Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kỹ thuật trồng và bón phân cho cây hồi docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 12 trang )

Kỹ thuật trồng và bón phân cho cây hồi (01-09-2012)

Hồi là cây đặc sản có giá trị cao ở một số khu vực dọc biên giới Việt - Trung.
Ở vùng này, hồi có chất lượng tinh dầu tốt, có thể xuất khẩu, được đồng bào
dân tộc Tày, Dao ở Lạng Sơn trồng từ hàng thế kỷ nay.
Tên đồng nghĩa: Illicium anisatum Lour, 1790, non L., 1759; Badianifera
officinarum Kuntze, 1891.
Tên khác: Đại hồi, Bát giác hương, Đại hồi hương, Hồi sao, Hồi 8 cánh, Mắc
hồi(Tày).
Họ: Hồi – Illiciaceae
Tên thương phẩm: Chinese star anise, Star anise, Anise oil


I- Hình thái:
Cây gỗ nhỏ, thường xanh, cao 6-8(-15)m, đường kính thân 15-30cm.
Thân mọc thẳng, tròn, vỏ ngoài màu nâu xám. Cành non hơi mập,
nhẵn, màu lục nhạt, sau chuyển thành màu nâu xám. Lá mọc cách và
thường tập trung ở đầu cành, trông tựa như mọc vòng; mỗi vòng
thường có 3-5 lá. Phiến lá nguyên, dày, cứng, giòn; hình trứng thuôn
hay trái xoan thuôn; kích thước 6-12x2,5-5cm; đầu lá nhọn hoặc tù,
gốc lá hình nêm; mặt trên màu lục sẫm, nhẵn, mặt dưới xanh nhạt;
gân dạng lông chim, gồm 9 - 12 đôi, không nổi rõ. Cuống lá dài 7 -
10cm. Hoa mọc đơn độc ở nách lá, có khi xếp 2-3 cái; cuống to và
ngắn; 5 lá đài màu trắng có mép màu hồng; 5-6 cánh hoa đều nhau
màu hồng thẫm. Quả kép gồm 6-8 đại (có khi hơn), xếp thành hình
sao đường kính 2,5-3cm, lúc non màu lục, khi già màu nâu sẫm, mỗi
đài dài 10-15mm, có mũi nhọn ngắn ở đầu. Hạt hình trứng, nhẫn
bóng. Hoa tháng 3-5, quả tháng 6-9.
II- Các thông tin khác về thực vật:
Chi Hồi (Illicium) gồm khoảng trên 40 loài, phân bố chủ yếu ở khu
vực Đông Nam Á, Đông Á và Bắc Mỹ. Đến nay, ở nước ta đã phát


hiện được khoảng 16 loài thuộc chi Hồi (chiếm 40% số loài của cả
chi). Riêng tại Sa Pa (Lao Cai) đã gặp tới 6 loài. Quả và lá của hầu
hết các loài trong chi Hồi đều chứa tinh dầu. Thành phần hoá học
trong tinh dầu của mỗi loài cũng rất khác nhau, rất đa dạng.
1/ Việt Nam: Đến nay vẫn chưa gặp Hồi (Illicium verum) sinh trưởng
ở trạng thái hoang dại. Nhiều ý kiến cho rằng, hồi là cây nguyên sản
ở vùng Đông Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, hồi
được trồng chủ yếu ở Lạng Sơn (Văn Quán, Bình
Gia, Cao Lộc, Bắc Sơn, Chi Lăng, Văn Lãng, Thị xã Lạng
Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, Tràng Định…) và Quảng Ninh (Bình
Liêu). Gần đây hồi đã được đưa trồng ở Cao Bằng (Đông Khê)
và Bắc Kạn.
2/ Thế giới:
Cây cũng được trồng nhiều tại miền Nam Trung Quốc (Quảng
Đông, Quảng Tây, Vân Nam, đảo Hải Nam). Hoa hồi đã được nhập
trồng tại Nhật Bản, Ấn Độ.


