Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNG CHÙA KIM LIÊN THỜI LÊ TRỊNH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.13 KB, 13 trang )

KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNG CHÙA KIM LIÊN THỜI LÊ TRỊNH-
NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI


Tam quanchù a Kim Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội, Thế kỷ
XVIII

Chùa Tây Phương là ngôi chùa cổ nổi tiếng về kiến trúc, điêu khắc rất đặc sắc, là
đỉnh cao của Mỹ thuật Việt Nam. Chùa được xây trên núi Câu Lậu nay thuộc thôn
Yên Xá, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Chùa Kim Liên cũng nổi tiếng
về kiến trúc tương tự như một cặp bài trùng, được dựng trên đất làng Nghi Tàm
ven hồ Tây thơ mộng thời xa xưa. Ngày nay, chùa đã bị lui vào trong, ẩn chìm sau
các công trình dân sinh, khách sạn to lớn xây lấn ngoài ven hồ (nay thuộc phường
Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội)
Xưa nay, đa số chúng ta chỉ tiếp cận với bản dịch của tác phẩm: Vũ trung t
ùy bút
dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và tập hạ l
à Tang thương
Ngẫu lục dựa theo bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện(1). Ngoài ra là dựa tr
ên
một số văn bia kể về lịch sử của hai chùa nhưng hiểu chưa đư
ợc đầy đủ, phân tích
cặn kẽ, có liên quan đến một số danh sĩ đã viết rất cụ thể về lịch sử chùa mà họ l
à
người trong cuộc và là nhân chứng lịch sử của ba triều đại kế tiếp nhau: Lê- Tr
ịnh,
Tây Sơn và Nguyễn.
Những phát hiện trong quá trình tìm hiểu tác phẩm Vũ trung tùy bút c
ủa Phạm
Đình Hồ, nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh(2) đã công bố còn là các b
ản dịch


còn thiếu hai đoạn nhắc đến việc trùng tu xây dựng ch
ùa Kim Liên và chùa Tây
Phương. Những tư liệu đó có thể góp phần vào việc xác định niên đ
ại kiến trúc hai
ngôi chùa này nên chúng tôi xin được trích dịch để bạn đọc tham khảo. Hai đo
ạn
văn nói trên nằm trong văn bản được sao chép vào niên hiệu Thành Thái th
ứ 8
(1906), có n
ội dung sai khác khá nhiều so với văn bản Đông châu Nguyễn Hữu
Tiến dịch ra quốc ngữ mà bạn đọc lâu nay vẫn quen thuộc. Hai đoạn văn này n
ằm
ở tập hạ. Xin được dịch ra như sau:
Đoạn một: “Nay khảo Hồng Đức bản đồ thì Câu Lậu ở Thừa Tuyên Sơn Tây ch

vào ngọn núi ở làng Nguyên Xá, huyện Thạch Thất không còn nghi ngờ gì n
ữa.
Trên núi có chùa Tây Phương thời Trinh Uy Vương (Trịnh Giang) đạo h
ương
công tu sửa suốt ba năm không xong. Dân ở Sơn Tây nhiều nhà vì việc n
ày mà
khốn khổ. ông Trần Danh Tiêu thân bị đánh đập sỉ nhục, triều đình nghị b
àn khép
vào tội chết, sau nhờ bỏ tiền ra chuộc mới được miễn. Sau Tiêu trung h
ầu đi qua
Di ái Đan Phượng bắt nhầm ông Trần Mô sai khiêng võng đ
ến Vân Canh. Dân
tình chấn động Tiêu mới thả Trần Công ra. Trần Công không chịu ôm cả đ
òn võng
đến phủ Chúa trình tờ khải về việc sửa chùa, việc mới chịu dừng”

