Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Luận văn: Tư tưởng đoàn kết trong tác phẩm “Nên học sử ta” của Hồ Chí Minh. pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.02 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố cốt lõi trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Trong bất kì hoàn cảnh nào thì đại đoàn kết dân tộc luôn tạo sự tin
tưởng vững chắc cho Đảng và Nhà nước khi vạch ra những hướng đi mới, mang lại nhiều
thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm đó trong hệ thống tư tưởng của Người.
Trong thực tế, Người cũng đã khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc là vô cùng
quan trọng được thể hiện qua tác phẩm “Nên học sử ta” (1942): toàn dân đoàn kết thì
nước ta độc lập tự do, trái lại nếu dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lược.
Chính vì vậy việc tìm hiểu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là
rất cần thiết. Từ đó phát huy tinh thần, vận dụng tư tưởng góp phần xây dựng đất nước
ngày càng giàu đẹp văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Về đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước cũng như các tầng lớp nhân dân luân
chú trọng quan tâm không chỉ ở thời nay mà còn được nghiên cứu, học tập từ trong lịch
sử nước nhà. Ta có thể thấy điều đó qua bài viết “Đại đoàn kết dân tộc – cội nguồn sức
mạnh của chúng ta” của Võ Văn Kiệt, “Bài học về Đại đoàn kết dân tộc triều Lý – Trần”
của nhà văn Đắc Trung hay bài tham luận “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc” của Huỳnh Đảm (Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch
UBTW Mặt trận tổ quốc Việt Nam) trong đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam
(2011).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
1
Đề tài nghiên cứu vai trò, nội dung và hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nghiên cứu vai trò và ý nghĩa của đoàn kết dân
tộc được nêu trong tác phẩm “Nên học sử ta” của Người.
4. Ý nghĩa.
Về lý luận: Đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng cũng như thuận lợi cho việc lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong mọi giai
đoạn.


Về thực tiễn: Đại đoàn kết dân tộc đã trở thành chiến lược cách mạng, trở thành sức
mạnh vật chất. Toàn dân tộc đã được tập hợp, tổ chức thành “Mặt trận dân tộc thống
nhất” theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta năm 1960.
5. Kết cấu của đề tài.
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
II. Tư tưởng đoàn kết trong tác phẩm “Nên học sử ta” của Hồ Chí Minh.
2
NI DUNG
I. T TNG H CH MINH V I ON KT DN TC.
1. Vai trũ ca i on kt dõn tc trong s nghip cỏch mng.
1.1. i on kt dõn tc l vn cú ý ngha chin lc, quyt nh thnh
cụng ca cỏch mng.
1.1.1. í ngha chin lc ca on kt dõn tc
H Chớ Minh ch ra rng trong thi i mi, ỏnh bi cỏc th lc quc thc
dõn nhm gii phúng dõn tc, gii phúng giai cp v gii phúng con ngi, nu ch cú
tinh thn yờu nc thỡ cha ; cỏch mng mun thnh cụng v thnh cụng n ni cn
phi tp hp c tt c mi lc lng cú th tp hp, xõy dng c khi i on kt
bn vng. Chớnh vỡ vy, trong t tng H Chớ Minh, i on kt dõn tc l vn cú ý
ngha chin lc, c bn, nht quỏn v lõu di, xuyờn sut tin trỡnh cỏch mng.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã thể hiện rõ đại đoàn kết là mối quan tâm hàng
đầu có tính chiến lợc hay, là t tởng lớn của Hồ Chí Minh. Sau đây là một vài dẫn
chứng :
- Sau khi gặp luận cơng của Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Hồ Chí Minh đấu tranh rất tích cực trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế , nhằm thực hiện luận điểm của Lê nin và khẩu hiệu nổi tiếng của Quốc tế Cộng
sản về đoàn kết quốc tế : Vô sản tất cả các nớc và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại .
- Khi tìm đợc con đờng cứu nớc, thấy đợc chân lý cách mạng, tháng 6 năm 1923, Hồ
Chí Minh quyết định rời Pari, bắt đầu cuộc hành trình về nớc. Trong th gửi các
đồng chí cùng hoạt động ở Pháp, Ngời nói rõ mục đích về nớc là : Tôi trở về nớc, đi

