Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

VAI TRÒ CỦA TRỰC GIÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI MUA TRANH pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.33 KB, 10 trang )

VAI TRÒ C
ỦA TRỰC GIÁC ĐỐI VỚI
NGƯỜI MUA TRANH

HOÀNG DZỰ-Bom napal và chất độc
da cam-Sơn dầu

Người mua tranh có nhu cầu của mình và nếu người sáng tác chạy theo thị
trường, không thuyết phục được người mua tranh, không cố làm cho người
mua tranh hiểu những gì mình đang làm cũng coi như thị trư
ờng tranh bị mất
khách hàng.
Những người mua tranh do trình độ nghệ thuật và nghề nghiệp khác nhau,
thường có nhu cầu thưởng thức khác nhau và đưa ra quyết định mua tranh
trên cơ sở trực giác của mình.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là vai trò của trực giác có ý nghĩa như thế nào đ
ối
với người mua tranh. Người có trực giác nghĩa là có khả năng tiên đoán, có
khả năng biết trước chớp nhoáng sự việc sẽ xảy ra, có khả năng quyết đúng
một việc cần phải quyết định và không giải thích được. Nếu không có trực
giác, người mua tranh sẽ lúng túng trước bức tranh cần lựa chọn. Muốn có
trực giác tốt cần phải rèn luyện trực giác thông qua việc thường xuyên được
sống trong môi trường nghệ thuật. Nhiều người mua tranh có trực giác tốt đ
ã
mua được những tác phẩm mỹ thuật có giá trị cao với giá rất rẻ, thời nào
cũng có.
Đời sống văn hóa cao đòi hỏi các họa sĩ cũng cần phải có trực giác để cho ra
những tác phẩm thỏa mãn trực giác của người thưởng thức thẩm mỹ.
Trực giác đối với những bức tranh hiện thực
Platon (428-374 tr.CN) so sánh hội họa như chiếc gương soi để xét đoán giá
trị của tác phẩm mỹ thuật, là sự mô phỏng ngoại dạng hay mô phỏng hiện


thực. Arisrtote (384-322 tr.CN) cho rằng mỹ thuật thuộc vào loại nghệ thuật
mô phỏng.
Leon Battista Alberti (1404-1472) nhà hoạt động mỹ thuật thông thái thời
Phục hưng khuyên : "điều cực kỳ quan trọng là vui thích mô phỏng thiên
nhiên với tất cả sự chú tâm và lòng nhiệt thành cần thiết"
Các nhà mỹ thuật cổ điển thế kỷ 17,18 cho rằng cái đẹp không thể tách rời
sự thật của những hình thể tự nhiên, những tiến bộ khoa học kỹ thuật cần
phục vụ đắc lực cho công việc của người sáng tác mỹ thuật.
Courbet (1810-1877) nói "tôi chỉ vẽ cái gì tôi trông thấy". Auguste Rodin
(1840-1917) nói rằng nguyên lý duy nhất trong nghệ thuật là sao chép cái
mà ta nhìn thấy, mọi phương pháp khác đều không bền vững, không có một
cách thức nào khác để làm cho thiên nhiên đẹp hơn.
Tiêu chuẩn này đã tác động lĩnh vực mỹ học từ thời đại này sang thời đại
khác làm cơ sở đánh giá tác phẩm mỹ thuật để đi tới quyết định của người
mua tranh.
Trực giác đối với những bức tranh có ý nghĩa tượng trưng
Phật giáo cho đời là bể khổ. Nguyên nhân của mọi khổ n
ão là do "sinh". Tùy
mức độ tiếp nhận giáo lý Phật ở mỗi dân tộc, khi vào các chùa phật chúng ta
vẫn thường thấy những cảnh tượng phổ biến như bánh xe luân hồi (biểu
tượng của Phật giáo), cây bồ đề (cây thiêng của Phật), con voi trắng (tượng
trưng cho một hóa kiếp của Phật Thích ca)
Nghệ thuật Hồi giáo lấy hình tròn tượng trưng vẻ đẹp hoàn thiện của vũ trụ,
của thánh thần; bông hoa xanh tượng trưng sự nảy nở vĩnh tồn của học
thuyết Allah; tháp chuông biểu tượng sự cao cả, siêu việt của thần linh. Tín
đồ Hồi giáo chú trọng trang trí thánh đường sặc sỡ dù giàu hay nghèo. Vì
nghệ thuật Hồi giáo cấm sử dụng hình người nên những hình học đơn giản
(thẳng, góc, vuông, đa giác, lập phương, nón, tròn, trụ, bầu dục, trôn ốc, mặt
cầu) được kết hợp khéo léo trang trí cho các tác phẩm mỹ thuật của mình.
Khi lệnh cấm vẽ hình được nới lỏng họ sử dụng những hình cách điệu động