Đoạn hai: “Chùa Kim Liên ở Làng Nghi Tàm, huyện Quảng Bá xưa kia không bi
ết
tên gì. Khoảng thời Cảnh Hưng Thánh tổ Thịnh Vương (Tr
ịnh Sâm) sai nhặt
nhạnh ở chùa Bảo Lâm đề làm rồi ban tên là Kim Liên Tự. ông Phan Trọng Phi
ên
có phụng chỉ soạn văn bia:
Xưa chùa Bảo Lâm ở phía Tây phủ Chúa, phía Bắc gần chùa Bào Thiên, Th
ời Dụ
tổ Thuận Vương (uy vương Trịnh Giang) cho trùng tu. Hoạn quan l
à Tiêu trung
Hầu coi xét công việc, đã cho l
ấy gỗ lim từ Nghệ An, lợp bằng ngói kiểu mới ở
các lò ngói công, cực kỳ tráng lệ. Trước tòa tam bảo thờ tượng Thuận Vương đ
ội
mũ cổn, mặc áo cổ chéo, tay tả cầm ngọc khuê, tay hữu buông thõng, hai chân đ

trần. Đến khi Thịnh Vương Tổng chính, để tránh âm dương k
ỵ nhau mới dời điện
và tượng đến Nghi Tàm Khi Tây Sơn chiếm nước, Tư đ
ồ Nguyễn Văn Dũng(3)
từng lên chùa này chỉ vào tượng nói:
- Sao lại có tượng ở đây?
Người trụ trì trả lời: Đó là tượng vua. Dũng nói:
Không được, đây là tượng chủ cũ của ngươi. Sau này cứ thờ ta như th
ờ chủ cũ của
ngươi là được, sao không đem cất đi?
Trụ trì bèn dời thẳng xuống hậu đường, thờ cùng với di tượng của Huệ
hòa
thượng”.

Hai đoạn văn trên đã cho một số thông tin lịch sử sau:
1. Thời chúa Uy Vương Trịnh Giang cử Trung sứ xây dựng hai
chùa Tây Phương
và Bảo Lâm cùng một người chỉ huy là Tiêu Trung H
ầu. Lúc xảy ra việc, ông tiến
sĩ Trần Danh Tiêu có liên quan tới việc tu sửa chùa suốt ba năm không xong, n
ên
bị đánh đập, sỉ nhục, triều đình nghi bàn khép vào tội chết. Khi Tiêu Trung H
ầu đi
bắt, lại bắt nhầm tiến sĩ Trần Mô sai khiêng võng đến Vân Canh. Tiêu Trung Hầu
phát hiện ra là bắt nhầm nên đã thả Trần Mô. Lý do bắt nhầm vì hai ông có nhi
ều
điểm giống nhau là: cùng họ Trần, cùng quê ở huyện Đan Phượng, cùng đ
ỗ tiến sĩ
khoa Quý sửu niên hiệu Long Đức thứ 2 (1733) (Thời xưa thường danh xưng b
ằng
họ). Tiến sĩ Trần Mô khi được thả ra đã ôm cả đòn, võng đến phủ chúa trình t

khải về việc sửa chữa chùa, vi
ệc mới chịu dừng (việc bắt ông). Những thông tin
này cho thấy Tiêu Trung Hầu trông coi xây dựng hai chùa Tây Phương và B
ảo
Lâm nên đã có cùng một kiểu thiết kế kiến trúc mang đặc điểm l
à làm Hành cung
của chúa Trịnh.
2. Đoạn thứ hai Phạm Đỉnh Hồ cho biết thời Thuận Vương, Tiêu Trung Hầu đã l
ấy
gỗ lim từ Nghệ An, lợp ngói kiểu mới trung tu chùa B
ảo Lâm ở phía Tây Phủ
Chúa, cực kỳ tráng lệ. Đến đời chúa Trịnh Sâm (Thịnh Vương) đã cho d

