Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Rũ bỏ “hình con buôn” trong ứng xử với doanh nhân. docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.96 KB, 17 trang )

Rũ bỏ “hình con buôn” trong ứng xử
với doanh nhân.
Trong những bước gập ghềnh của lịch sử, thân phận của tầng lớp doanh
nhân nước ta là nhiều uẩn khúc nhất thì cuối cùng vai trò của họ cũng
đã được khẳng định. Ngày doanh nhân Việt Nam là một minh chứng
sống động.

Gập ghềnh phận "con buôn"

Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì: "thương mại là yếu tố có tính chất sống
còn trong bất kỳ một chương trình phát triển nào, vì thương mại có thể
mang lại những lợi ích cho các nước đang phát triển cao hơn gấp nhiều
lần so với bất kỳ một sự viện trợ phát triển nào mà các nước này nhận
được"*. Các cụ ta thì diễn đạt ý tứ này trong mệnh đề súc tích "phi
thương bất hoạt".

Mệnh đề mang tính đúc kết kinh nghiệm lịch sử này nằm trong mối liên
hệ với "phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi trí bất hưng" mà nhà bác
học Lê Quý Đôn đã từng dẫn dụ. Đây là sự khái quát mang tính quy luật
về những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của mọi xã hội trong lịch sử cổ
kim đông tây. Vì thế, nhân ngày doanh nhân Việt Nam, có lẽ "đưa
chuyện muôn năm trở lại bàn" chắc cũng gợi lên được đôi điều để suy
ngẫm.

"Phi thương bất hoạt", [cũng có người cho rằng "phi thương bất phú"],
đây không chỉ là câu chữ trong sách "thánh hiền" mà cũng là kinh
nghiệm dân gian "giàu nhà quê không bằng ngồi lê kẻ chợ". Phải đi
buôn mới có đồng ra đồng vào và rồi mới giàu lên được. Thế nhưng tại
sao nghề buôn, người đi buôn vẫn cứ bị xếp thấp nhất trong thang bậc
giá trị xã hội. Tại sao tâm lý "trọng nông ức thương" vẫn chiếm lĩnh đời
sống tinh thần xã hội ta trong suốt chiều dài lịch sử?



Phải chăng tâm lý ấy khởi nguồn từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu kéo
dài triền miên. Nhà nước chuyên chế Phương Đông chủ trương trói chặt
người nông dân vào mảnh ruộng làng để đóng thuế, đi phu, đi lính cho
nên luôn luôn đề cao tư tưởng "nông vi bản", ngăn chặn việc bỏ ruộng
đất để đi buôn. Thêm vào đó, việc đạo đức học Nho giáo đem "nghĩa"
đối lập với "lợi", đã góp phần củng cố tâm lý xã hội nói trên. Việc coi
khinh chữ "lợi" dẫn đến sự miệt thị nghề buôn, hình ảnh "ngồi lê kẻ chợ"
cũng hàm chứa ý này, tuy rủng rỉnh tiền trong túi đấy, nhưng vẫn không
sang, "ngồi lê kẻ chợ" thì còn sang nỗi gì, vì thế mà đặt thương nhân
đứng cuối hạng trong bảng "tứ dân".


Trong những bước gập ghềnh của lịch sử, thân
phận của tầng lớp doanh nhân nước ta là nhi
ều
uẩn khúc nhất thì cuối cùng vai trò c
ủa họ cũng
đã được khẳng định. Ngày doanh nhân Việt
Nam là một minh chứng sống động.


Cách ứng xử này đã để lại một vết hằn rất sâu trong kết cấu hạ tầng tâm
lý xã hội . Rõ nhất là định kiến về vai trò và giá trị của tầng lớp doanh
nhân trong xã hội. Nhà buôn, dù có giàu thì cũng chỉ là hạng trọc phú,
vẫn bị coi thường. Chẳng thế mà diện mạo của họ đã từng được khắc
họa một cách nghiệt ngã trong hình ảnh "Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn" **. Cái từ "con buôn" trong tuyệt
tác của thi hào Nguyễn Du là lấy từ cửa miệng của quần chúng hay
ngược lại, ngôn từ của tác giả Truyện Kiều đã đi vào đời sống, trở thành

ngôn từ của đại chúng, đóng đinh diện mạo nhà buôn trên đài dư luận?
Chẳng những thế, thuật ngữ "con buôn" từng chễm chệ trong "Truyện
Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du dường như đã "định hướng" cho cách
nhìn của xã hội một thời.