vật, tưởng tượng những hình kỳ dị nửa cầm thú rất phong phú tác phẩm
mỹ thuật loại này thường giầu tính trang trí và ẩn ý tượng trưng.
Các tôn giáo thường dùng những biểu tượng có ý nghĩa tượng trưng. Người
mua tranh là các tín đồ rất nhạy cảm mua những bức tranh có liên quan tới
tôn giáo mà mình thờ phụng.
Trực giác đối với bức tranh hình thức chủ nghĩa
Trong một thế kỷ trở lại đây, ở các nước tư bản, các giá trị nghệ thuật đặt
nặng lên đôi vai người nghệ sĩ thì lỗi lầm lớn nhất của các trào lưu hội họa l
à
sự thiếu quan tâm về kỹ thuật, họ sẵn sàng dùng màu bôi bừa lên khung vải.
Một số họa sĩ đương đại miệt mài đi tìm ngôn ngữ nghệ thuật, họ vung vãi
màu sắc tạo thành những mảng, vết lằng nhằng khó hiểu. Nếu chỉ vẽ tranh
bằng ký hiệu một cách tự động thì sáng tác hội họa có lẽ không phải là công
việc khó khăn. Thực ra ý tưởng mà nghệ sĩ có khả năng truyền cảm sau khi
chính vốn kỹ thuật sử dụng chất liệu của anh ta đã được chuẩn bị. Người
mua tranh phải đạt được hứng thú: "nắm bắt được ý tưởng và kỹ thuật thể
hiện tác phẩm" của người sáng tác. Người mua tranh phải cảm nhận được
quy luật nội tại của ngôn ngữ nghệ thuật mà người sáng tác tìm tòi. Nếu
không trực giác được giá trị của bức tranh hình thức chủ nghĩa, người mua
tranh sẽ tránh xa nó.
Vấn đề trực giác của người mua tranh
Mỗi con người cần có thị hiếu thẩm mỹ nhất định. Có thị hiếu thẩm mỹ mới
có ý thức thẩm mỹ, biết thưởng thức mỹ thuật và có thái độ thẩm mỹ. Thái
độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân bao giờ cũng chứa đựng khả năng lựa chọn
trong việc đánh giá.
Trong đời sống hàng ngày, mỗi khi có cơ hội có điều kiện, nhu cầu thẩm mỹ
xuất hiện điều khiển con người, kích thích trực giác thưởng thức. Tùy theo
điều kiện sống ở mỗi con người mà nhu cầu thẩm mỹ có khác nhau. Chắc
chắn nhu cầu mỹ thuật có sẵn trong mỗi con người và khi có cơ hội là nó tr
ỗi

dậy đòi hỏi đáp ứng. Chúng ta cũng không thể nói người mua tranh không
biết thưởng thức, mua phải bức tranh kém chất lượng. Đôi khi việc mua
tranh không hẳn chỉ là nhu cầu thưởng thức mà còn có nhu c
ầu cá nhân khác
hoặc đánh bóng thương hiệu của mình.
Theo Immanuel Kant (1724-1804) thưởng thức mỹ thuật thể hiện bằng sự
thỏa thích. Đối tượng tạo nên sự thỏa thích được gọi là cái đẹp. Cái đẹp là
đối tượng của sự chiêm ngưỡng. Cái đẹp là cái làm hài lòng một cách phổ
quát mà không bằng khái niệm, không cần sự trợ giúp của suy lý, không thể
chứng minh được. Cái đẹp không cần chứng cớ, không cần những tham
chiếu, vì nó là cái không thể bắt chước được. Cái hữu ích gợi lên mục tiêu,
một công dụng, trái lại, cái đẹp là không giới hạn. Cái đẹp gợi ra một sự hòa
hợp nội tại trong kết cấu của tác phẩm và cũng gợi lên sự hòa điệu giữa tác
phẩm và nhu cầu thẩm mỹ của chúng ta.
Đứng trước một tác phẩm, người mua tranh luôn luôn thận trọng và thường
đặt câu hỏi: Tại sao người ta lại vẽ thế này, yếu tố quan trọng chi phối bức
tranh nằm ở đâu, giá trị ở chỗ nào, đằng sau bức tranh còn ẩn giấu cái gì
nữa. Nếu người họa sĩ khi vẽ không tự đặt câu hỏi cho mình, thì ngư
ời họa sĩ
sẽ bế tắc trên con đường tìm tòi sáng tạo vì người mua tranh sẽ hỏi những
câu ấy. Người mua tranh sở dĩ dè dặt mỗi khi đứng trước một tác phẩm vì h

