vực điêu khắc cũng thế, những
hình khối tĩnh được phong phú hóa hơn với ngôn ngữ Điêu khắc chuyển
động (Kinetic Scuplture) thông qua sự phối hợp, sử dụng những motor cơ
khí để tạo nên những trạng thái chuyển động ở tác phẩm theo ý tưởng của
tác giả, tạo ra ngôn ngữ mới hiện đại. Các nhà điêu khắc tiêu biểu của
khuynh hướng này: Marcel Betrisey (Thụy Sỹ), Luke Blackstone (Mỹ),
Srrawut Chutiwongpet (Thái Lan), Viriginio Moutinho (Bồ Đào Nha),
Graham Williams (Anh)…
Điều này cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh cơ khí
trong ngôn ngữ nghệ thuật thị giác và thính giác, từ hội họa, điêu khắc và âm
nhạc. Từ xưa cho đến nay, dòng chảy của lịch sử mỹ thuật đã, đang trải qua
và đan xen, hòa lẫn trong nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều nền văn minh như:
văn minh nông nghiệp, công nghiệp, văn minh khoa học kỹ thuật, văn minh
văn tự, văn minh hình ảnh, nền văn minh tin học…Giờ đây chúng ta đang
sống, đắm chìm trong nền văn minh hình ảnh, nền văn minh của cường độ,
tốc độ của bạo động; nền văn minh tin học với sự bùng nổ của công nghệ
thông tin, cuộc cách mạng về kỹ thuật số (the digital revolution) với những
khả năng tạo mới về không gian và môi trường ảo… cùng với những tiến bộ
vượt bậc về khoa học kỹ thuật đan xen với những hỗn độn của bạo lực và
TONY CRAGG. Pallette của họa
sĩ. Được tạo nên từ những mảnh vỡ
bằng nhựa
khủng hoảng về nạn ô nhiễm về môi trường sống… Con người sống trong
nền văn minh này rất sợ nhân tính bị cơ – giới – hóa, trở thành máy móc,
khô khan. Họ không còn ham thích những loại sản phẩm mang tính sản xuất
hàng loạt, giống nhau. Họ khao khát những sản phẩm độc bản, những cảm
giác thô mộc, thậm chí hoang sơ với những khuynh hướng sáng tạo “mở”,
không rập khuôn, máy móc.Từ đó, trong mỹ thuật thế giới cũng cho thấy
những thay đổi thay niệm về nghệ thuật, về ý tưởng sáng tạo và từ đó đã sản
sinh ra nhiều khuynh hướng, trường phái nghệ thuật hội họa và điêu khắc

với những quan niệm mới có tính chất tổng hợp giữa ngôn ngữ nghệ thuật
thị giác và thính giác (thậm chí luôn cả khứu giác và xúc giác nữa), giữa
không gian lẫn thời gian (giữa thời gian ngắn và khoảnh khắc); chứ không
đơn thuần là nghệ thuật không gian mang tính chất “tĩnh” như trước đây…
Trong lĩnh vực hội họa, cho đến nay, thông qua sự xuất hiện của nhiều
trường phái, khuynh hướng, ngôn ngữ sáng tạo đã cho thấy có sự thay đổi về
mối quan hệ tương tác giữa: tác phẩm, tác giả và người xem. Điều này
chúng ta có thể khái quát, nhận diện qua 3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: Tác giả sáng tác, vẽ cái gì thì người xem sẽ thấy như thế ấy.
Như vậy, là tác giả và người xem có mối quan hệ tách bạch qua trung gian
của tác phẩm, người xem không hiểu sai ý của tác giả. Điển hình là khuynh
hướng hiện thực (Realism).
Giai đoạn 2: Tác giả sáng tạo nên tác phẩm theo khuynh hướng trừu tượng
(Abstractionism). Với ngôn ngữ này, người xem có thể hiểu khác hay tưởng
tượng hoặc sáng tạo thêm trong tư duy của mình khi nhìn ngắm loại tranh
này. Như vậy, người xem có thể không hiểu đúng ý tưởng của tác giả hoặc
tác giả cố ý để cho người xem tự do tưởng tượng thêm với những tên tác
phẩm “vô đề” hay “trừu tượng”…
Ở đây đã cho thấy sự thay đổi về mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và
người xem. Cả hai loại tác phẩm vừa nói trên, người xem vẫn vận dụng thị
giác và tư duy của mình để thưởng thức và chiêm nghiệm chúng. Đến nay,
cũng có một số người vẫn không thích khuynh hướng, ngôn ngữ sáng này.
Nhưng dù sao thì nó vẫn là một trong những quan niệm sáng hiện đại và nó
hoàn toàn không phải là ngôn ngữ ưu việt so với các loại quan niệm tạo hình
khác.
Giai đoạn thứ 3: hiện nay, tiêu biểu là khuynh hướng nghệ thuật sắp đặt
(Installation Arts). Mỗi tác phẩm loại này gồm một khối lượng vật thể ba
chiều lẫn hai chiều, mang tính tổng hợp giữa hình vẽ, hình ảnh, vật dụng…
được nghệ sĩ trưng bày (Display không gọi là Exhibition) trong khoảng
không gian, mặt bằng, vị trí cụ thể (Location) nào đó. Nơi này được coi là