ời về Nghi
Tàm và đặt tên là chùa Kim Liên. Những sự việc này còn đư
ợc ghi lại ở bia đá đời
Vua Tự Đức thứ 21 (1867): “Năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771) vua sai công thần l
à
Thiều quận công Phan Huy Đĩnh và Thái giám Tuân sinh h
ầu Nguyễn Khắc Tuân
di chuyển gỗ chùa Bảo Lâm ở phía Tây thành đến đây. Nhân có cái nền cũ m
à xây
dựng chùa gọi tên là Kim Liên” (tấm bia này hiện dựng tại chùa Kim Liên). C
ũng
sự việc này ta còn thấy ghi trong sách Tây hồ chí: “Năm Cảnh Hưng th
ứ 32 (1771)
chúa Trịnh Sâm sai lấy gỗ chùa Bảo Lâm và chùa Quán sứ sang để sửa chữa ch
ùa
này và đổi tên thành Kim Liên. Quan Đại học sĩ thời ấy là Phan Trọng Phi
ên còn
làm bia ghi lại nay vẫn còn”(4)
ở phần hai (tư liệu mới phát hiện) Phạm Đình Hồ còn cho bi
ết một số chi tiết quan
trọng là tư đồ Nguyễn Văn Dũng đến thăm chùa Kim Liên và đã có một cử ch
ỉ rất
văn hóa là bắt cất tượng của uy vương Trịnh Giang đi mà không đập phá. Ông c
òn
dạy rằng “sau này cứ thờ ta như thờ chủ cũ của ngươi là được”, lúc n
ày là chùa
Kim Liên còn nguyên vẹn. Như vậy ông đến thăm vào lúc nào? Đại tướng Võ V
ăn
Dũng theo Quang Trung ra giải phóng Thăng Long tháng giêng năm K
ỷ Dậu

(1789) tiêu diệt quân Thanh, ông giữ chức Đại tư đồ tước quận công, Kinh lư
ợc sứ
Bắc Hà, Tổng trấn binh mã 4 trấn Bắc Hà t
ừ năm 1789 đến 1792. Sau chiến thắng
Võ Văn Dũng còn phải lo việc phòng thủ, ổn định nhân dân nên ông ch
ỉ có thế đến
thăm chùa Kim Liên vào khoảng năm 1790 (trước khi về thăm qu
ê làng Đan Giáp,
Thanh Miện, Hải Dương) đến đầu năm 1792. Tháng 4 năm 1792, Đại tư đồ V
õ
Văn Dũng cùng Nguyễn Quang Thùy, Phan Huy ích, Võ Văn Tấn đưa Giả vư
ơng
Phạm Công Tri sang Yên Kinh (Bắc Kinh) gặp vua nhà Thanh. S
ự việc ông đến
thăm thấy tượng thờ uy vương Trịnh Giang và bắt cất đi, sư trụ trì dời tư
ợng
xuống hậu đường thờ cúng cùng với di tượng của Huệ hòa thượng (sư Huệ trư
ớc
đây là nội thị của chúa uy vương, đến thời Chúa Trịnh Sâm ông ra trụ tr
ì chùa Kim
Liên). Từ đó suy ra tấm bia “Hậu thần bi ký” niên hi
ệu Quang Trung thứ 1972 chỉ
là sửa chữa nhỏ lặt vặt của dân phường Nghi Tàm, kinh phí nh
ỏ hẹp, thời gian
ngắn (2 tháng) làm sao có thể tạo dựng được chùa hoành tráng đẹp đẽ đến nh
ư
vậy. Khi tư đồ Võ Văn Dũng đến thăm chùa trước khi tu sửa ông còn thấy tư
ợng
uy vương ở tòa tiền đường liền bắt sư trụ trì mang xuống thờ ở hậu đư
ờng. Việc

xây dựng lớn là hoang đường vì lý do sau: Biến cố ngày 29 tháng 7
năm Nhâm Tý
(1792) Vua Quang Trung mất đột ngột m
à ngay sau đó 1 tháng là tháng tám năm
Nhâm Tý (1792) lại được phép trùng tu xây lớn, dựng lại ho
àn toàn chùa Kim
Liên là không thể xảy ra được vào thời điểm Hoàng đ
ế Quang Trung mất. Năm
năm sau, mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) Phạm Đình Hồ cùng với ba ngư
ời bạn đến
thăm lại chùa, tả lại cảnh chùa khói sóng man mác, ông còn xuống hậu đư
ờng tả
lại di tượng Chúa uy Vương, lúc đó mới gặp chú tiểu trong chùa đang b
ẻ hoa về
tiến cúng, đón mời khách vào chơi. Ông Phạm Đình H
ồ viết rất nhiều về lịch sử
chùa, từ việc nhỏ đến việc lớn mà không hề có một chữ nào về việc đại tr
ùng tu
chùa, ta có thể hiểu là việc xây dựng lớn ch
ùa Kim Liên năm 1792 là không có
thực.
Phạm Đình Hổ là người rất thân thiết với chùa Kim Liên? Trước kia Hòa thư
ợng
Huệ, Tả chí hầu là người bạn của thân phụ ông và là nội thỉ của chúa uy v
ương
nên thỉnh thoảng ông đến chơi thăm chùa. ông có bài thơ Quá Kim Liên t
ự chép
trong tập Đông Dã học ngôn thi tập. Bài thơ có hai câu mở đầu như sau:
Binh ngạnh phiêu phù khách cố kinh.
Kim Liên tự lý kỷ hồi kính.