3
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đa họ ra đấu
tranh giành tự do độc lập (Hồ Chí Minh: dd,t1, tr192 ).
Ngay sau khi ở nớc ngoài về tới Cao Bằng ngày 28 tháng1 năm 1941 ngời cùng Đảng
ta tiến hành thực hiện đoàn kết toàn dân, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất và
ngày 19/5/1941, Hội Việt nam độc lập đồng minh (gọi tắt là mặt trận Việt minh ) đ-
ợc thành lập. Về thành phần, Mặt trận Việt Minh bao gồm những ngời yêu nớc trong
công nhân, nông dân và những ngời yêu nớc trong các tầng lớp nhân dân lao động
khác; mặt trận này do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo.
- Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 nớc Việt nam mới ra
đời, với cơng vị Chủ tịch nớc chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/09/1945, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết L-
ơng - Giáo là một trong 6 vấn đề cấp bách mà Chính phủ cách mạng phải tập trung
thực hiện nhằm giữ vững thành quả cách mạng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Đến dự Đại hội thống nhất(VM-LV) thành lập Mặt trận Liên Việt ngày
03/03/1951, Hồ Chí Minh vui mừng nói : Rừng cây đại đoàn kết dân tộc đã nở hoa
kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu rộng khắp toàn dân và nó có một cái tơng lai
trờng xuân bất lão
Thực hiện chủ trơng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, ngày 20/12/1960
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam ra đời. Về thành phần và lãnh đạo
của Mặt trận giống nh Mặt trận Việt minh trớc đây.
Từ đó cho đến khi qua đời, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc mở rộng
củng cố Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam. Ngời thờng xuyên gửi th, gửi
điện cho Chủ tịch Mặt trận Nguyễn Hữu Th nhằm chỉ thị , động viên không
ngừng mở rộng Mặt trận hơn nữa.
Vì vậy, ngày 21/04/1968, Liên minh các lực lợng dân tộc, dân chủ và hoà bình
Việt Nam ra đời do ông Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch; thành phần gồm những tri
4
thức, công chức yêu nớc trong bộ máy Ngụy quyền Sài Gòn kiên quyết chống ngoại xâm,
đánh đổ chế độ Nguỵ quyền giành độc lập, dân chủ, hoà bình và mong muốn

thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc ở Miền nam. Hồ Chí Minh khẳng định , liên
minh này Luôn sát cánh với Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam trong
công cuộc chống Mỹ cứu nớc ( Hồ Chí Minh: dd, tl2, tr461 ).
1.1.2. i on kt dõn tc cú ý ngha quyt nh n thnh cụng ca cỏch
mng.
quy t c mi lc lng vo khi i on kt ton dõn cn phi cú chớnh sỏch
v phng phỏp phự hp vi tng i tng. Trong tng thi kỡ, tng giai on cỏch
mng, trc nhng yờu cu v nhim v khỏc nhau, chớnh sỏch v phng phỏp tp hp
cú th v cn thit phi iu chnh cho phự hp vi tng i tng khỏc nhau, song i
on kt dõn tc phi luụn luụn c nhn thc l vn sng cũn, quyt nh thnh bi
ca cỏch mng.
Chớnh sỏch Mt trn ca ng ta v Ch tch H Chớ Minh t ra l thc hin
on kt dõn tc. Nh t tng nht quỏn v chớnh sỏch Mt trn ỳng n, ng ta v
Ch tch H Chớ Minh ó xõy dng thnh cụng khi i on kt dõn tc, a cỏch mng
Vit Nam ginh c nhiu thng li to ln. H Chớ Minh vit: on kt trong Mt trn
Vit Minh nhõn dõn ta ó lm Cỏch mng Thỏng Tỏm thnh cụng, lp nờn nc Vit
Nam Dõn ch Cng hũa.
on kt trong Mt trn Liờn Vit, nhõn dõn ta ó khỏng chin thng li, lp li hũa
bỡnh ụng Dng, hon ton gii phúng min Bc.
on kt trong Mt trn T quc Vit Nam, nhõn dõn ta ó ginh c thng li
trong cụng cuc khụi phc kinh t, ci to xó hi ch ngha v trong s nghip xõy dng
ch ngha xó hi min Bc.
T thc tin nh vy, H Chớ Minh ó khỏi quỏt thnh nhiu lun im cú tớnh chõn
lý v vai trũ ca khi i on kt: on kt lm ra sc mnh.
5
“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất định khắc
phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó”,
“Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng
lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt
của thành công”

“Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt
thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!”
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân
tộc.
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu hàng đầu của Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là sức mạnh, là
mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm
vụ hàng đầu của đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của
Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-3951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước
toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là:
Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”.
Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải
thấm nhuần quan diểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận
động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng,
phải thấm nhuần lời dạy “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng.
6
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ
hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò
của thực lực cách mạng. Bởi vì cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng
chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu,
nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập
hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân
tộc.
Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng Tám và trong

kháng chiến, nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc:
Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế
thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng.
Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng cộng sản phải có sứ mệnh thức
tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng,chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan,
tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong
khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc.
2.1. C¬ së thùc hiÖn ®¹i ®oµn kÕt d©n téc.
7
Hồ Chí Minh tìm thấy ở mỗi ngời dân Việt nam những đặc điểm chung nhất,
đó là : lòng yêu nớc nồng nàn.
Hồ Chí Minh đánh giá : Dân ta có lòng nồng nàn yêu nớc, đó là truyền thống
quý báu của ta. Từ xa đến nay, mi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lớt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nớc và lũ cớp nớc (Hồ Chí Minh: dd, t6, tr171 ).
Ngời tin rằng ; hễ là con dân nớc Việt, là con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên
Thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc ( Hồ Chí Minh : dd, t4, tr246 ).
Hồ Chí Minh cũng thấy rằng : Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ Đó là
mục đích cao nhất của mỗi ngời Việt nam chúng ta ( Hồ Chí Minh : dd, t11, tr 488 ).
Sau đó, Ngời bổ sung thêm mục đích cao nhất của mỗi ngời Việt nam còn là Dân
giàu, nớc mạnh .
Hồ Chí Minh tin rằng, với những điểm chung nhất này trớc sau ngời Việt nam sẽ

tìm đến nhau, đoàn kết thành một khối, phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, của
dân tộc, trong đó có quyền lợi của riêng mình.
Lịch sử đã chứng minh năm 1941, những ngời dân lao động yêu nớc Việt nam
đến với nhau, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật,
giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, quyền dân chủ cho nhân dân. Sau tháng 4 năm
1975, với lòng yêu nớc nồng nàn và có chung một mục đích cao nhất là một nớc Việt
nam độc lập, thống nhất, hoà bình, dân chủ , dân giàu , nớc mạnh, Mặt trận Tổ quốc
Việt nam ở miền Bắc, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam và Liên
minh các lực lợng dân tộc , dân chủ và hoà bình Việt nam, thống nhất thành một Mặt
trận chung có tên gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2.2. i on kt dõn tc l i on kt ton dõn.
ng trờn lp trng giai cp cụng nhõn v quan im qun chỳng, H Chớ Minh ó
cp vn DN v NHN DN mt cỏch rừ rng ton din, cú sc thuyt phc, thu
8
phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí Minh thường dùng
khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”,
không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không
phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”. Như vậy, dân và nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện
tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại
đoàn kết toàn dân.
Nói đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân
vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn
kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ
các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của
dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà con đoàn
kết lâu dài Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và

phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “Ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng
sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân
tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng
đó có lòng trung thành và săn sàng phục vụ Tổ quốc, không là việt gian, không phản bội
lại quyền lợi của dân chúng là được.
Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
9
giải phóng dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân
tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có lòng khoan dung, độ lượng,tin
vào nhân dân tin vào con người.
2.3.1. Đại đoàn kết dân tộc là phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân
nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân
nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của cả dân tộc trở thành giá
trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam,
được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các vua Hùng dựng nước, tới Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản săc dân tộc được giữ
vững.
2.3.2. Đại đoàn kết dân tộc là phải có lòng khoan dung, độ lượng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu
điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu Cho nên vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lồng
khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể

tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
Người viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó
rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp
nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn”.
10
Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón
đều thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người nói
rằng: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều dong dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là
con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc
lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết,
có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”.
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược nhất thời,
một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của
dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một
tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những
người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên
bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những
người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân biệt tầng lớp,
tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cùng nhau đoàn kết vì
nước, vì dân. Để thực hiện được đoàn kết cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà
hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng trong mỗi con người Việt Nam
“ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có
khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thi lòng yêu nước đó lại
bộc lộ.
Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc, Hồ Chí
Minh đã trân thành lôi kéo, tập hợp được chung quanh mình nhiều người trước đây vốn là
quan đại thần của Nam triều cũ như: thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan
Thế Toại vào khối đại đoàn kết toàn dân tạo điều kiện để họ đóng góp vào sự nghiệp

kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
11
2.3.3. i on kt cn phi tin vo nhõn dõn, tin vo con ngi.
Vi H Chớ Minh, yờu dõn, tin dõn, da vo dõn, sng, u tranh vỡ hnh phỳc ca
nhõn dõn l nguyờn tc ti cao. Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân trong t tởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở:
Một, theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định : Đảng cộng sản Việt nam là Ngời lãnh đạo
cách mạng Việt nam; song nếu chỉ có một mình Đảng thôi, không có ngời ngoài Đảng
tin theo, ủng hộ thì cách mang Việt nam không thể thắng lợi đợc.
Hai, là truyền thống t duy chính trị của dân tộc Việt nam .
T duy chính trị này thể hiện rõ trong các câu ca dao, tục ngữ đợc Hồ Chí Minh
sử dụng rất nhiều lần, chẳng hạn Nớc lấy dân làm gốc Chở thuyền là dân, lật
thuyền cũng là dân .
Với Hồ Chí Minh, Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lợng đoàn kết của nhân dân (Hồ Chí Minh: dd, t8, tr 276 ).
Tin vào dân, dựa vào dân trong t tởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tin vào, là
dựa vào tinh thần yêu nớc, ý chí giành độc lập tự do, xây dựng một đất nớc Việt nam
hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh ; là tin vào, là dựa vào lực lợng to
lớn của nhân dân; là tin vào, là dựa vào sáng kiến của nhân dân.
Theo Ngi, dõn l ch da vng chc ca ng, l ngun sc mnh vụ tn v vụ
ch khi i on kt, quyt nh thng li ca cỏch mng, l nn, gc v ch th ca
Mt trn.
Trong bi Núi chuyn ti Hi ngh i biu Mt trn Liờn Vit ton quc, thỏng 1-
1955, Ngi ch rừ: i on kt tc l trc ht phi on kt i a s nhõn dõn, m
i a s nhõn dõn ta l cụng nhõn, nụng dõn v cỏc tng lp nhõn dõn lao ng khỏc. ú
12
là nền, gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.

