Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.29 KB, 60 trang )







Báo cáo thực tập tốt nghiệp



Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân
hàng Công thương khu vực Đống Đa
1
1


Mục lục
Lời nói đầu 2
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương
mại 3
I/ Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: 3
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại: 3
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại. 5
3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại: 7
II. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại: 8
I. Vài nét về Ngân hàng công thương khu vực đống đa: 27
II. Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa 33
I.định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng 47
II. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng
công thương khu vực đống đa 48


III. Một số kiến nghị: 56
2
2

Lời nói đầu

Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đầu tư cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà
nước, việc chuyển đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một
quốc gia như Việt Nam.
ở Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN và
theo luật pháp của Nhà nước. Từ đó nền kinh tế thị trướng phát triển tất yếu sẽ tạo
ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại ngân hàng như: Ngân
hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh bao gồm: Ngân hàng công
thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển của các ngân hàng liên doanh, Ngân hàng
cổ phần cho nên cần tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân
hàng, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế.
Hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự
vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của
đất nước, hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh kinh tế mới. Cụ thể là từ hệ thống Ngân hàng ba cấp
chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, từ sau khi có hai pháp lệnh Ngân hàng
(5/1990) tách bạch chức năng: Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý Nhà
nước đối với hệ thống Ngân hàng, chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
hàng thuộc về Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng với nội dung nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi cấp tín dụng, cung ứng và dịch vụ thanh toán.
Sau hơn 10 năm đổi mới Ngân hàng đã đưa lại nhiều thành quả. Đóng góp
tích cực vào thành tựu chung đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt cho Ngân sách. Đặc biệt là

Việt Nam đã thành công trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả. Hoạt động
Ngân hàng đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn trong và ngoài nước đảm
bảo cho tăng trưởng kinh tế với mức độ cao. Tuy nhiên hiện nay lĩnh vực Ngân
hàng đã bộc lộ những yếu kém mà dư luận xã hội đang quan tâm về những tiềm ẩn
3
3

và nguy cơ không lành mạnh. Đặc biệt là chất lượng tín dụng chưa cao đang đòi
hỏi tìm kiếm những giải pháp tháo gỡ có hiệu quả.
Qua thời gian học tại trường và thời gian thực tế tại Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa, cùng với việc nhận thức sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng hoạt động tín dụng Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, với sự chỉ dẫn và
chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn và cán bộ hướng dẫn thực tập Ngân hàng
Công thương Đống Đa. Từ thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực
Đống Đa. làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa. là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp. Song trong quá
trình tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa tôi đã đi vào
nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng của ngần hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại
ngân hàng công thương đống đa.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân
hàng công thương đống đa.





Chương I
ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
I/ Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại trước hết là một doanh nghiệp,vì Ngân hàng thương
mại hoạt giống như các doanh nghiệp khác: có vốn riêng, mua vào, bán ra,có chi
4
4

phí và thu nhập, có nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân hàng Nhà nước, có thể lãi hoặc
lỗ, có thể giầu nên hoặc phá sản.
Ngân hàng Thương mại kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng
tạo điều kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất , lưu thông và phân phối sản phẩm xã
hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế mở rộng kinh doanh góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Nói tóm lại Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư thực hiện nghiệp vụ triết khấu
và làm các phương tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân về nền kinh
tế càng phát triển cao, hoạt động của Ngân hàng Thương mại càng đi sâu vào đời
sống kinh tế của đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại mang tính cạnh tranh cao độ. Trong
nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự nhiên, không lệ thuộc
vào nhuận thực hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Mục tiêu của kinh doanh,
là tối đa hoá lợi nhuận, an toàn trong kinh doanh không ngừng gia tăng doanh thu.
Nên cạnh tranh không ngừng xảy ra nên thị trường đây chính là chìa khoá của mỗi
doanh nghiệp để đạt được tham vọng trong thương trường và cạnh trạnh là điểu
không tránh khỏi. Ngân hàng Thương mại ra đời trên cơ sở sản xuất và lưu thông

hàng hoá phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt động của Ngân hàng
Thương mại với các chức năng , vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín
dụng.Ngân hàng Thương mại đã trở thành bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại hoạt
động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực
sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín
dụng Ngân hàng Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong
lưu thông . Tiền tệ là kết của quá trình phát sinh lâu dài của sản xuất hàng hoá. Nó
ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của việc mở rộng giao lưu kinh tế, mở rộng thị
trường làm cho kinh tế hàng hoá phát triển của quá trình sản xuất và lưu thông
5
5

hàng hoá. Trong quá trình đó đã phát triển yêu cầu vay mượn vốn lẫn nhau giữa
các thương gia nhằm đáp ứng cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vốn được
chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và phải có một Ngân hàng đứng ra
làm trung gian để cho người thừa vốn và người thiếu vốn gặp nhau. Thông qua
hoạt động tín dụng là chiếc“cầu nối” đưa họ đến với nhau, dần dần thiết lập nên
mối quan hệ mật thiết với nhau đó là quan hệ vay mượn. Ngân hàng Thương mại
là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho
vay”. Đây là hình thức sơ khai của tín dụng. Chính trên cơ sở của sự phát triển đó
Ngân hàng cũng đồng thời xuất hiện, trong cuốn Tư Bản (Tập III, phần II) Các
Mác đã viết “Một mặt Ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có
tiền cho vay, mặt khách nó là sự tập trung của những người đi vay”.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ
hoạt động tín dụng và cho đến nay vẫn bằng con đường đó.
Trong qúa trình hoạt động của Ngân hàng Thương mại đáp ứng nhu cầu của
thị trường dẫn tới sự phân chia và hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai cấp:
Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt động Ngân hàng và các
Ngân hàng Thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Như vậy hoạt