(Cánh bèo trôi nổi làm khách cố kinh. Chùa Kim Liên đã mấy lần qua lại).
Là một nhân chứng lich sử, là m
ột học giả luôn có ý thức ghi lại những điều tai
nghe mắt thấy để giúp cho những bậc hiếu cổ sau này có căn cứ để khảo cứu thì l

nào khi nhắc đến lịch sử chùa chuyện chùa được xây dựng lại ho
àn toàn vào
thời Tây Sơn lại không được ông nói đến? (dẫn theo Trần Thị Kim Anh)
Sự nhầm lẫn về niên đại xây dựng chùa Tây Phương từ năm 1734 lùi xu
ống năm
1794
Trên thượng lương (xà nóc) chùa Tây Phương hiện nay còn ghi rõ dòng ch
ữ:
“Giáp Dần niên quý đông cát nhật tạo” (1734) là năm ghi ngày kh
ởi công xây
dựng chùa niên hiệu Long Đức. 5 tháng sau, tháng 4 năm ất M
ão (1735) chúa
Trịnh Giang lập vua ý Tông lên ngôi đổi niên hiệu là V
ĩnh Hựu năm thứ nhất, việc
làm chùa vẫn tiếp tục tới năm Canh Thân niên hi
ệu Vĩnh Hựu năm thứ 6 (1740).
Đến tháng 3 năm 1740, bãi việc xây hành cung ở chùa Tây Phương và Qu
ỳnh Lâm
(Đại Việt sử ký tục biên trang 165). Đợt trùng tu, làm tượng này kéo dài t
ới 6 năm,
chùa làm đã xong nên trong lời tự của Phan Huy ích về việc l
àm chùa Tây Phương
vào đời Vĩnh Hựu là đúng và hoàn toàn phù hợp. Tiếc thay sách ch
ùa Tây Phương
viết: “Năm Giáp Dần ở đây gắn với năm Mậu Ngọ 1798) viết bài minh chuô

ng,
hẳn là năm 1794, đã dựng lại chùa theo đúng kiểu chùa Kim Liên (Hà N
ội) dựng
năm 1792” (Lịch sử chùa Tây Phương trang 12). Đây là lời suy luận rất vu v
ơ
không dựa trên một chứng cớ cụ thể văn bản cổ nào. Bài Mỹ thuật thời Tây S
ơn
lấy lý do năm Giáp Dần (1734) chưa phải là niên hiệu Vĩnh Hựu nên cho l
ời Phan
Huy ích viết làm chùa năm Vĩnh Hựu là không phù hợp, đẩy năm Giáp Dần lùi l
ại
60 năm và khẳng định phải là Giáp Dần năm 1794. Lúc đó là tri
ều vua Cảnh Thịnh
nhà Tây Sơn.
Hai lý do tự suy luận này đã không thể đứng vững vì nh
ững sự kiện lịch sử thời
điểm này của nhà Tây Sơn với những văn bản thư tịch, bia đá và nh
ững nhân
chứng lịch sử đã biết và mới phát hiện như đã trình bày ở trên và sau đây: Ki
ến
trúc và điêu khắc tượng phật, La Hán, Kim Cương chùa Tây Phương có đư
ợc độc
đáo đỉnh cao về nghệ thuật là do phát tri
ển nghệ thuật tích tụ trong nhiều đời, một
thời gian dài gần hai thế kỷ Lê Trịnh. Theo bia Tây Phương sơn sùng phúc t
ự bi:
“Ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Thân (1632) trùng tu chùa Sùng Phúc núi T
ây
Phương điện 3 gian. Hậu đường và hành lang 22 gian ngày 2 tháng 2 năm
ất