3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
3.1. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trân dân tộc thống
nhất.
3.3.1. Cơ sở hình thành tổ chức.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm,
ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng,
phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức
mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân
tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo
vệ và xây dựng tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được
giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng
đắn.
Nếu không được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng
trăm triệu con người thì cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Thất bại của các
phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời đã chứng
minh rất rõ điều này.
Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng quá trình tìm đường cứu nước
của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng
nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng
mình và giải phóng xã hội.
Chính vì vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng
13
ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn của cách
mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên
hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công
giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn Trong đó bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập

hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà bao gồm cả những người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất kỳ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê
hương đất nước, về Tổ quốc Việt Nam đều được coi là thành viên của Mặt trận.
3.3.2. Sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng, cương lĩnh
và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của
Mặt trận dân tộc thống nhất theo đó cũng có thể khác nhau:
Hội phản đế đồng minh (1930)
Mặt trận dân chủ (1936)
Mặt trận nhân dân phản đế (1939)
Mặt trận Việt Minh (1941)
Mặt trận Liên Việt (1946)
Mặt trận dân tộc giải phóng miên Nam Việt Nam (1960)
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955,1976)
Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt
Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
14
3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Nguyên tắc thứ nhất: Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền
tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Khối liên minh công – nông – trí thức đoàn kết chặt chẽ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ
của con dân nước Việt. Song, đó không phải một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát
của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng
khối liên minh công – nông – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn
toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong

lịch sử.
Trên thực tế, và theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người
chung một nước phải thương nhau cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý
luận vững chắc.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ
rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp sản xuất
tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột
nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác”.
Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công – nông cần
chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông mà không thấy
vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với các tầng
lớp trí thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với
cách mạng. Người nói “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
15
nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần đoàn
kết chặt chẽ thành một khối”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất va liên minh công nông
luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt
trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí thức
ngày càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc càng vững chắc, càng có sức mạnh mà
không một kẻ thù nào có thể phá nổi.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa mang tính nguyên tắc, vừa là một
tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là
một tất yếu đảm bảo cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì
chỉ có chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mac-Lenin mới

đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại
đoàn kết trong Mặt trận, biến tiến trình cách mạng trở thành ngày hội thật sự của quần
chúng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối
quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận , Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện
được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của đảng, Mặt trận không thể
hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn.
Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống
nhất vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có điều
kiện.
16
Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách
quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp,
lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực
lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt trận có thể làm được
Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc,
Đảng không có lợi ích nào khác. Mặc dù vậy,quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không
phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được chính quyền, “Đảng không thể đòi hỏi
Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì
Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn, từng thời kì cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại
đa số nhân dân.
Người viết: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt

trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.
Trong quá trình lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không
được quan lieu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong Mặt trận; phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của mình
để buộc các thành viên khác trong Mặt trận phải tuân theo.
Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận, Hồ Chí Minh căn dặn:
“Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và Đảng viên không
được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi điều hay
17
điều tốt ở mọi người… phải tích cực và phải chủ động… làm việc phải kiên nhẫn, phải
thiết tha với Mặt trận.
Cán bộ và Đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ
tiến bộ nhiều”.
Nguyên tắc thứ hai: Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo
đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song
khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ
về mục tiêu và lợi ích.
Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng,
chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung mục đích, số phận. Nếu không suy nghĩ như
nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đoàn kết
thế nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể có được.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể,
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc
vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ
đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tâng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo
vào trong Mặt trận. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc
bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên
hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận,

mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng
lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội phù hợp với mọi
tầng lớp, từng đối tượng tỏng mỗi thời kỳ lịch sử.
18
Nguyên tắc thứ ba: Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích
khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận phải được
đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ
mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận. Do
vậy tất cả mọi chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước
Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm
kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa ích lợi dân tộc và ích lợi giai cấp, lợi
ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt Phải làm cho tất cả các
thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt
lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích
chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng.
Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng
với tiến trình chung của cách mạng thông qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích

riêng. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng,
thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
19
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp
phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu:
“Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng
khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
Nguyên tắc thứ tư: Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm
tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn
bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những
nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị” – lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt, mặt khác, Người nêu rõ:
“Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường
xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời
phải có tấm lòng nhân ái, khoan dung độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận,
phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt
chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Người viết: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết
thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển
Mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô
độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào Mặt
trận; mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn

20
kt mt chiu, vụ nguyờn tc, on kt m khụng cú u tranh ỳng mc trong ni b
Mt trn.
3.3. Mt s phng phỏp hot ng ca Mt trn dõn tc thng nht.
Ph ơng pháp thứ nhất : Phơng pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng
thật sự khoa học.
Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải thật sự khoa học. Do
vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc tìm tòi lựa chọn các nội dung
tuyên truyền, giáo dục, vận động phải phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của quần
chúng. Phơng pháp này nhằm làm cho mọi ngời nhận thức đợc sự cần thiết phải tập hợp
nhau lại, từ đó tự giác tham gia tổ chức đoàn kết quần chúng cách mạng trong mặt trận
dân tộc thống nhất.
Nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng đợc Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng và xác định đúng ngay từ đầu. ó là những nguyện vọng chung, sâu
xa nhất của cả dân tộc, của toàn dân (nh hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu,
dân chủ, nớc mạnh ). Nguyện vọng chung, sâu xa nhất của dân tộc, của toàn dân,khi
tuyên truyền toàn dân đoàn kết, Hồ Chí Minh còn chú ý cả tới nguyện vọng riêng của
mỗi giai cấp, của mỗi tầng lớp nhân dân; chẳng hạn nh ruộng đất cho nông dân nghèo.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải đáp ứng đ-
ợc cả hai yêu cầu chung và riêng. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vấn đề này và thực
hiện rất thành công trong cách mạng Việt Nam ngay t năm 1941.
Tuỳ theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, để đoàn kết
toàn dân, Hồ Chí Minh đã đa vào cơng lĩnh cách mạng của đảng những mục tiêu
chiến lợc phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử, những khát vọng cháy
bỏng của toàn dân. Trớc cách mạng tháng tám năm 1945, Ngời nêu cao mục tiêu chiến lợc:

Độc lập dân tộc, ngời cày có ruộng

. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nớc, Ngời chỉ rõ mục
tiêu chiến lợc của thời kỳ này là : Độc lập hoàn toàn cho dân tộc, thống nhất trọn vẹn

cho đất nớc; Ngời khng định

Không có gì quý hơn độc lập tự do

.
21
Đặc biệt, khi tuyên truyền, giáo dục, vận động để toàn dân đoàn kết, Hồ Chí
Minh hết sức quan tâm đến việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nguyện
vọng chung của cả dân tộc và nguyện vọng riêng của từng giai cấp lao động, từng tầng
lớp nhân dân theo phơng châm chỉ đạo nhất quán là phải đặt quyền lợi của dân
tộc, của tổ quốc lên hàng đầu, lên trớc hết.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng
giai cấp, từng cộng đồng xã hội nh đối với giai cấp công nhân, nông dân, trithức, văn
nghệ sỹ, cán bộ chiến sỹ lực lợng vũ trang nhân dân, với thanh niên, phụ nữ, đồng bào
dân tộc ít ngời, với cộng đồng tôn giáo, với quan lại, hoàng tộc, với nhân sỹ yêu nớc, với
ngời lầm đờng lạc lối Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất cả, phấn đấu hy sinh vì tất cả
những khỏt vọng, những ớc mơ sâu lắng của dân tộc và của mỗi con ngời, do vậy t tởng
đại đoàn kết của Ngời có sức mạnh to lớn tập hợp toàn dân đoàn kết.
Có th nói, Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vân động, giáo dục toàn dõn
thực hiện đại đoàn kết. Bản thân ngời cũng toả sáng một mãnh lực tập hợp, đoàn kết
toàn dân, tập hợp đoàn kết các lực lợng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Ph ơng pháp thứ hai : Xây dựng, kiện toàn không ngừng phát triển hệ thống
chính trị cách mạng hay tổ chức một cách khoa học.
Hệ thống chính cách mạng nớc ta từ năm 1945 đến nay bao gồm:
+ Đảng cộng sản, cụ thể là Đảng cộng sản Việt Nam ;
+ Nhà nớc cách mạng Việt Nam;
+ Các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc thống nhất do
Đảng lãnh đạo.
Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất bền vững của hệ thống chính trị là nhân tố
quyết định s tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn két toàn dân.