động của Ngân hàng Thương mại rất đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn ở
quy mô, tính toàn cầu, tính hiện đại trong công nghệ Ngân hàng.
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Nghiệp vụ Ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc Ngân hàng
thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Các nghiệp vụ Ngân hàng
Thương mại có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Các nghiệp vụ cơ bản, chủ yếu của Ngân hàng Thương mại bao gồm:
- Nghiệp vụ huy động vốn.
- Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Một số nghiệp vụ khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn:
6
6

Đây là nghiệp vụ chủ yếu để tạo nên nguồn vốn kinh doanh của Ngân
hàng, Ngân hàng có thể huy động vốn bằng một trong hai cách sau:
Nhận tiền gửi: Đây là nghiệp vụ mang tính truyền thống, đây là nghiệp vụ
nhận tiền gửi một cách thụ động, nó phụ thuộc vào ý muốn của người có tiền gửi
vào Ngân hàng.
- Phát hành các phiếu nợ: Có thể ngắn hạn và có thể là dài hạn, đây là hình
thức huy động vốn chủ động tức là Ngân hàng có kế hoạch ấn định được thời gian
và số lượng cần phát hành. Để thực hiện được nghiệp vụ này, Ngân hàng sử dụng
công cụ chính lãi suất.
Vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại chủ yếu là vốn đi vay và vốn
tự tạo, vốn tự chỉ có thể chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn tín dụng.
Vốn đi vay của Ngân hàng Thương mai bao gồm: Tiền vay trên thị trường,
tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ, tiền vay trên thị trường trái phiếu, tiền vay
chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tất cả gộp lại thành nguồn vốn tín dụng của
Ngân hàng Thương mại.

Trong quá trình sử dụng các nguồn vốn tiền gửi và vay trên thị trường, công
nghệ Ngân hàng đã tạo ra một nguồn vốn mới gọi là tự tạo để có thêm bổ sung
chho nhu cầu tín dụng và đầu tư cho các ngành kinh tế, cung ứng thêm phương
tiện thanh toán cho các doanh nghiệp, việc tổ chức kinh tế để mở rộng sản xuất
kinh doanh trong cả nước.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương
mại, nó thể hiện ở nhiều Ngân hàng, dư nợ chiếm trên 70% tổng tài sản có. Đây là
nghiệp vụ sinh lời cao nhất mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng.
Song đây cũng là nghiệp vụ mang lại rủi ro nhiều nhất cho Ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn đến lợi nhuận
có tính thanh khoản của các hợp đồng cho vay chỉ ở vào vị trí thứ yếu vì Ngân
hàng không thể đòi nợ trước hạn nếu quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với khách
hàng vẫn diễn ra bình thường.
Ngoài ra Ngân hàng còn đầu tư vào mua công trái, trái phiếu, tín phiếu kho
bạc giấy tờ có giá do Kho bạc Nhà nước đại diện cho Chính phủ phát hành và các
giấy tời có giá có khả năng thanh toán cao và trách nhiệm cao của các Công ty lớn.
7
7

Bất cứ chứng khoán nào cũng có thể đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng nếu
Ngân hàng chủ yếu quan tâm đến việc nâng cao thanh khoản thì đầu tư vào các tín
phiếu do Kho bạc phát hành.
Mặt khác Ngân hàng đầu tư vào các chứng khoán nhằm phân tán.
2.3. Một số nghiệp vụ khác: Ngân hàng thực hiện kinh doanh và làm dịch vụ
hưởng hoa hồng theo sự uỷ thác của khách hàng, các nghiệp vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ thu hộ, chi hộ.
- Nghiệp vụ uỷ thác.
- Mua hộ bán hộ.
- Môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại tập trung chủ yếu vào nhận tiền gửi

và cho vay. Đó là hai mặt hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu tạm thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế hoặc
cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Xét trên góc độ khác, khi hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và
phát triển một cách đa dạng , phong phú, với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế,
quan hệ tín dụng hàng ngày càng mở rộng về đối tượng và quy mô thì hoạt động
của tín dung của Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để các Ngân hàng Thương mại có tồn tại và phát triển đứng vững trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường và để phục vụ nền kinh tế ngày một tốt
hơn, đòi hỏi các Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả các hoạt động tín tụng hay
nói cách khác là phải nâng cao chất lượng tín dụng.
3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại:
- Ngân hàng thương mại giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo
điều kiện phát triển kinh tế.
- Ngân hàng Thương mại tạo môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Trung ương.
8
8

- Ngân hàng Thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại
giữa các quốc gia.
II. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
1. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
Quan niệm về chất lượng tín dụng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng trực tiếp mà nó còn được thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng của khách hàng vay, nói rộng hơn nó được thể hiện qua sự tăng trưởng và
phát triển của các ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở hiệu
quả sử dụng vốn tín dụng của khách hàng thì chất lượng tín dụng ngân hàng mới

được đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ nét ở một số khía cạnh sau đây:
a - Chất lượngtín dụng nhìn từ phía khách hàng vay vốn:
Một khoản tín dụng được đánh giá có chất lượng đối với người vay khi
khoản tín dụng đó bù đắp một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu thiếu hụt về vốn của
khách hàng vay. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra nhịp
nhàng, làm tăng sản lượng hàng hoá sản xuất ra, tăng vòng quay vốn và do đó tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b - Nhìn từ lợi ích xã hội:
Dưới giác độ này, tín dụng được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ và làm
tăng hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp đơn lẻ, tạo điều kiện để những
doanh nghiệp này thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước giải quyết được
việc làm cho người lao động, tạo nên tốc độ phát triển chung của nền kinh tế.
Đồng thời, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng sẽ góp phần tích cực vào việc
thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu của xã
hội và của từng thành viên sẽ được đáp ứng một cách tốt hơn.
c - Từ phía ngân hàng:
Với ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định thông qua các chỉ tiêu cơ
bản sau đây:
- Phục vụ tốt sự phát triển của các ngành, các địa phương theo định hướng
của Nhà nước qua từng thời kỳ.
9
9

- Các khoản tín dụng được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng, có
hàng hoá, vật tư tương đương làm đảm bảo.
- Các khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi góp phần
tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm thiểu các khoản nợ quá
hạn, nợ khó đòi, trên cơ sở đó, tăng doanh lợi cho hoạt động của các ngân hàng
thương mại.


2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại:
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư tín dụng, góp phần điều hoà nguồn
vốn trong xã hội từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Giúp cho Ngân hàng có một nguồn
vốn nhất định và giải quyết quan hệ cung cầu về vốn. Đồng thời làm tăng tốc độ luân
chuyển hàng hoá và tiền vốn. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho Ngân
hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế. Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt
tronglưu thông. Thông qua cho vay bằng chuyển khoản các Ngân hàng có khả năng mở
rộng tiền ghi sổ bấp nhiều lần so với số tiền thực có. Vì vậy tín dụng còn là nguyên
nhân của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng
cung cấp đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Tín dụng là công cụ để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản
xuất xã hội, đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiền tàmg về tài nguyên, lao độg,
tiền vốn, đảm bạ chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các
vùng trong cả nước theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước.
2.1. Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, các thủ tục
về tín dụng được đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc sẽ tạo
điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng, từ đó đi đến hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay
nặng lãi, góp phân lành mạnh hoá quan hệ tín dụng.
Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương
mại: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, Ngân hàng muốn tồn tại và phát
1
1
0
0


triển thì hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy cũng như tất cả các doanh nghiệp hoạt
động sản xuất kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân hàng phải giải
quyết được các mâu thuẫn trong quá trình kinh doanh: mâu thuẫnvề giá cả, mức
cung cầu của vốn
Bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng trung
thành, khách hàng có quan hệ thường xuyên và gắn bó lâu dài với Ngân hàng vì
đối với Ngân hàng tạo lập củng cố và phát triển được ngày càng nhiều khách hàng
truyền thống. Ngân hàng phải thiết lập được nhiều khách hàng trung thành, các
khách hàng trung thành này sẽ không bỏ Ngân hàng mà ra đi với các Ngân hàng
khác vì thế Ngân hàng phải quan tâm đến lợi ích, nhu cầu của họ.
2.2. Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng tạo lòng tin đối với khách hàng, trong điều kiện nền
kinh tế mở cửa khách hàng có thể lựa chọn Ngân hàng này làm đối tác cho mình.
Vì tiền họ gửi vào Ngân hàng là đồng tiền quay vòng và sinh lời. Nếu là một Ngân
hàng uy tín trên thị trường thì Ngân hàng đó gặp rất nhiều thuận lời và giao dịch
với những khách hàng lớn thậm chí có cả khách hàng nước ngoài. Để tạo uy tín
hay lòng tin nào đó củanhg thì ko khó nhưng Ngân hàng phải làm sao tạo được tin
tưởng khi khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng, khi khách hàng đến giao dịch
mà Ngân hàng đó để lại ấn tượng sâu sắc như thái độ giao tiếp niềm nở, phục vụ
chu đáo nhiệt tình thì khách hàng đó sẽ tuyên truyền cho Ngân hàng. Đây là điều
thuận lợi nhất cho Ngân hàng. Điều này có nghĩa là khách hàng chỉ đến với Ngân
hàng mà tạo điều kiện giúp đỡ họ thực hiện có hiệ quả hoạt động thông qua quan
hệ tín dụng, dịch vụ so với Ngân hàng khác. Và điều này cũng có tác dụng tích cực
trở lại đối với Ngân hàng trong việc tăng thêm số lượng khách hàng, thu hút nguồn
vốn và mở rộng tín dụng dịch vụ.
Chất lượng tín dụng góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh và lành mạnh
tình hình tài chính của khách hàng, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng có
nghĩa là Ngân hàng phát triển tốt nhờ vậy Ngân hàng có điều kiện cung cấp vốn tín
dụng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác để đảm bảo
chất lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động

1
1
1
1

vốn tín dụng của khách hàng, qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh
những sai sót trong hoạt động tài chính của họ.
Việc kiểm tra, kiểm soát sử dụng vốn tín dụng của khách hàng là việc cần
thiết vì nếu như khách hàng xin vay vốn của Ngân hàng mà Ngân hàng không biết
khả năng thanh toán của họ trong những năm tới hay tài chính của họ làm ăn sa sút
hay khách hàng xin vay vốn không đúng mục đích vì họ xin vay vốn vào mục đích
sản xuất kinh doanh nhưng họ lại sử dụng vào mục đích khác. Nếu Ngân hàng không
biết được mà vẫn cho vay đó là sai lầm. Cho nên để tránh sai lầm thì Ngân hàng phải
tiến hành kiểm tra, khiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng để tránh gây
khó khăn cho cả hai bên. Qua phân tích ta thấy được việc củng cố và tăng cường nâng
cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách hàng vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của
Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
3.1- Chỉ tiêu định tính
 Chính sách tín dụng: Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo cho
hoạt động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ tốt qui định
của Chính phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, thay
đổi cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của
một ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có được chất lượng tín dụng cao
đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, phải căn cứ
vào đòi hỏi của thị trường.
* Công tác huy động vốn: Huy động vốn đối với ngân hàng được coi như
hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra ở các doanh
nghiệp. Nếu nguồn vốn không được huy động đầy đủ về số lượng và phù hợp về
thời hạn cũng như loại tiền thì ngân hàng khó có thể đáp ứng được các nhu cầu đa