Hợi đặt lễ hội an tượng, khai quang điểm nhãn (1635) Nguyên soái, t
ổng quốc
chính sư phụ Thanh Vương” (Chúa Trịnh Tráng) sau đó còn kéo dài b
ổ sung do
công chúa và Vương phi họ Trịnh đến năm 1639.
Đợt trùng tu lớn thứ hai do chúa Trịnh Căn tu sửa lớn l
àm tam quan vào năm Canh
Ngọ niên hiệu Chính Hòa 11 (1690) (bia Thập phương tín thí th
ạch bi). Sang thế
kỷ XVIII chúa Trịnh Giang tiến hành sửa quy mô nhiều chùa, kể cả
Tây Phương
từ năm 1735 đến 1740. Chùa Tây Phương có một nhân chứng lịch sử l
à Phan Huy
ích thường viết về lịch sử chùa. Ông luôn nh
ấn mạnh xây về đời Vĩnh Hựu. Phan
Huy ích là một danh nhân trong lịch sử Việt Nam triều Tây Sơn. Ông sinh ra

làng Thu Hoạch huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, theo cha chuyển cư ra làng Th
ụy
Khuê huyện Thạch Thất trấn Sơn Tây. Năm 1775 đỗ hội nguyên, bổ làm th
ửa chỉ.
Năm 1777 làm đốc đồng Thanh Hóa, Thiêm sai Tri hình ph
ủ Chúa. Năm 1786,
Đốc đồng Nghệ An. Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, ông đư
ợc tiến cử với
Nguyễn Huệ được phong cho chức Tả thị lang bộ hộ tước Thụy nham hầu. Ông l
à
học trò và là con rể Ngô Thì Sĩ, anh vợ Ngô Thì Nh
ậm. Năm 1789 Phan Huy ích
từ Phú Xuân ra Bắc thành cùng với Ngô Thì Nhậm làm công vi

ệc bang giao với
nhà Thanh. Năm 1792 được cử trong đoàn s
ứ hộ tống vua Quang Trung giả sang
nhà Thanh.
Năm 1788 khi về quê ông có bài thơ Qua chùa Tây Phương, ông vi
ết ở lời chú:
“Còn tượng phật chùa chiền dựng trên đỉnh núi là vào khoảng niên hi
ệu Vĩnh Hựu
(1735- 1740) Thuận Vương (Trịnh Giang) có ủy cho viên Trung x
ứ đến xây”.
Thời điểm này là ông theo vua Quang Trung ra Bắc, đánh Mãn Thanh xâm lư
ợc.
Ông đã viết: “kịp khi vật đổi sao đời, vạn vật đổ nát Mùa đông M
ậu Thân (1788)
tôi đến nơi đây, nhìn bóng tùng xưa mà lòng b
ồi hồi nhớ cảnh cũ”(5). Ông thấy
chùa còn nhưng mất chuông. Chính vì vậy mà năm 1796 thời Tây Sơn, với tư th
ế
một viên quan lớn của triều đại mới tước hầu, ông đã là hội chủ đứng ra h
ưng
công đúc chuông, cúng 10 quan tiền cổ và nhận lời các vi kỳ lão trong thôn vi
ết
bài minh văn chuông. Sùng Phúc tự chung sau hai năm (1798). Đoạn mở đầu b
ài
minh chuông ông đã khẳng định: “Trước đây dưới triều vua Lê niên hi
ệu Vĩnh
Hựu, vua sai trung sứ xây dựng lại thiền viện to lớn, điêu kh
ắc thông pháp, chế tác
pháp âm tiếng kêu vang bên tai”, sau đó ông viết đoạn hồi tưởng năm 1788 như