Đảng cộng sản có vai trò quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển và sức
mạnh của dại đoàn kết trong hệ thống chính trị cách mạng. Vì vậy, Ngời luôn hết sức
22
quan tâm công tác xây dựng Đảng, sao cho Đảng thật sự là một tổ chức chính trị vững
mạnh, trong sạch, đoàn kết, nhất trí,. đủ sức lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân.
Về nhà nớc cách mạng, theo Hồ Chí Minh hoạt động của nó ảnh hởng rất lớn đến
đoàn kết toàn dân và đến cả đoàn kết quốc tế. Bởi vì đối với mỗi chính sách, mỗi
quyết định, mỗi việc làm đúng của các cấp chính quyền, Nhà nớc, sữ có sức mạnh
rất lớn, gắn nhân dân với Đảng, gắn nhân dân với nhau thành một khôi, đồng thời tăng
thêm đoàn kết giữa nhân dân ta, giữa dân tộc ta và bạn bè thế giới; ngợc lại, có thê làm
rạn nứt khối đoàn kết toàn dân, ảnh hởng xấu đến đoàn kết quốc tế. Vì vậy để
khối đại đoàn kết toàn dân tồn tại, sức mạnh đoàn kết đợc tăng cờng. Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố Nhà nớc, cách mạng. Nhất là UBND
các cấp, nơi trực tiếp tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Về các đoàn thể chính trị- xã hội, theo Hồ Chí Minh đây là sợi dây gắn kết
Đảng với nhân dân, gắn kết nhân dân với nhau , thực hiện đoàn kết và cũng là nơi
thể hiện sức mạnh đoàn kết. Vì vậy, theo Ngời, xây dựng củng cố, phát triển, đoàn
kết các tổ chức quần chúng hay các đoàn thể chính trị xã hội trong Mặt trận dân
tộc thống nhất thực sự là vấn đề chiến lợc, không thể xem đây là vấn đề sách lợc
của cách mạng
Hồ Chí Minh là ngời sáng tạo vun đắp Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là
ngời thầy về phơng pháp và tổ chức các đoàn thể chính trị xã hội nói chung, Mặt
trận dân tộc thống nhất nói riêng.
Về tổ chức các đoàn thể quần chúng cách mạng có bốn luận điểm sau:
Luận điểm thứ nhất : các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải đợc xây dựng từ
thấp đến cao phù hợp với yêu cầu và nhân thức của quần chúng.
Lúc đầu có thể là các tổ chức sơ khai, truyền thống ( nh hội hiếu hỷ, đồng h-
ơng ) trên cơ sở đó xây dựng các đoàn thể cách mạng đơn giản, rồi tiến tới xây dựng
các đoàn thể cách mạng chặt chẽ rộng khắp, đấu tranh chính trị là chủ yếu.
23

Luận điểm thứ hai: Hình thức các tổ chức, các đoàn thể quần chúng phải hết
sức đa dạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, tên gọi các đoàn thể phản
ánh đúng mục đích chính trị cốt yếu nhất của mỗi thời kỳ cách mạng.
Ví dụ, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa ( 1941- 1945 ) nhiệm vụ chính trị cốt yếu
là cứu quốc, giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Vì vậy tên gọi các hội, ngành
đều có hai từ

cứu quốc

và hai từ

Việt Nam

nh : Việt Nam công nhân cứu quốc,
Viẹt Nam nông dân cứu quốc tất cả các hội Cứu quốc này hợp thành hội Việt Nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh
Luận điểm thứ ba : cơng lĩnh, chơng trình hoạt động của các tổ chức, các đoàn
thể quần chúng phải hết sức rõ ràng, thiét thực , nội dung phải phong phú , phù hợp với
nguyện vọng và yêu cầu của mỗi đối tợng quần chúng .
Luận điểm thứ t : cán bộ các tổ chức , đoàn thể quần chúng phải đạt công tác
dân vận lên hàng đầu.
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác đoàn thể, cac bộ phận phải :
+ Hoà mình trong dân, coi dân là chủ, mình là đầy tớ
+ Miệng nói tay làm.
+