hiện trường (Site) cho việc trưng bày.
Điều vô cùng đặc biệt là vì tác phẩm dạng này là một môi trường không gian
vật lý cụ thể cho nên muốn thưởng thức thì người xem phải “đi vào bên
trong” mới có thể nhìn ngắm, sơ mó (thậm chí ngửi thấy mùi vị của đồ
đạc)… trong quá trình thưởng ngoạn tác phẩm. Để thưởng thức tác phẩm
loại này người xem phải vận dụng sự tư duy tổng hợp, sự liên tưởng, tưởng
tượng… Trước đây, trong mỗi tác phẩm của minh, họa sĩ thường trình bày
“sự định hình một ý tưởng” nào đó. Còn ngày nay, trong nghệ thuật sắp đặt
thì tác giả chủ yếu trình bày “cả một tiến trình hình thành ý tưởng”. Như
vậy, mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và người xem đang ở trong mối
quan hệ khác trước hoàn toàn.
Hiện tại, trên thế giới khuynh hướng nghệ thuật sắp đặt còn ảnh hưởng trong
nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc và video nữa.
Riêng khuynh hướng nghệ thuật thân thể (Body Arts) thì có khi tác giả và
tác phẩm là một. Bởi vì bản thân con người tác giả được tô vẽ, xử lý, biến
hóa như một pho tượng chuyển động hay tĩnh lặng theo thế dáng nào đó kèm
theo những phụ kiện xung quanh nhằm tạo nên ý tưởng riêng. Như vậy, dù
cho là “tĩnh” hay “động” thì sự hiển thị, sự trình diễn của tác phẩm đều
thông qua trạng thái “diễn” của bản thân tác giả. Ở trường hợp này, mối
quan hệ chỉ còn hai vế, đó là: tác giả cộng tác phẩm và người xem. Tuy
nhiên cũng có khi tác phẩm là diễn viên thực hiện theo sự chỉ đạo của tác
giả. Còn ở tình huống thứ hai này thì mối quan hệ vẫn là bộ ba nhưng cũng
không giống như mối quan hệ bộ ba trước đó.
Tác phẩm nghệ thuật thân thể là dạng “vật thể ba chiều” là con người, là sự
diễn xuất mà diễn xuất thì phải có thời gian diễn, trong đó có mối quan hệ
giữa người diễn và người xem cũng như sự thay đổi trạng thái tâm lý của
người diễn tuỳ theo tình trạng sức khoẻ, độ dài của thời gian diễn (Duration)
không thể nào có sự ổn định tâm lý của người diễn từ lần đầu tiên so với các
lần sau cũng như trong suốt những ngày trình diễn.
Vì tính chất giới hạn của thời gian, do

theo tác diễn lặp đi lặp lại theo chu kỳ,
cho nên giới phê bình mỹ thuật hiện nay
đã liệt nghệ thuật thân thể (Body Arts),
nghệ thuật biểu diễn (Perfomance) và
nghệ thuật Video là dạng nghệ thuật phù
du (Ephemeral Arts). Nghĩa là loại nghệ
thuật chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, muốn
xem thì phải diễn hay chiếu lại (theo
“Arts Form” của Duane và Sarah Preble).
Cả hai loại tác phẩm: nghệ thuật sắp đặt
và nghệ thuật thân thể đều không thuộc
dạng tác phẩm để mua bán. Do vậy, mối
quan hệ mua bán dường như không được
đặt ra.
Về ngôn ngữ nghệ thuật điêu khắc, từ
năm 1978 đến nay cũng có những khuynh
hướng mới, như là dạng các tác phẩm sắp
đặt. Tác phẩm điêu khắc loại này là sự kết ghép phối hợp các vật liệu, đồ đạc
có màu sắc chất liệu khác nhau để tạo ra tác phẩm như là dạng Pop Arts. Thí
dụ: tác phẩm “bảng pha màu của họa sĩ” của tác giả Tony Cragg sáng tác
năm 1985; tác phẩm “không tên” của Christian Boltanski sáng tác 1989; tác
phẩm “thiên đường của đàn bà” của nghệ sĩ Hàn Quốc Nam June Paik sáng
tác 1989; tác phẩm “Đồ trang sức màu hoa cà” của Bernard Pagès sáng tác
1986…

Trên đây là lược đồ cho thấy dòng chảy các quan niệm tư duy sáng tạo của
nghệ thuật thị giác.
Mỗi chúng ta là những nhà giáo dục, người vừa làm công việc đào tạo và
sáng tạo chắc hẳn cảm nhận trong lòng mình những băn khoăn về nghề
nghiệp, về nội dung và phương pháp đào tạo trong hiện tại và tương lai trên

tinh thần gìn giữ, kế thừa, phát huy tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam cũng
như sẵn sàng đón nhận, tiếp thu những khuynh hướng sáng tạo thẩm mỹ hợp
với tinh thần dân tộc và xu hướng tất yếu của văn hóa thế giới.

BERNARD PAGÈS. Đồ trang
sức màu hoa cà.
Được tạo nên bằng sắt rỉ, tô màu

×