trên. Bài minh viết tiếp: “nay gặp lúc thịnh thời, thiện nam tín nữ trong ấp quy
ên
góp tiền của, hưng công tu t
ạo đúc quả chuông lớn nặng chừng 200 cân. Tiếng
chuông lại ngân vang như xưa. Mỗi khi rảnh rỗi, tôi thư
ờng đến đây thăm thú”.
Như vậy, việc đại tu lớn về kiến trúc, làm tượng chùa Tây Phương năm 1794 th
ời
Tây Sơn không xảy ra đề ông có thể ca ngợi, nói đến và viết v
ào bài minh trên
chuông với tư cách ông quan Tây Sơn sau đó hai năm. T
ới năm 1809, triều
Nguyễn lên ông viết bài thơ: Mùa thu trèo lên chùa núi Tây Phương ghi l
ại những
cảnh nhìn thấy (Thu đăng Tây Phương sơn t
ự ký kiến) cũng ghi lời chú nhấn mạnh
rằng chúa Uy vương Trịnh Giang đã sai sửa chùa và tạc “mười pho tượng c
ực kỳ
khéo léo” điều đó ông đã lại đề cập đến việc làm tám vị tượng kim cương, b

tượng tam thế, tượng A đi đà t
ọa sen chạm khắc tinh vi họa tiết rực rỡ, trang trí
cân đối, đẹp đẽ dưng di về tạo hình vào thế kỷ XVIII.
Phan Huy ích là một ông quan lớn, hưởng lộc của triều Tây S
ơn, năm 1802 ông
cùng Ngô Thì Nhậm bị vua Gia Long bắt giam rồi cùng b
ị đem ra Văn Miếu đánh
đòn. Ông đã góp nhiều công sức trong việc bang giao khôn khéo, hòa hiếu với nh
à
Thanh, đề cao tinh thần độc lập với nhà Thanh, luôn viết về lịch sử ch

ùa Tây
Phương mà lại không nói đến việc đại trùng tu thời Tây Sơn là đi
ều ta buộc phải
suy nghĩ rằng điều đó đã không xảy ra và không có nghệ thuật Tây Sơn.
Bối cảnh lịch sử khó khăn, mâu thuẫn nhiều biến động bi tráng thời Tây Sơn
Năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi
ở Phú Xuân (Huế) sách danh lam xứ Huế viết:
“Năm 1786 quân Tây Sơn chiếm Huế cùng chùa Thi
ền Lâm có quy mô to lớn,
tráng lệ chùa bị chiếm dùng làm dinh quan thái sư Bùi Đắc Tuy
ên. Ông dùng nơi
này làm dinh thự làm việc, tiếp khách, có người hầu hạ. Phan Huy ích khi v
ào làm
quan thượng thư đã lui tới nơi này (DLXH/22) nhiều chùa bị biến th
ành cơ
xưởng quân giới như chùa Hàm Long, Thiên Th
ọ (Sđd/25) Phan Huy ích ở Huế
năm 1797 ông trở lại thăm chùa Thiên Mụ, một ngôi chùa lớn và đẹp, th
ấy cảnh
phật tiêu điều, hoang phế ở kinh đô Phú Xuân thời Tây Sơn không khỏi ngậm ng
ùi
với hai câu thơ:
Am xưa nay biến tế đàn
Chùa xưa thờ Phật nay toàn để xe(6)
Vương triều Tây Sơn n
ội bộ lục đục, chém giết, mâu thuẫn hai anh em sâu sắc. Từ
tháng 1 đến tháng 5 năm 1787 Nguy
ễn Huệ mang quân đánh Nhạc. Năm 1788
ngày 25 tháng 11 ông lên ngôi Hoàng đế ra đánh Mãn Thanh, sau đó lo
ổn định

thù trong giặc ngoài chưa xong vua Quang Trung đột ngột mất giờ dạ tí (23-24 gi

đêm) ngày 29 tháng 7 âm lịch năm Mậu Tý (1792). Nguyễn Nhạc từ Quy Nh
ơn ra
điếu tang đến Quảng Ngãi, nghe tin Vua Quang Toản cho đem 1000 quân v
ào
Quảng Nam thì lập tức quay lại. Lợi dụng cơ hội này, chúa Nguy
ễn cho quân đánh
Nha Trang, đánh Diên Khánh, đánh Bình Khang ( Phú Yên), vây thành Quy Nh
ơn.
Nguyễn Nhạc đóng chặt cửa thành, viết thư c
ầu cứu Quang Toản. Quang Toản cho
tướng Phạm Công Hưng vào giải vây. Khi vào thành, Nguyễn Nhạc
cho con là
Văn Bảo đến cảm tạ biếu 1 mâm vàng 1 mâm bạc nhưng Phạm Công Hưng b
ảo:
“phải mang cả thành dâng cho vua” rồi sai quân tịch biên kho tàng, tịch bi
ên khí
giới và chiếm thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc có ý chống lại nh
ưng không có ai
giúp sức nên tức hộc máu chết mất ngày 13 tháng 12 năm 1793(7)
Sau khi vua Quang Trung mất các con còn nhỏ, các quan triều Tây Sơn l
ục đục
Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở mưu chiếm đoạt ngôi vua, chỉ c
òn 20 ngày
nữa là khởi sự (1794). Nhưng Võ Văn Dũng phát hiện theo dõi bắt quả tang th
ư
liên lạc giữa Bùi Đắc Tuyên với Ngô Văn Sở mà vua Quang Toản không biết. V
õ
Văn Dũng đã hợp binh với Thái bảo Hòa bắt Bùi Đắc Tuyên và con là Bùi Đ