Muốn được trọng vọng và danh giá thì "phú" phải đi kèm với "quý",
mặc dầu cái danh giá do quý đem lại cũng chỉ là cái phải đem tiền đi
mua. Tệ "mua quan bán tước" này càng làm trầm trọng thêm tâm lý
trọng danh hơn thực, dẫn đến tình trạng kém tinh thần thực nghiệp, ít
đầu tư trí tuệ và tài năng cho việc làm ra ngày càng nhiều của cải vật
chất, mà lại dồn sức cho việc chạy theo hư danh, phù phiếm. Xã hội
"nông vi bản" ì ạch phát triển theo tốc độ của bước chân trâu bì bõm trên
ruộng lúa nước.

Đến thế kỷ thứ XVIII ở Việt Nam vẫn chưa xuất hiện thành thị với tư
cách là trung tâm công thương nghiệp Chưa có đời sống thành thị thực
thụ phân biệt hẳn với đời sống nông thôn. Thị dân được coi là dân tứ xứ,
"năm người mười phường", không họp lại thành một lớp thị dân với tính
chất là một nhóm xã hội đặc thù phân biệt với người nông thôn. Cho đến
thế kỷ XIX, buôn bán ở một số đô thị đã sầm uất, nhưng kinh tế hàng
hóa vẫn không thu hút được người sản xuất tiểu nông, không dẫn tới
được sự thay đổi cơ cấu và tổ chức sản xuất, không sao chuyển nổi sang
nền kinh tế hàng hóa.

Nhưng có lẽ oái oăm nhất cho thân phận của họ là chặng đường hơn nửa
thế kỷ trước Đổi Mới, khi ta khước từ kinh tế thị trường, đương nhiên là
kẻ đại diện cho kinh tế thị trường bị xem là đối tượng của cách mạng
XHCN. Cái từ "con buôn" mang tính miệt thị trong Truyện Kiều lại
xuống cấp một bậc nữa với tên gọi "lũ con phe" thuộc loại "nhân vật xã
hội đáng ngờ" trong ánh mắt soi mói của nền kinh tế kế hoạch hóa tập

trung, bao cấp, bác bỏ kinh tế thị trường ở Miền Bắc sau năm 1954.
Quãng đường này không chỉ là "vó câu khấp khểnh, bánh xe gập
ghềnh"** mà quả thật là "đùng đùng gió giật mây vần"** khiến cho
doanh nhân điêu đứng, tối tăm mặt mũi chẳng biết "ăn làm sao, nói làm
sao bây giờ"**!

Nhưng kìa, sao lại cứ giở dói "sự muôn năm cũ kể chi bây giờ" **?

Phải kể, vì lịch sử là liền mạch. Hơn nữa, để thông tỏ lịch sử thì cần phải
tìm về những tọa độ cũ có khả năng chuyển tải những thông điệp cho thế
hệ đang sống. Nhắc lại quá khứ nhằm tạo thêm động lực để lịch sử được
viết tiếp. Quan trọng hơn, để tin rằng, cho dù có "khấp khểnh, gập
ghềnh" thì rồi cuối cùng sự thật lịch sử vẫn được trả về cho cuộc sống
như chính nó cần phải như vậy. Cho dù trong những bước gập ghềnh của
lịch sử, thân phận của tầng lớp doanh nhân nước ta là nhiều uẩn khúc
nhất. thì cuối cùng vai trò của họ cũng đã được khẳng định. Ngày doanh
nhân Việt Nam là một minh chứng sống động.