dạng của khách hàng một cách nhanh chóng và đầy đủ. Do vậy, chất lượng tín
dụng khó có thể được nâng cao, thậm chí còn trở nên kém hơn.
* Công tác tổ chức của ngân hàng: Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa
học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ nhân viên
trong cùng một phòng, giữa các phòng ban với nhau và cao hơn là giữa các ngân
1
1
2
2

hàng trong cùng hệ thống, từ đó nắm bắt và triển khai tốt việc đáp ứng nhu cầu
khách hàng, nâng cao được chất lượng hoạt động tín dụng và đảm bảo được tính
thống nhất và hiệu quả trong quá trình hoạt động.
* Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng: Đây có thể coi là một trong
những yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của không
chỉ hoạt động tín dụng mà cả sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hoạt động
kinh tế đối ngoại càng phức tạp, công nghệ ngân hàng càng hiện đại thì đòi hỏi
trình độ, năng lực của cán bộ ngân hàng phải được nâng cao. Với một đội ngũ cán
bộ nhân viên có nghiệp vụ giỏi, có đạo đức và năng lực trong sáng tạo - quản lí sẽ
giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội tốt để cho
vay và tất yếu sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng .
* Qui trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước,
công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay bắt đầu
từ việc xem xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm bảo đảm an toàn
vốn tín dụng . Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một qui trình tín dụng
đảm bảo tính khoa học vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa đảm bảo thực hiện đầy đủ
nghiêm túc các bước của qui trình. Qui trình tín dụng thường gồm ba bước chính:
 Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Giai đoạn này chất
lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp
hành các qui định về điều kiện và thủ tục cho vay của ngân hàng.

 Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi dự báo rủi ro:
việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm
tra sẽ góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng tín dụng.
 Thu nợ và thanh lí: Sự linh hoạt của cán bộ tín dụng của ngân hàng trong
khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro và hạn chế nợ qua hạn, bảo toàn
vốn và nâng cao chất lượng tín dụng.
* Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là hết sức cần thiết, nó là cơ sở để
xem xét quyết định cho vay và theo dõi, quản lí khoản cho vay. Thông tin tín dụng
có thể thu được từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ vay vốn của khách hàng,
nguồn số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, số liệu của Bộ Tài Chính, các
1
1
3
3

nghành liên quan về tình hình của các đơn vị, doanh nghiệp hay điều tra trực tiếp
tại các cơ sở Chất lượng tín dụng chỉ có thể được nâng cao khi ngân hàng có
những nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời để dự đoán và đề ra các biện
pháp ngăn ngừa phòng chống rủi ro.
* Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
việc chấp hành những qui chế, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện sai
sót cũng như những nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện
các khoản tín dụng.
* Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng: Trang thiết bị tuy không là
yếu tố cơ bản nhưng nó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lí, kiểm
tra, kiểm soát nội bộ. Đặc biệt với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin
hiện nay các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin về các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thị trường trong tương lai
* Các hoạt động bổ trợ cho hoạt động tín dụng: Các hoạt động bổ trợ như:

Kinh doanh ngoại tệ, Thanh toán hộ, Thu hộ, có ảnh hưởng đến nguồn vốn, cũng
như sự an toàn của ngân hàng (Một ngân hàng sẽ ở trong vùng an toàn nếu có 40%
- 45% doanh thu là từ hoạt động dịch vụ). Như vậy sẽ có tác động lớn đến chất
lượng tín dụng và uy tín của ngân hàng.
3.2 - Chỉ tiêu định lượng
* Tổng nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hút
và cung ứng vốn của Ngân hàng cho khách hàng. Ngoài ra, nó còn cho thấy uy tín
và qui mô của Ngân hàng trên thị trường. Nguồn vốn huy động lớn thường gắn với
những ngân hàng có uy tín cao.
* Tổng dư nợ tín dụng: chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được nhiều
hay ít. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng hay khách hàng
vay nhiều cho thấy Ngân hàng đã tạo được uy tín với các bạn hàng, cung cấp nhiều
hình thức dịch vụ đa dạng, phong phú, tham gia nhiều nghiệp vụ
thanh toán.
Tổng dư nợ
 Hiệu suất sử dụng vốn vay =
1
1
4
4

Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích đánh giá khả năng cho vay của ngân
hàng cũng như so sánh giữa các ngân hàng với nhau trong việc sử dụng vốn vay.
Hiệu suất sử dụng vốn vay cao chưa hẳn đã tốt bởi nó còn phụ thuộc vào cơ cấu
nguồn vốn. Chẳng hạn, trong cơ cấu nguồn vốn tỉ trọng vốn vay thương mại lớn thì
cho vay nhiều chưa hẳn là đưa đến chất lưọng tín dụng cao, vì lãi suất với các
khoản vốn vay thương mại thường lớn trong khi ngân hàng khó có thể cho vay với
lãi suất quá cao hơn do phải cạnh tranh lãi suất để thu hút khách hàng.
Doanh số cho vay trong kì

* Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ trong kì
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lí vốn tín dụng, đồng thời thể
hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn tín
dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín
dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng
loại cho vay cụ thể.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Nợ quá hạn là những khoản nợ đã đến
hạn thanh toán nhưng khách hàng chưa trả được. Ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn
trên tổng dư nợ càng thấp khả năng gặp rủi ro càng thấp chất lượng tín dụng càng
cao. Chỉ tiêu này lại chia ra hai chỉ tiêu cụ thể hơn:
Nợ quá hạn từ 6-12 tháng
 Tỉ lệ nợ quá hạn khê đọng =
Tổng dư nợ
Đây là một trong những chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất phản ánh chất
lượng tín dụng của khoản tín dụng. Nếu tỉ lệ này càng cao mà ngân hàng không có
biện pháp xử lí kịp thời thì khả năng tổn thất của ngân hàng càng lớn.
Nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên
 Nợ quá hạn khó đòi =
Tổng dư nợ
1
1
5
5

Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa là ngân hàng không những phải chịu rủi ro tín
dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán
bởi việc đòi nợ các khoản vay này là rất khó khăn. Một khoản tín dụng có chất
lượng cao thì tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi phải thấp.
 Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm với lãi suất - Nguồn nhạy cảm với lãi suất

Nếu giá trị tuyệt đối của chỉ tiêu này lớn thì sự biến lãi suất trên thị trường sẽ tạo
ra những thu nhập và chi phí ngoài dự kiến, gọi chung là rủi ro lãi suất. Đây cũng là
nhân tố làm cho nhiều ngân hàng phải quan tâm, nếu khe hở lãi suất lớn thì có thể cho
thu nhập cao, nhưng bên cạnh đó là rủi ro lớn theo đúng qui luật kinh tế.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
Chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất lớn với sự tồn tại và phát triển của
một Ngân hàng. ý nghĩa của hoạt động tín dụng xuất phát từ định nghĩa Ngân hàng
thương mại là một trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại một mặt thu hút các
khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động được đối
với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ xung vốn. Như vậy
cùng với ý nghĩa kinh tế trong hoạt động tín dụng, việc quản lý tín dụng một bộ phận
quản lý Ngân hàng nói cung luôn luôn là một vấn đề thực tiễn và bức xúc đối với mỗi
Ngân hàng. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ phải hiểu rõ sự tác động của các
nhân tố ta càng chủ động trong hoạt động. Có thể chia các nhân tố làm hai loại: Nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan. Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng nước và của từng
Ngân hàng mà hai loại nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau.
4.1. Nhân tố khách quan:
Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
tín dụng. Ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn để mở rộng hoạt động
cho vay phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng
đến sức mạnh của người đi vay và thiệt hại hay thành công đối vơí người cho vay.
Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận
của người vay. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh người vay hoạt động tốt do lợi
nhuận thu được cao.
Trong hoạt động kinh doanh lạm phát có ảnh hưởng bất lợi đến giá cả
nguyên vật liệu làm cho các cá nhân và doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính
1
1
6
6


dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng còn thiểu phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công
việc kinh doanh: Chỉ số tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các
doanh nghiệp cầm chừng trong vay vốn phát triển sản xuất điều đó dẫn tới tốc độ
tăng trưởng tín dụng chậm, hoạt động Ngân hàng kém, nền kinh tế trì trệ, các
doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận.
Các Ngân hàng sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng tín dụng bị
giảm sút.
Việc xác định mức lãi xuất cho vay cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng, vì lợi tức của Ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi
nhuận bình quân của các đơn vị sử dụng vốn vay của doanh nghiệp thì các doanh
nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Vì vậy chất lượng tín dụng cũng bị
ảnh hưởng.
Ngoài ra chất lượng của tín dụng còn bị ảnh hưởng của các nhân tổ rủi ro
như thiên tai, bão lụt các nguyên nhân bất khả kháng có thể bị lừa đảo Các thảm
hoạ thiên tai bão lụt, hoả hoạn có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các biến động kinh tế xã hội chính trị sẽ dẫn
đến môi trường xã hội, môi trường kinh tế bất ổn định sẽ tạo điều kiện nảy sinh rủi
ro.
Khách hàng nhiều lần trì hoãn trong việc bố trí cho cán bộ tín dụng đi kiểm
tra tình hình thực tế của doanh nghiệp. Nếu là cán bộ tín dụng đi kiểm tra thì các
nhà tín dụng phải kiểm tra thực tế của doanh nghiệp là đúng nhưng đến định kỳ
cán bộ tín dụng kiểm tra thường xuyên có mặt tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh bình thường họ sẽ đón tiếp đúng nội quy và đúng thủ tục còn
nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không bình thường thì họ sẽ trì hoãn và
không đưa các số liệu thông tin của doanh nghiệp và cho Ngân hàng biết.Trong
nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng là quan hệ bạn hàng
bình đẳng trước pháp luật song mối quan hệ này phải được thực hiện trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau. Một khi có sự chậm trễ trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm
doanh nghiệp,thì đó là doanh nghiệp có dấu hiệu cho biết tình hình sản xuất doanh