nghĩ rằng lao động nghệ thuật là một lao động đặc biệt mà họ không có khả
năng thực hiện.
Sáng tác mỹ thuật có người nệ thực, có người để cho trí tưởng tượng bay
bổng, khai thác cái vô hình. Điều ấy làm người mua tranh cảm khoái và ng
ạc
nhiên.
Sở thích có giá trị tương đối và ta không thể nào thu gọn sự đẹp vào những
quy tắc phổ quát. Mua tranh chính là mua giá trị nghệ thuật tác phẩm, dù

rằng nó chỉ có giá trị tương đối. Đây chắc chắn là vấn đề khó, phức tạp và tế
nhị đòi hỏi một trực giác nhất định. Tuy vậy, người mua tranh có thể chú ý
những khía cạnh của từng bức tranh cụ thể để "trực giác" khi bức tranh có
những dấu ấn:
- Truyền thống dân tộc, truyền thống địa phương, truyền thống văn hóa
- Của thời đại, phản ánh được sắc thái của dân tộc, không gian văn hóa
- Có tính nhân văn vì con người, cho con người và do con người
- Có hiệu quả thẩm mỹ chỉ dành riêng cho số ít người có tiếng tăm, địa vị
- Là tác phẩm có giá trị và làm cho tác giả trở thành bậc thầy
- Là tác phẩm đại diện cho một trường phái mỹ thuật
- Là tác phẩm nổi tiếng, chứa đựng một số nội dung thật rõ ràng
- Là tác phẩm có một số ưu điểm, giải quyết được chúng một cách thỏa mãn

- Là tác phẩm có ảnh hưởng tới một lĩnh vực nghệ thuật nào đó
- Là tác phẩm đặt nền móng cho những kiệt tác ra đời
- Là tác phẩm phủ nhận phong cách mỹ thuật đã được thừa nhận
- Tác phẩm là nguyên nhân của sự tranh cãi.
- Là tác phẩm đánh dấu sự chuyển hướng sang phong cách đang thịnh hành
Người mua tranh thường đưa ra quyết định dựa trên trực giác và s
ự phân tích
đến sau vì tác phẩm mỹ thuật làm ra chính là để thưởng thức hơn là để tranh
luận. Người mua tác phẩm có khi biến nghệ thuật thành một hàng hóa và
dùng tiền đẩy nghệ sĩ chạy theo thị hiếu riêng của mình. Mỹ thuật khi trở
thành thương mại thì người sáng tác mỹ thuật tự đánh mất phong cách, các
tác phẩm trở nên một thứ hình thức bố cục trang trí rối rắm nhưng nh
ạt nhẽo.
Nhiều gallery làm hại tác giả bởi ý tưởng mà họ khơi gợi cho nghệ sĩ mỗi
khi đặt hàng.
Tác phẩm nghệ thuật và người mua tranh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tác
phẩm sống nhờ người mua tranh và người mua tranh luôn luôn cần tác