III- Đặc điểm sinh học:
Hồi đã được trồng trọt từ rất lâu đời tại các khu vực đồi núi vùng Đông
Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc. Các rừng hồi hiện có, tập trung
chủ yếu ở độ cao (200-)300-400(-600)m, với nhiệt độ trung bình năm trong
khoảng 18-220C và tổng lượng mưa trung bình năm (1.000-)1.400-1.600
(2.800) mm. Vùng trồng hồi tập trung ở cả Việt Nam và Trung Quốc đều
chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc, hàng năm có tới 4 tháng
nhiệt độ không khí xuống thấp (trung bình 13,5-150C) và thường có sương
muối.
Cây ưa lớp đất mặt dày, độ phì cao, thoát nước tốt, có độ pH 5-8, đặc biệt
là đất feralit màu đỏ, màu nâu đến màu vàng, phát triển trên sa diệp thạch.
Hồi là cây ưa sáng, song ở giai đoạn non lại cần được che bóng. Trong giai

đoạn đầu, cây sinh trưởng rất nhanh theo chiều cao (tăng trưởng theo
chiều cao có thể đạt tới 1,5-2,0 m/năm). Cây 5-6 năm tuổi có thể cao tới 9-
10m. Cây trồng từ hạt có thể ra hoa, bói quả ở giai đoạn 5-6 năm tuổi.
Thông thường, hổi nảy chồi vào 2 vụ trong năm. Vụ chính (còn gọi là vụ
xuân) cây nẩy chồi vào cuối tháng 1 đầu tháng 2; vụ phụ (hè thu) từ các
tháng 6-7 đến 10-11. Vụ hoa chính thường vào tháng 7-9 và cho quả chín
vào tháng 7-9 năm sau. Đây là vụ hồi chính (vụ hồi mùa). Thực tế thì vào
tháng 3-4 hàng năm cũng có một vụ hồi chiêm, song chất lượng quả thấp,
vì chủ yếu là những quả còn non bị rụng, quả chưa phát triển đầy đủ
(thường gọi là “hồi đinh”, “hồi chân chuột”, “hồi chân chó”…).
Nếu quan sát kỹ ta thấy, một số cây hồi thường ra hoa, mang quả rải rác
quanh năm. Hồi mùa là vụ chính (cả năng suất, chất lượng quả đều cao).
Thời gian từ khi nở hoa, thụ phấn đến lúc quả chín thường kéo dài khoảng
1 năm. Thường sau mỗi chu kỳ 2-3 năm cây lại sai quả một lần.
IV- Thành phần hoá học:
Tinh dầu hồi chứa chủ yếu ở trong quả (3-3,5% trong quả tươi và 8-13%
trong quả khô). Trong lá cũng chứa tinh dầu, nhưng hàm lượng thấp (0,3-
1,0%). Thành phần chủ yếu của tinh dầu là trans-anethol (80-
98%); ngoài ra còn có khoảng trên 20 hợp chất khác (limonen, -
pinen, -phellandren, linalool, -3-
caren, methylchavicol, myrcen, anisaldehyd, sabinen, 4- terpineol,
paracymen, -terpinen…). Cis-anethol thường chỉ có hàm lượng rất nhỏ (vết
- 0,1%), nhưng lại rất độc và độ độc gấp 15-30 lần so với trans-anethol. Vì
vậy, tinh dầu hồi sẽ gây ngộ độc nếu dùng quá liều lượng hoặc dùng nhiều.
Chất lượng của tinh dầu hồi phụ thuộc chặt chẽ vào hàm lượng của trans-
anethol trong tinh dầu. Dưới đây là mối tương quan giữa độ đông và hàm
lượng trans - anethol trong tinh dầu hồi: Hạt hồi chứa khoảng 50-
80% dầu béo với thành phần chính là các acid oleic, linoleic, stearic và
myristic. Những nghiên cứu gần đây của Viện Hoá học (Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) đã cho biết, từ quả hồi (đôi khi còn có tên gọi là “hoa

hồi”) đã tách và chiết được acid shikimic. Cứ 100kg quả hồi khô có thế
chiết được từ 6,5-7kg acid shikimic. Acid shikimic được coi là nguồn
nguyên liệu quan trọng để chế biến thuốc tamiflu, một loại thuốc chủ yếu
để chữa trị bệnh cúm gia cầm H5N1 hiện nay.