nghiệp.
1
1
7
7

Mặt khác, trong kinh doanh các yếu tố pháp lý tác động đến hoạt động
kinh doanh gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp đảm cho pháp luật được
thhi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động
kinh doanh và các ngành có liên quan. Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được
của bất kỳ nền kinh tế nào, không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp thì
mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ gặp khó khăn.Các yếu tố này có quan hệ đan
xen và tác động hoạt động kinh doanh một các tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay
nói một cách khác chúng mang tính đồng bộ cao.
Với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp
tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý rõ ràng và chặt chẽ,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ tín
dụng đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.Vì vậy pháp luật có vai
trò hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt
động tín dụng nói riêng.
4.2.Các nhân tố chủ quan:
Bao gồm các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như các yếu tố: Chính sách
tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình nghiệp vụ, kiểm soát. Nếu
chính sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng
sinh lợi của hoạt động tín dụng phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước.Vì thế phải có chính sách cho vay rõ ràng để
xác định phương hướng sử dụng vốn được hình thành tù cổ đông và người được ký
thác.Trong những năm gần đây, càng ngày càng có nhiều Ngân hàng đưa ra chính
sách cho vay. Mặc dù các chính sách cho vay trên văn bản, phục vụ một số mục
đích nhất định, điều quan trọng là chúng ta đem lại cho nhân viên tín dụng sự

hướng dẫn cần thiết.Vì chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách
tín dụng của Ngân hàng có đứng đắn hay không.
Về công tác tổ chức của Ngân hàng:
Cần được sắp xếp một cách khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc tín dụng, quản lý được cơ cấu tài sản có, tài sản nợ của Ngân hàng,
đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Cần có sự phối hợp
1
1
8
8

nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất chỉ đạo từ trên xuống
dưới, tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng.
Về chất lượng cán bộ:
Trong một Ngân hàng muốn biết chất lượng cán bộ tốt (mặt tích cực) thì
việc trước tiên là người cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi xem
xét các thủ tục để tiến hành giải quyết cho vay theo đúng luật mà Ngân hàng quy
định các bước đó là: Xét duyệt hồ sơ, quyết định đầu tư, kiểm tra việc sử dụng
vốn, thu nợ, hoạch định chủ trương, chính sách đến việc thẩm định dự án.Nói
chung mọi đúng, sai, thành công hay thất bại của các dự án tín dụng ngoài nguyên
nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan đó là con người với tư cách pháp
nhân hay chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng vì trong Ngân hàng phải thường
xuyên giao dịch thanh toán với khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín dụng phải làm
vừa lòng, thoả mãn yêu cầu của khách hàng để khách hàng luôn sẵn sàng quan hệ
tín dụng với Ngân hàng và họ là khách hàng truyền thống. Trong Ngân hàng qua
thực tiễn cho thấy Ngân hàng có chất lượng cán bộ mọi mặt đều tốt có rất nhiều
các doanh nghiệp đến quan hệ tín dụng với Ngân hàng đó là mặt điển hình của
Ngân hàng.Chất lượng cán bộ là đội ngũ nhân viên trong Ngân hàng càng làm tốt
thì Ngân hàng càng có nhiều thuận lợi để phát triển Ngân hàng. Muốn vậy Ngân
hàng cần tổ chức thực hiện tốt quy trình tuyển dụng từ khi phát sinh đến khi kết

thúc. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát vì kiêm tra kiểm soát là nghiệp vụ
rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng. Kiểm tra kiểm soát là giải pháp
mạnh mẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi
phạm của tổ chức tín dụng làm cho tổ chức này hoạt động lành mạnh có hiệu quả.
Để việc kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, bảo vệ được tài sản cũng như uy tín của
Ngân hàng thì cần phải bố trí cán bộ kiểm tra giỏi nghiệp vụ, chuyên môn hiểu
pháp luật, trung thực để kịp thời phát hiện và ngăn chặn kịp thời những vi phạm có
thể xảy ra, nhằm nâng cao chât lượng tín dụng.
5. Quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
5.1 - Quản lí nguồn huy động và đi vay của ngân hàng thương mại
Các khoản nợ là tài nguyên chính của ngân hàng. Chất lượng và số lượng
của nó ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng số lượng các khoản cho vay và đầu tư.
1
1
9
9

Mục tiêu quản lý các khoản nợ không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của
ngân hàng đó là an toàn và sinh lời.
5.1.1 - Quản lí qui mô và cơ cấu
Quản lí qui mô và cơ cấu là nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để ra
tăng qui mô, thay đổi cơ cấu của nguồn một cách có hiệu quả nhât.
Gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng
hoạt động của Ngân hàng, là điều kiện để Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động,
nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định, của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn ảnh
hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của Ngân hàng. Quản lý quy mô và
cơ cấu gồm những nội dung sau:
- Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay
vòng cuẩ mỗi nguồn.
- Phân tích kỹ lưỡng của các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tổ

ảnh hưởng và bị ảnh hưởng).
- Lập kế hoạch nguồ cho từng giai đoạn phù hợp với vật yêu cầu sử dụng.
- Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lí nghiên cứu mối liên hệ
giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc
tính của thị trường nguồn Ngân hàng.
- Trong điều kiện cụ thể, các nguồn vốn của Ngân hàng có thể có tốc độ và
qui mô thay đổi khác nhau. Các Ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ
tăng trưởng nguồn có thể không cao như các Ngân hàng nhỏ. Những Ngân hàng ở
trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với Ngân hàng ở xa.
- Những nhân tổ ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cáu của
nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là
cơ sở Ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay thay đổi quy mô và kết
cấu nguồn tiền. Vào gần dịp tết, quy mô có tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống
tương đối; hoặc nếu Ngân hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xây lắp, tiền
gửi của họ tăng hay giảm phụ thuộc nhiều vào mùa xây dựng .Từ đó, nhà quản lý
Ngân hàng cần phân chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng
của mỗi nguồn.
2
2
0
0