phẩm.
Điều kiện của cá nhân để mua tranh
Nếu cho rằng cần đi sâu vào bản chất của mua tranh thì cũng cần phải nói
rằng việc mua tranh không tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ vì b
ức tranh
ấy đẹp mà phải từ yêu cầu của điều kiện sống sinh hoạt, khả năng kinh tế,
trình độ kiến thức và trực giác của người mua tranh.
Tinh thần con người được hưởng thụ từ nhiều yếu tố và giá trị của tác phẩm.
Những yếu tố hợp thành chắc chắn sẽ có liên quan tới đời sống tâm lý, kiến
thức xã hội, tiềm năng kinh tế cá nhân, sự nhậy cảm giá trị tác phẩm và trí
tưởng tượng. Những người sống ở miền Bắc Việt Nam, ôm ấp những cảm
giác thận trọng, thích ăn uống nghiêng về một đời sống có trật tự, ngăn nắp.
Nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của họ có chuẩn mực, bài bản. Người miền
Trung sống giữa thiên nhiên khắc nghiệt, bên bờ biển đông nắng chói thiên
về thương mại, ăn uống có tiết độ, tuân thủ những tập quán xã hội, những tổ
chức chính trị, những tình cảm truyền thống và những khả năng thích hợp
cho việc thỏa mãn các loại hình nghệ thuật đi vào chiều sâu của tình cảm
trầm buồn man mác. Người miền Nam ít sống giữa thiên tai, dễ kiếm sống
thì thiên về cuộc sống cộng đồng, nhóm họp, tươi vui thích hợp cho việc
hưởng thụ những trào lưu nghệ thuật đương đại tràn vào, nghệ thuật ứng
dụng đa dạng.
Kết luận
Ngày nay sự hỗn độn rất phổ biến. Sự hỗn độn này được thể hiện rõ trong
nhiều tác phẩm mỹ thuật đương đại, có lẽ vì không có sân chơi chung cho
người sáng tác và người thưởng thức mỹ thuật. Nền văn minh vật chất đã t
ạo
ra thời đại đầy tham lam, đó là hiện tượng đáng tiếc và mỹ thuật cũng vậy.
Xu hướng ngày nay càng có nhiều họa sĩ lao vào con đường sáng tác chuy
ên
nghiệp. Điều khó tránh khỏi là từ sự cọ xát trên thương trường chứ không

phải do cuộc đua tài sáng tạo. Thực chất là sự cạnh tranh (thường l
à khó lành
mạnh), tất yếu sẽ dẫn đến sự phân hóa nghệ thuật sâu sắc. Trong tương lai
gần, thị trường tranh Việt Nam nếu không có sự tham gia tích cực của Hội
Mỹ thuật sẽ trở thành trung tâm của hàng lưu niệm rẻ tiền, hàng t
ứ xứ có căn
nguyên từ sự tham lam vô độ của thị trường nghệ thuật.
Sức ép kinh tế gia đình đẩy họa sĩ có 3 sự lựa chọn: dành m
ột phần thời gian
làm tranh thương mại để lấy kế sinh nhai, dành một phần thời gian làm tác
phẩm có chuẩn mực nhất định để gửi triển lãm và dồn tâm huyết để làm tác
phẩm độc đáo tham dự các giải thưởng và chờ khách mua giá cao. Chính sự
lựa chọn làm cho giới sáng tác mỹ thuật bị phân hóa và có thể họa sĩ kiếm
tiền giỏi chưa chắc đã là họa sĩ tài năng.
Người mua tranh có nhu cầu của mình và nếu người sáng tác chạy theo thị
trường, không thuyết phục được người mua tranh, không cố làm cho người
mua tranh hiểu những gì mình đang làm cũng coi như thị trư
ờng tranh bị mất
khách hàng.
Mỗi đất nước có một niềm tự hào của mình là có những nét riêng truyền
thống độc đáo mà nước khác không có. Trách nhiệm của người sáng tác cần
phải biến những nét độc đáo của đất nước thành giá trị nghệ thuật trên mỗi
tác phẩm mỹ thuật. Mọi vật liệu sáng tạo đều có sẵn trong thiên nhiên, ngư
ời
mua tranh chỉ cần người nghệ sĩ chuyển cái có sẵn thành cái bất ngờ, hình
tượng cao quý của cái thật thành cái đẹp mong đợi. Ngư
ời sáng tác mục kích
hi
ện thực, nhạy cảm với nền văn minh ấy, dần dần linh cảm biến dạng những
hiện thực thành những hiện thực mới, không còn là tình cảm mà là nh

ững dự
báo. Một khi người mua tranh cần người sáng tác mỹ thuật là lúc nền mỹ
thuật của chúng ta đang trên đà phát triển.
Lê Đình Thuận

×