V- Kỹ thuật nhân giống, gây trồng:
Hồi được nhân giống chủ yếu từ hạt. Hạt được chọn từ quả chín ở vụ hồi mùa
(tháng 7-9), từ những cây mẹ khoẻ, sai quả, chống chịu sâu bệnh tốt, ở giai
đoạn 15-20 năm tuổi. Quả thu về cần trải thành một lớp mỏng ở nơi râm,
thoáng mát khoảng 4-5 ngày, để tách lấy hạt. Hạt hồi chứa dầu béo và sẽ mất
sức nẩy mầm rất nhanh; nên cần được gieo ngay sau khi thu hái hoặc bảo
quản trong cát ẩm. Thời gian bảo quản càng lâu thì tỷ lệ hạt nẩy mầm càng
giảm.
Vườn ươm cần chọn đất sét nhẹ, đất đỏ, nhiều mùn, đủ ẩm. Trước khi gieo
hạt cần cày bừa kỹ, dọn sạch cỏ, bón lót phân hữu cơ sinh học (20-30 tấn/ha),
xử lý thuốc diệt nấm. Để hạt nảy mầm tốt, trước khi gieo cần ngâm hạt bằng
nước ấm (35-370C) trong 2-3 giờ. Hạt có thể gieo theo rạch, gieo vãi hoặc gieo
vào các bầu đất đã được chuẩn bị sẵn, 1kg hạt có thể gieo trên diện tích 80-
100m2. Sau khi gieo cần phủ lên trên một lớp rơm rạ hoặc cỏ tranh mỏng và
tưới đủ ẩm. Tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, hạt có thể nẩy mầm sau khi gieo
từ (15-)20- 40(-90) ngày. Lúc này cần bỏ dần lớp rơm rạ phủ và làm giàn che
bóng cao 50-60cm. Thời gian đầu cần che kín, sau đó giảm dần độ che theo
mức độ sinh trưởng của cây. Vườn ươm cần làm sạch cỏ, đủ ẩm, bón phân bổ
sung, phòng trừ nấm gây hại gốc và rễ cây non. Khoảng 18- 20 tháng sau khi
gieo, cây con đã cao 50-70cm. Đây là thời điểm có thể chuyển cây giống ra
trồng trên diện tích sản xuất.
VI- Trồng và chăm sóc:
Cây hồi đòi hỏi phải trồng trên đất tốt tầng dầy, pH=4,5, hàm lượng mùn cao
(>3%) đất đủ ẩm quanh năm, thoát nước tốt. Không nên trong hồi trên đất đá

vôi, ít chua hoặc trung tính, đất cát pha, trên đất cát, đất tầng mỏng xói mòn
mạnh. Đất thích hợp nhất để trồng hồi là đất đỏ cũng có thể trồng dưới rừng
gỗ, đất nghèo Kali và cố thể mở rộng trên đất trảng cỏ cây bụi. Có thể xử lý
thực bì bằng phương pháp cục bộ theo hố rộng khoảng 0,7 - 0,8m, có độ tán
che ban đầu cho cây mới trồng.

Ánh sáng: Giai đoạn dưới 5 năm tuổi cây hồi không chịu được ánh sáng trực
xạ mạnh. Đến 8 năm tuổi, cây hồi bắt đầu ra hoa, kết quả, nhu cầu ánh sáng
cũng tăng dần. Đến giai đoạn 20 năm tuổi trở lên, cây hồi đòi hỏi ánh sáng
hoàn toàn.

Nước: Ở giai đoạn non từ 1-3 tuổi, cây hồi cần nhiều nước, vì thuộc dạng cây
ưa ẩm. Đến giai đoạn trưởng thành (trên 10 năm tuổi), cây hồi có khả năng
chịu hạn ở mức trung bình, và thích ứng linh hoạt với các điều kiện cung cấp
nước khác nhau của môi trường.

Thời vụ trồng tốt nhất là mùa xuân hoặc mùa mưa. Nên trồng hồi ở những
sườn đồi có tầng đất mặt tương đối dày, đủ dinh dưỡng. Mật độ trồng hồi
khoảng từ 400-500 cây/ha. Hố trồng cần đào sâu 50-60cm, rộng 50-60cm, bón
lót 5-10kg phân hữu cơ sinh học và làm sạch cỏ xung quanh. Sau khi trồng
cần tưới nước đủ ẩm, che bóng. Nên giữ lại những cây rừng sẵn có xung
quanh để làm cây che bóng. Về sau sẽ dọn dần cây rừng theo mức độ lớn và
sinh trưởng của hoa hồi. Trong những năm đầu có thể trồng xen khoai, đỗ,
đậu, sắn hoặc chè để tận dụng đất và chống xói mòn.

Để hồi sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất quả cao, hàng năm cần
bón phân hữu cơ sinh học + Better NPK 12-12-17-9+TE (khoảng 15-20
kg/cây) vào giai đoạn trước lúc cây ra hoa và sau khi thu hoạch quả. Khi bón
cần đào rãnh quanh tán cây, rải phân vào rồi lấp đất lên, dọn cỏ, phát bỏ dây
leo, cây bụi ở xung quanh và vun gốc. Chăm bón tốt, cây sinh trưởng, phát

triển thuận lợi, năng suất quả sẽ cao.