Nhìn nhận cho công bằng

Đây là một cột mốc đáng ghi nhớ trên những chặng đường lịch sử cho
dù, "ngẫm ra cho kỹ", chắc cũng hiểu được rằng, chưa thể một sớm một
chiều rũ bỏ được "hình con buôn" trong ứng xử đối với doanh nhân ở
một bộ phận không nhỏ của xã hội ta hôm nay. Chẳng thế mà cách đây
chưa lâu lắm, ông Bảy Nhị, khi ấy là Chủ tịch An Giang đã viết lên báo:
Chúng ta phải nhìn nhận vai trò thương nhân cho thật công bằng, phải
biểu dương họ bởi bao đời nay, nông dân không bán nông sản cho
thương nhân thì bán cho ai, trước đây làm gì đã có doanh nghiệp nhà
nước? Ấy thế mà thật lạ là vẫn tồn tại một cách gọi tỏ ý miệt thị họ, nào
là đầu nậu, nào là tư thương ép giá mà rồi báo chí vẫn cứ xài cách gọi

ấy!".

Nhưng vấn đề không chỉ ở chỗ ấy.

Mọi người đều biết rằng, ngày "Doanh nhân Việt Nam" xuất phát từ
"Thư gửi các giới công thương Việt Nam" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngày 13.10.1945, nghĩa là bốn mươi ngày sau Tuyên ngôn Độc lập 2
tháng 9 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở đây, Hồ Chí
Minh nói về việc "xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và
thịnh vượng", mà "nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự
kinh doanh của các nhà công nghiệp thương nghiệp, thịnh vượng".

Thế nhưng có thể ít người biết rằng, ý tưởng về mục tiêu kinh tế của xã
hội: "Nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu và giàu thì giàu thêm"; "Làm
cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì
giàu thêm" được đặt ra vào thời điểm nào. Biết rõ, sẽ gợi lên những điều
đáng suy ngẫm.

Đó là vào tháng 2 năm 1947 trong buổi nói chuyện với đồng bào và cán
bộ, chiến sĩ ở Thanh Hóa. Đây là lúc Trung ương và Chính phủ đang
chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc, đầu não của cuộc kháng chiến. Lúc ấy,
Bác Hồ đang làm việc ở Chùa Thầy, Sơn Tây đã bất ngờ quyết định cần
đi ngay vào Thanh Hóa trước khi lên Việt Bắc. Ngày 17.2 .1947 xuất
phát, đêm nghỉ lại ở đồn điền Chi Nê, hôm sau vào đến thị xã Thanh
Hóa. Tại đây, ngày 20.2. 1947 Bác làm việc với cán bộ rồi sau đó, nói
chuyện với "các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa".
Cùng với việc nhắc nhở đồng bào tổ chức và tham gia kháng chiến như
thế nào, Bác dành nhiều thì giờ nói về việc xây dựng xã hội mới.

Chính tại đây, hai lần Bác nhăc đến mục tiêu kinh tế của xã hội mới

trong những câu vừa dẫn ra ở trên. Thế nhưng phải ngót nửa thế kỷ trôi
qua, ý tưởng đúng đắn và giản dị đó, sau khi trải qua những "khấp
khểnh, gập ghềnh", với bao cơn "gió giật mây vần" mới định hình được
trong mục tiêu kinh tế của xã hội. Và, chính trong sự định hình đó mới
có được ngày "Doanh nhân Việt Nam" hôm nay! Vấn đề đáng suy ngẫm
chính là ở chỗ đó.

Vì rằng, mục tiêu ấy đâu có gì khó hiểu? Hiến pháp năm 1946 do Hồ
Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo đã ghi rõ. Cái đạo lý dân có giàu
thì nước mới mạnh thì ai mà chẳng hiểu được, chẳng theo được. Xóa đói
giảm nghèo thì rõ rồi. Nhưng làm sao cho dân giàu lên? Những thất bại
của tư tưởng nôn nóng, ảo tưởng, duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn đã
cho thấy phải tiến hành từng bước: "đủ trở nên giàu và giàu thì giàu
thêm", "người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm". Vấn đề
đặt ra chính là để đạt được mục tiêu giản dị đó thì phải đặt dân tộc lên
trên giai cấp, phải đưa tinh thần khoan dung hòa hợp vào trong xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc. Đã có một thời, cách đặt vấn đề trên được quy
cho là tư tưởng cải lương, thậm chí là phản cách mạng!