ắc
Trụ giết đi, cùng lúc đó giả chiếu vua Quang Toản cho Hoàng đệ Quang Th
ùy
mang chiếu ra Bắc bắt Ngô Văn Sở lúc đó là Tổng trấn Bắc thành đem v
ề Phú
Xuân (Huế) giết chết bằng cách trầm hà (dìm dưới nước). (Tổng tập Nghìn n
ăm
Văn hiến Thăng Long tập I/ Vương triều Tây Sơn trang 1560-1586) Nh
ững bi kịch
này còn tiếp diễn vì quan phụ chính Bùi Đắc Tuyên có cháu là nữ tướng Bùi Th

Xuân vợ Trần Quang Diệu đem quân chống Võ Văn Dũng.
Kết luận lại từ những tư liệu mới phát hiện trong tác phẩm Vũ tr
ùng tùy bút giúp
chúng ta hiểu biết về người trông coi xây dựng chùa Tây Phương và chùa B
ảo
Lâm là do Tiêu trung hầu nội thị trong phủ Chúa xây dựng kéo dài 6 năm đ
ời Vĩnh
Hựu. Hai chùa xây có mang yếu tố cung đình, một quan phủ chúa chỉ huy v
à là
Quốc tự nên mới có yếu tố giống nhau. Đặc biệt ch
ùa Tây Phương, chùa Kim Liên
là do nhiều đời chúa Trịnh tôn tạo, làm tượng, có lễ lớn khai quang điểm nh
ãn.
Chùa Bảo Lâm được nói rõ là chúa Trịnh Giang cho làm có cả tượng thờ ng
ài.
Năm 1771 Thịnh Vương Trịnh Sâm lại cho dỡ chùa B
ảo Lâm, sai Quận thiều
Phạm Huy Đĩnh và Tuân sinh hầu trông coi việc trung tu chùa đặt tên mới l
à Kim

Liên tự (ba đại tự này giát vàng) đặt ở tam quan cổng ch
ùa. Tam quan chùa Kim
Liên dựng trên 4 cột lớn đội các vì kèo ch
ạm khắc, các đầu mái uốn cong vút gắn
tứ linh bằng gốm nung màu cam lộng lẫy. Cổng tam quan của Kim Liên là l
ối kiến
trúc vào vương phủ chúa Trịnh ở Thăng Long.(8)
Ngoài ra những tư liệu lịch sử phức tạp khó khăn, mâu thuẫn của triều đ
ình Tây
Sơn từ 1789 đến 1792 đư
ợc 3 năm vua Quang Trung chết. Đến năm 1793 vua Thái
Đức, anh cả nhà Tây Sơn chết cho ta thấy rõ một triều đại quá ngắn ngủi vì n
ội bộ
lục đục tự chém giết nhau, chưa đủ thời gian hưng thịnh để có thể xây dựng đư
ợc
những công trình kiến trúc, những pho tượng hiện thực, sinh động đẹp đẽ như v
ậy.
Trong lời dẫn Nhà xuất bản Mỹ thuật có viết một câu rất hay: “Dù đ
ã không ít bài
và sách viết về chùa Tây Phương, song theo dõi vẫn thấy còn những mảng hổng v
à
có một số thông tin chưa chuẩn xác” đó là những ý kiến nghiêm túc. Với những t
ư
liệu mới và quá trình nghiên cứu trong thời kỳ đổi mới cho phép ta tư duy m
ới để
đạt những kết quả nghiên cứu về mỹ thuật chuẩn xác về nghệ thuật cổ Việt Nam.
Một điểm cần lưu ý về từ ngữ của danh s
ĩ Phan Huy ích, ông có ba lần nói về việc
xây chùa làm tượng ở Tây Phương.
1. Trong lời chú của bài thơ Qua chùa Tây Phương năm 1788 viết: “Còn tư