Đến nay vẫn chưa có thông tin gì về sâu bệnh hại ở cây hồi. Một vài tài liệu có
đề cập tới tuyến trùng (Radopholus similis) gây hại đối với một số cá thể ở
một vài khu vực.

Ở giai đoạn 5-6 năm tuổi, năng suất quả rất thấp, thường chỉ 0,5-1 kg/cây.
Đến thời kỳ đạt 10-20 tuổi, năng suất quả trung bình có thể đạt 7-20 kg/cây.
Từ 20 năm tuổi trở đi, cây bắt đầu cho năng suất quả ổn định, thường đạt 20-
30 kg/cây, năm bội thu có thể tới 35-40 kg/cây (năng suất tối đa có thể đạt 45-
50 kg/cây). Nếu được chăm bón tốt, hồi cho năng suất cao và ổn định, có thể
kéo dài trong giai đoạn từ 20 đến 80 năm tuổi. Sau đó năng suất sẽ giảm dần.
Chu kỳ canh tác có thể tới 90-100 năm.


VII- Khai thác, chế biến và bảo quản:
Sau khi thu hoạch, quả cần được phơi ngay, vì để lâu dễ bị mốc. Cũng có thể
nhúng qua nước sôi nhanh trong vài phút để diệt men rồi mới phơi. Với cách
làm này quả có màu đỏ, đẹp, nhưng hàm lượng tinh dầu có giảm đi chút ít.
Thường cứ 100 kg quả tươi sau khi phơi sẽ cho chừng 25-30kg khô.
Trên thị trường, sản phẩm quả hồi khô được chia thành 3 loại:
- Loại 1 (hồi đại hồng): quả đủ 8 cánh to, đồng đều, không bị lép, màu đỏ nâu,
cuống ngắn (3-5 mm), không mốc. Đây là loại có phẩm cấp tốt nhất.
- Loại 2: (hồi xô): quả có cánh không đều, màu cánh gián, một số cánh bị lép,
giập, gãy.
- Loại 3: quả thu hái non, quả vụn, lép nhiều, màu nâu đen. Đây là loại có chất
lượng kém.
Hồi thường được tiêu thụ ở dạng quả khô hoặc sản phẩm tinh dầu. Có thể cất
tinh dầu khi quả còn tươi hay đã phơi khô. Đồng bào các dân tộc ở Lạng Sơn
thường cất tinh dầu hồi bằng các nồi cất kthủ công, đơn giản, tương tự như

cất rượu. Thời gian cất có thể kéo dài từ 18-24 giờ. Để có hiệu suất và chất
lượng tinh dầu cao, cần sử dụng các thiết bị chưng cất liên tục bằng hơi nước
có hồi lưu với nồi hơi riêng. Bã còn lại sau khi cất tinh dầu có thể dùng làm
nhiên liệu để đun hoặc ủ trộn với phân súc vật để bón cho cây trồng.


VIII- Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn:
Không chỉ ở châu Á (đặc biệt là các nước khu vực Đông Nam Á), mà tại nhiều
nước châu Âu (Pháp, Đức, Ý…) và châu Mỹ (Hoa Kỳ, Cu Ba…) quả và tinh
dầu hồi được coi là gia vị ưa thích trong chế biến thực phẩm. Trong
danh mục các thương phẩm an toàn được phép sử dụng trong sản xuất thuốc
và chế biến thực phẩm của Hoa Kỳ, quả hồi mang ký hiệu “GRAS 2095” và
tinh dầu hồi mang ký hiệu “GRAS 2096”.
Hồi lại là nguồn nguyên liệu có thể tách chiết acid shikimic, nguồn nguyên liệu
để tổng hợp chất Osaltamivir - hoạt chất của thuốc tamiflu - hiện được coi là
thuốc kháng virus có hiệu quả trong việc phối hợp điều trị cúm gia cầm H5N1
trên người nếu được sử dụng ở giai đoạn sớm.
Trong hệ thực vật Việt Nam, chi Hồi (Illicium) có nguồn gen rất phong phú,
rất đa dạng, hiện đã thống kê được khoảng 16 loài. Tất cả các loài trong chi
Hồi (Illicium) ở nước ta đều chứa tinh dầu với các thành phần hoá học khác
nhau. Ở một số loài tinh dầu lại chứa chủ yếu là safrol, linalool và methyl
eugenol… Các loài trong chi Hồi ở Việt Nam là nguồn gen quý cần được
nghiên cứu để khai thác, bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững.

×