Các khách hàng hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn cần được đặc biệt
chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với
những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng dịch vụ kèm theo càn phải
được nghiên cứu cụ thể. Nhà quản lí cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các
Ngân hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.
- Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn bao gồm kế hoạch
gia tăng quy mô của mỗi nguòn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc chi
trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn, hoặc tìm

kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận
kỳ vong, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại
nguồn tiếp thị
5.1.2. Quản lý lãi suất chi trả.
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại cơ cấu lãi suất traar
cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kế cấu nguồn phù
hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân hàng.
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lí chi phí của
Ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động và vay mượn được
càng lớn, từ đó mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất càng cào làm gia
tăng chi phí của Ngân hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận củ
Ngân hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên quan
chặt chẽ với quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của Ngân hàng.
Quản lý lãi suất gồm có:
- Nghiên cứu các nhân tổ ảnh hưởng tới lãi suất huy động:
- Đa dạng hoá lãi suất.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân hàng vf với
mỗi loại Ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của
nhiều nhân tố như :
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia:
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp. Nhà nước và hộ gia đình:
- Tỷ lệ làm phát.
- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác.
2
2
1
1

- Trình độ phát triển của thị trường tài chính:
- Khả năng sinh lời của Ngân hàng.

- Độ an toàn của các Ngân hàng.
5.1.3.Quản lí kỳ hạn.
Quản lí kỳ hạn xác định kỳ hạn của nguòn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn
của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
Nội dung quản lí kỳ hạn:
- Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xem xét khả năng chuyển hoá kỳ hạn của nguồn.
5.1.4. Phân tích thanh khoản của nguồn vốn.
Đối với nhiều Ngân hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang
trở thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo
bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều
ngân hàng lớn, do thực hiện chuyển hoá kỳ hạn của nguồn (nguồn với kỳ hạn ngắn
được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kỳ hạn dài hơn) và duy trì tỷ lệ dự trữ
thấp rất quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản đặc biệt là các nguồn trong ngắn hạn.
Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường nợ của mỗi
Ngân hàng và chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nhìn chung các Ngân hàng
lớn có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiêms
các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân hàng nhỏ ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa
và sự phát triển của các công cụ nợ sẽ cho phép các Ngân hàng có nhiều cơ hội
tiếp xúc với các nguồn. Do vậy, tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển, tính
thanh khoản của nguồn vốn của các Ngân hàng cũng bị giảm thấp.
Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị
trường nguồn vốn của mỗi Ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn (như quy
mô, tốc độ tăng trưởng, vòng quay, lãi suất và sự biến đổi của lãi suất, tỷ trọng thị
trường của Ngân hàng so với các tổ chức tín dụng khác ). Ngân hàng cần tập
trung phân tích nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước và từ các tổ chức tín
dụng khác. Các nguồn này tuy ngắn hạn song có thể có được trong thời gian ngắn,
2

2
2
2

nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong hạn. Các nguồn mà ngân hàng có ưu
thế cũng cần được xem xét.
5. 2. Quản lí tài khoản.
Quản lý tài sản là hoạt đọng của Ngân hàng thương mại với nội dung
chuyển hoá nguồn vốn tiền gửi, tiền vay vốn của chủ thành các loại tài sản như
ngân quỹ, tín dụng, chứng khoán tài sản khác một phương thức thích hợp nhằm
thoả mãn các mục tiêu mà Ngân hàng đặt ra.
5.2.1. Quản lý ngân quỹ.
Ngân quỹ của Ngân hàng là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất
(được sử dụng để thanh toán tức thời) được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả
và các yêu cầu khác của Ngân hàng thương mại
Thư nhất, mỗi Ngân hàng đều cần duy trì dự trữ bắt buộc (dự trữ pháp
định) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ bắt buộc được tính dựa trên
nguồn huy động trong kỳ tính và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể. Dự trữ bắt buộc được
tồn tại trong Ngân hàng dưới hình thức ngân quỹ của Ngân hàng, có nghĩa là ngân
quỹ trong kỳ của Ngân hàng phải đảm bảo thoả mãn số lượng dự trữ bắt buộc mà
một ngân hàng phải duy trì trong kỳ đó.
Mức dự trữ
bắt buộc trong kỳ
=
Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc
x
Số dư binh quân của các nguồn
phải dự trữ bắt buộc trong kỳ
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường do Quốc hội quy định, Ngân hàng Trung ương

(Ngân hàng Nhà nước) có thể thay đổi tỷ lệ này trong các thời kì khác nhau đối với
các nguồn khác nhau, hoặc có thể được phân biệt theo quy mô theo loại tiền, theo
vùng.
Các nguồn là đối tượng phải dự trữ bắt buộc cũng có thể bị thay đổi tuỳ
theo chính sách của Ngân hàng Nhà nước, thông thường đó là các nguồn tiền gửi.
Các nguồn tiền gửi ngắn hạn thường phải tính dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao so với
các nguồn khác.
Hình thức biểu hiện của dự trữ bắt buộc cũng khác nhau tại nước khác nhau,
tuỳ theo khả năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Tại Việt Nam, dự trữ bắt
2
2
3
3