ợng
phật chùa chiền dựng trên đỉnh núi là vào khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-
1740) Thuận Vương có ủy cho viên Trung xứ đến xây”
2. Năm 1798 ông viết trong bài minh chuông chùa Tây Phương, ông l
ại viết khác
đi một chữ “Lê “: “Trước đây dưới triều vua Lê, niên hi
ệu Vĩnh Hựu, vua sai trung
sứ xây dựng lại thiền viện to lớn, điêu khắc tượng pháp, chế tác pháp âm tiếng k
êu
vang bên tai”. Chữ Lê là chỉ vua Lê và ông đã không viết là chúa Trịnh Uy v
ương
cho làm? Chính vì thời Tây Sơn lúc đó giương cao khẩu hiệu “Phù Lê di
ệt Trịnh”
do mưu của Nguyễn Hữu Chỉnh bầy ra giúp cho Bắc Bình vương Nguy
ễn Huệ ra
đánh Bắc Hà. Đặc điềm này cũng giúp cho bài minh và qu
ả chuông tồn tại trong
thời Tây Sơn là vua Lê, né tránh ca ngợi xây dựng của chúa Trịnh thật l
à khôn
khéo của nhà ngoại giao.
3. Lần thứ ba năm 1809 thời Nguyễn, ông viết bài thơ về tả cảnh vật nhìn th
ấy
chùa trên núi Tây Phương lại ghi lời chú nhấn mạnh chúa Uy vương Tr
ịnh Giang
sai sửa chùa và tạc: “Mười pho tượng cực kỳ khéo léo” để khẳng định lại l
à chúa
Trịnh làm, không phải vua Lê hoặc Tây Sơn.
Để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, tôi xin trình bày bài viết này v
ới
mong muốn: rất cẩn thận trọng, suy nghĩ, nghiên c

ứu về Mỹ thuật cổ Việt Nam để
không có nh
ững nhận thức sai lạc trong việc đánh giá Mỹ thuật cổ truyền thống,
của các tiền nhân đã viết và làm ra một nền kiến trúc, điêu kh
ắc đỉnh cao chói lọi
và rực rỡ thế kỷ XVII, XVIII thời Lê Trịnh. Tác giả mong nhận đư
ợc những lời
trao đ
ổi của bạn đọc trong “đối thoại khoa học về mỹ thuật”, cần sáng tỏ minh
bạch để không bị nhầm lẫn đến lệch lạc, bóp méo lịch sử.
TRỊNH QUANG VŨ


(1) Bản dịch của đông Châu Nguyễn Hữu Tiên đã từng đăng trên t
ạp chí Nam
Phong từ số 121 tháng 9/1927 và của Trúc Khê, Ngô Văn Triện- Nhà xu
ất bản
Văn học tháng 5/1972.
(2) Trích Văn hóa dân gian số 7 (229- 2003)- Tổng tập Nghìn năm Văn hi
ến
Thăng Long tập 3 trang 1721- 1723
(3) Võ Văn Dũng được ban họ nhà vua
(4) Tây Hồ chía/ trang 26 dẫn theo Tổng tập Nghìn năm Văn hi
ến Thăng Long/
1716
(5) Lời kể trong bài minh trên chuông
(6) Danh lam xứ Huế- Nhà xuất bản Hội nhà Văn năm 1993, trang 142
(7) Hoàng Việt Hưng Long chí- Tiến sĩ Ngô Giáp Đậu/ 1990-1991- NXB Văn h
ọc
1993

(8) Ngô Thế Trinh sách Bắc Ninh làng cũ quê xưa- Trung tâm văn hóa ngôn ng

đông tây 2000 trang 62- Lược sử Mỹ thuật Việt Nam- NXB T
ừ điển Bách khoa,
trang 204.

×