Cần lưu ý là Hồ Chí Minh nêu lên mục tiêu đó chỉ gần hai tháng sau
ngày toàn quốc kháng chiến 19.12.1946. Điều ấy nói rõ mục tiêu của
cuộc kháng chiến là giành lại độc lập, nhưng "dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ nếu nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phục tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa
gì". Và phải tốn không ít thời gian mục tiêu giản dị ấy mới định hình
trong khẩu hiệu dễ hiểu: "dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh".

Trước những thách đố của lịch sử


Nhắc lại chuyện đã qua để tìm cảm hứng cho việc dũng cảm và kiên trì
đẩy lùi những vật cản đang níu kéo bước phát triển của lịch sử. Riêng
với doanh nhân, vấn đề đặt ra hiện nay đối với họ không chỉ là rũ bỏ
gánh nặng của quá khứ, cho dù trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội vẫn
đang tồn đọng nhiều chướng ngại phải vượt qua để doanh nhân thật sự
giữ được vai trò của họ trong nền kinh tế thị trường đích thực và trong
sự nghiệp phát triển đất nước.

Vấn đề là nhà doanh nghiệp chân chính phải tự nâng mình lên cho xứng
với tầm vóc của một nhân vật xã hội giữ vị trí xung kích trong nền kinh
tế thị trường đúng như nó cần phải có. Bởi vậy, cùng với tài năng kinh
doanh năng động, sáng tạo là trách nhiệm xã hội của họ cần phải được
nâng cao trong một xã hội mà sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng đậm
nét. Nếu tính tình nguyện xã hội cao được xem là một phẩm tính doanh
nhân hiện đại được phát huy mạnh mẽ thì đó là một lực tác động mạnh
mẽ góp phần cải thiện bất bình đẳng, từng bước thực hiện công bằng xã
hội.

Nguyễn Du đã từng viết một câu gợi nhiều suy tư cho nhiều thế hệ:
"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên"
[Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát. Hùng tâm, sinh kế, cả hai
đề mờ mịt ]! Phải chăng mối trăn trở giữa "hùng tâm" và "sinh kế" cũng
không xa lạ với doanh nhân thời nay.

Trong mối trăn trở ấy thì "hùng tâm" vẫn chiếm lĩnh một vị trí sâu kín và
dằn vặt trong những tâm hồn hướng về một lẽ sống có ý nghĩa: họ không
chỉ biết lo toan làm giàu mà luôn trăn trở về trách nhiệm xã hội của họ.
Có lẽ cái tâm thế "bạch đầu bi hướng thiên" vẫn còn day dứt trong lòng
ai đó, song hình như lịch sử đã sang trang, cuộc sống đang tạo điều kiện
cho "hùng tâm sinh kế" không còn "lưỡng man nhiên" nữa, mà với

những ai mang trong mình một hoài bão cống hiến, thì sự nghiệp kinh
doanh của họ được thúc đẩy và thăng hoa bởi cái "hùng tâm" của họ .

Trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu và những khó khăn chồng chất của
nền kinh tế nước ta cần biết bao những "hùng tâm tráng khí" của cả dân
tộc, trong đó, doanh nhân đang giữ vị thế là người lính xung kích, thì
"hùng tâm" của họ có ý nghĩa rất trực tiếp đến cục diện kinh tế và xã hội
hiện nay.

Chỉ có điều, xin nhớ lại khuyến cáo của Paul Krugman: "Khi khủng
hoảng trở nên trầm trọng, những cách tư duy thông thường không còn
đúng nữa: cái bạn cho là tốt thực ra là tệ hại, cái mà bạn tưởng là thận
trọng thực ra lại đầy rủi ro, và sự khôn ngoan lại hóa ra là dại dột". Phải
chăng đấy là một thách đố nghiệt ngã đặt ra trong ngày "Doanh nhân
Việt Nam" năm nay?

____________________________

×