buộc thể hiện ở khoản mục “Tiền gửi của Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng
Nhà nước”.
Ví dụ các nguồn tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bình quân tháng 1 là 200 tỷ
và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% thì mức dự trữ bắt buộc phải có trong tháng 2: 200 x
5% = 10tỷ
Vào 3 ngày đầu tháng 3, Ngân hàng Nhà nước sẽ tính số dư bình quân tiền
gửi của Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước trong các tháng 2, giả sử
là 12 tỷ. Vậy trong tháng 2, Ngân hàng thương mại dư thừa dự trữ 12 - 10 = 2tỷ
Giả sử số là 9 tỷ thì Ngân hàng đã thiếu dự trữ bắt buộc 10 - 9 = 1 tỷ.
Thứ hai, Ngân hàng phải duy trì khả năng chi trả bằng cách duy trì ngân
quỹ với tỷ lệ thích hợp với nhu cầu thanh toán của khách. Đối với Ngân hàng đáp
ứng nhu cầu thanh khoản chủ yếu bằng các tài sản thanh khoản thì ngân quỹ ngoài
đảm bảo dự trữ bắt buộc còn phải đáp ứng yêu cầu chi trả. Tính toán nhu cầu chi
trả dựa vào các nguồn tiền gửi ngắn hạn với các tỷ lệ chi trả dự tính và nhu cầu cho
vay mà Ngân hàng đã cam kết, khả năng huy động của các nguồn tiền rẻ để chi
trả

Như vậy, ngân quỹ của Ngân hàng ngoài mục tiêu thực hiện chi trả thường
xuyên còn phải đảm bảo yêu cầu quy định của pháp luật về dự trữ bắt buộc. Ngân
quỹ Ngân hàng sinh lời rất thấp, vì vậy, giữ Ngân quỹ nhiều là không kinh
tế.Quản lí ngân quỹ về thực chất và tính toán số ngân quỹ tối thiểu cần giữ trong
các thời kỳ khác nhau, đồng thời cân đối giữ các bộ phận của ngân quỹ (tiền mặt,
tiền gửi )một cách phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách hàng (phần này được
nghiên cứu kĩ hơn trong chương trình quản lí thanh khoản).
5.2.2.Quản lý chứng khoán.
Chứng khoán có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức. Tuy nhiên Ngân
hàng quan tâm tới chứng khoán trên 2 giác độ chính: An toàn và sonh lợi chứng
khoán. Vì vậy, Ngân hàng phân loại chứng khoán thành hai nhóm chính: Các
chứng khoán thanh khoản song sinh lợi thấp và các chứng khoán kém thanh khoản
hơn song sinh lợi lại cao. Loại thứ nhất được nắm giữ chủ yếu để đáp ứng nhu cầu
chi trả, loại thứ hai chủ yếu đáp ứng yêu cầu sinh lợin. Loại thứ nhất trong chứng
khoán của các Chính phủ, các tổ chức tài chính hàng đầu trong nước và quốc tế và
2
2
4
4

có thời gian dến lúc đào hạn ngắn. Loại thứ hai là của Chính phủ, các tổ chức tài
chính và các công th có thời gian đáo hạn tương đối dài.
Công tác quản lý chứng khoán đòi hỏi phải thướng xuyên xếp hạng chứng
khoán tuỳ theo tính an toàn và thời gian còn lại của chungns. Ví dụ chứng khoán
côg ty có thời hạn 5 năm, song đã nắm giữ được 4 năm 8 tháng, tình hình tài chính
ủa công ty trả nợ tốt, thì có thể xếp vào chứng khoán thanh khoản. Chứng khoán
12 tháng song công ty phát hành đang lâm vào tình trạng khó khăn bất thường, ít
khả năng cữu vãn thì cũng xếp vào chứng khoán kém thanh khoản. Nhiều Ngân
hàng phân chia nhỏ thang bậc của chứng khoán theo cách xếp loại của các tổ chức
tư vấn tài chính quốc tế (theo chất lượng quốc gia, ngành, công ty phát hành chứng

khoán). Các chứng khoán cũng có thể được xếp loại theo mục đích nắm giữ chủ
yếu, như chứng khoán nắm giữ nhằm mục đích kiểm soát công ty phát hành nắm
giữ chỉ nhằm mục đích thu lợi tức, nắm giữ nhằm mục đích thanh khoản (bán để
có thể chi trả), nhằm mục đích đầu cơ (kỳ vọng giá lên cao, bán để hưởng chênh
lệch giá) Ngân hàng có thể tổ chức phòng quản lý chứng khoán hoặc phòng ngân
quỹ sẽ quản lý các chứng khoán thanh khoản còn phòng chứng khoán ( hoặc công
ty chứng khoán) sẽ quản lý chứng khoán đầu tư.
Để xếp loại chứng khoán, Ngân hàng phải thướng xuyên theo dõi, phân tích
và đánh giá tình hình tài chính của các công ty phát hành chứng khoán, sự biến
động tỷ giá, lãi suất thị trường, giá bất động sản tình hình chính trị của mỗi quốc
gia, khu vực và toàn cầu.
Ngân hàng thường xuyên xét một số chỉ tiêu liên quan đến danh mục chứng
khoán như rủi ro và thu thập chứng từ chứng khoán, xu hướng vận động của giá
chứng khoán và nhân tổ ảnh hưởng, tỷ lệ chứng khoán thanh khoản trên ngân quỹ
hoặc tiền gửi các tỷ lệ này phản ánh chiến lược quản lý chứng khoán của Ngân
hàng.
Quản lý chứng khoán được thực hiện trên nguyên tắc quản lý danh mục
đàu tư. Các chứng khoán thường xuyên được phân tích với giá thị trường và cuối
cùng là nguyên tắc đa dạng hoá “ không bỏ trừng vào một giỏ”.
5.2.3.Quả lý tín dụng.

×