Ba cùng

với nhân dân
+ Hiểu nguyện vọng của quần chúng, học hỏi quần chúng

Ph ơng pháp thứ ba : Kết hợp đồng bộ các giải pháp ứng xử sao cho có thể mở
rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng, thu hẹp đến mức tối da trận tuyến thù
địch.
Trong đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, tơng quan lực lợng thờng phân định
thành ba tuyến lực lợng rõ rệt : Tuyến cách mạng , tyến phản cách mạng và tuyến trung
gian ở giữa hai tuyến cách mạng và phản cách mạng.
Phơng pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp đồng bộ các giải pháp
ứng xử các tuyến lực lợng này, nhằm mục tiêu mở rộng đến mức tói đa trận tuyến cách
mạng, thu hẹp đến mức tối thiểu trận tuyến thù địch, tạo thế áp đảo của cách mạng
24
đối với phản cách mạng, từng bớc làm suy yếu kẻ thù và giành thế chủ động cho cách
mạng.
- Với lực lợng cách mạng : Phơng pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là khai
thác, phát huy những điểm chung, những điểm tơng đồng, qua đó hạn chế khắc phục,
tiến tới xoá bỏ dần những khác bit trong mục tiêu, lợi ích để mọi ngời xích lại gần
nhau, đoàn kết thành một khối.
- Với lực lợng phn cách mạng, cụ thể :
+ Với bọn đế quốc xâm lợc, phơng pháp Hồ Chí Minh là :

kiên quyết
không ngừng thế tấn công

và hễ còn tên xõm lợc trên đất nớc ta thì ta phải tiếp tục
chiến đấu quét sạch nó đi.
+ Đối với bọn Việt gian tay sai đế quốc phản bội quyền lợi tổ quốc, phơng
pháp Hồ Chí Minh là dùng phép nớc để trị. Ngời nói :

Đi với những kẻ cố ý hại dân,
can tâm phản quốc, phép nớc sẽ không khoan hồng quốc dân sẽ không tha thứ


( Hồ
Chí Minh : đr, t5,tr561 ).
+ Đối với vua quan, nguỵ binh, công chức cũ đã chịu đầu hàng cách mạng
hoặc bị cách mạng bắt, phơng pháp Hồ Chí Minh là khoan hồng, tha thứ, động viên họ
tham gia việc nớc, cải tà qui chính. Theo Hồ Chí Minh, những ngời này cùng


máu đỏ
da vàng

, cũng là

con dân nớc Việt

,

chẳng qua có lúc vì lợi ích nhỏ mà quên
nghĩa lớn

nên độ lợng khoan hồng, tha thứ họ. Ngời nhắc nhở Chính Phủ :

không để
tâm moi ra những tội cũ đem làm án mới

( Hồ Chí Minh : đr, t4, tr45, t6, tr305 )
- Với lực lợng trung gian : Phơng pháp ứng xử đối với lực lợng này của Hồ Chủ
Tịch là : Đặc biệt quan tâm, tranh thủ , lôi kéo về phía lực lợng cách mạng, đoàn
kết lâu dài, trọng dụng đức tài của họ. Qua đó gay lòng tin cho nhân dân, thực hiện
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đồng thời cô lập kẻ thù của dân tộc, của giai cấp.
Lực lợng trung gian đợc Hồ Chí Minh quan tâm đoàn kết, trọng dụng là :

+ các quan lại, nhân sỹ yêu nớc ( Cụ Phan Kế Toại, Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng
Đoàn )
+ Những trí thức yêu nớc ( Luật S Phan Anh, Ông Đặng Thai Mai )
25

×