DƯƠNG HƯỚNG MINH TỪ HIỆN
THỰC TRONG CUỘC ĐỜI ĐẾN
HIỆN THỰC TRONG NGHỆ THUẬT
DƯƠNG HƯỚNG MINH-Tuổi trẻ
sinh viên-sơn mài, 1996
Năm 1996, họa sĩ Dương Hướng Minh mở triển lãm cá nhân mang tiêu
đề: “Cội nguồn, Đất nước, Tình ca” nhân kỷ niệm 60 năm tuổi nghề
của ông. Trong 60 tranh trưng bày, phải kể đến bốn tranh sơn mài cỡ
lớn: Thanh bình, Huyền thoại về cội nguồn Âu Lạc, Tuổi trẻ nữ sinh,
Tuổi trẻ sinh viên - mà theo ông - có tính chất chuyển hướng đề tài và
ngôn ngữ biểu hiện, và đều đã được hoàn thành ngay trước ngày khai
mạc triển lãm.
Năm 2000, trong bản tự kiểm điểm tư cách đảng viên của mình sau 15
năm kể từ thời kỳ đổi mới, họa sĩ Dương Hướng Minh viết: “Bước vào
môi trường sinh hoạt của thời kỳ kinh tế thị trường phát triển, bản thân
vẫn giữ được nếp sống giản dị, thanh bạch, vẫn quan tâm rèn luyện
thân thể, đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh, minh mẫn, không còn một
bệnh mãn tính nào dù đã là một nghệ sĩ, cựu chiến binh trên 80 tuổi
đời”.
Về nghệ thuật, với ông, vẫn là tiếp tục không ngừng “ lo tìm kiếm và
làm thế nào phát hiện được cái mới trong ngôn ngữ sáng tạo , góp
phần làm phong phú tính chất tiên tiến của hội họa đương đại đậm đà
bản sắc dân tộc”. Cũng vào năm 2000, ông đã vinh dự được đón nhận
huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thực ra, tên gọi Dương Hướng Minh chỉ xuất hiện từ ngày 23/8/1945,
ngày lịch sử Nam Bộ giành chính quyền từ đô thành Sài Gòn - Chợ
Lớn, đồng thời đã cầm vũ khí chống thực dân Pháp mưu đồ xâm lược
nước ta một lần nữa.
Họa sĩ Dương Hướng Minh có tên thật là Nguyễn Văn Tiếp, sinh ngày
6/2/1919, trong một gia đình dòng nho học yêu nước tại xã Xuân Dục,
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, vốn là cái nôi của cuộc khởi nghĩa Bãi
Sậy. Ông ngoại ông, khóa sinh Bùi Văn Mạch, đã từng là cánh tay tâm
phúc của lãnh tụ nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật, sau bị quân thù đầu
độc chết. Thất bại của cuộc khởi nghĩa khiến một số tướng lĩnh nghĩa
quân bị địch xử tử tại trường bay Bạch Mai, cùng với sự tàn sát dã man
dân lành; ba thôn xã Xuân Dục ngày ấy cũng bị địch triệt hạ không còn
cây cối nào sống sót.
Năm 1936, Dương Hướng Minh (Nguyễn Văn Tiếp) vào học lớp dự bị
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm1938, thi đỗ vào khóa
12, khoa hội họa. Sau khi tốt nghiệp, ông hoạt động nghệ thuật tự do,
có một cuộc triển lãm cá nhân tại Nhà hát lớn Hải Phòng, tháng
12/1944, nhờ sự ủng hộ và giúp đỡ của một số anh em trong Tổng hội
Sinh viên.
1945 - 1954, ông trực tiếp tham gia chiến đấu trong lực lư
ợng biệt động
nội thành, rồi chuyển sang quân đội tại đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tháng 12/1954, sau khi hoàn thành nhiệm vụ chủ công bảo vệ khu tập
kết Đồng Tháp Mười, ông đã cùng đơn vị tinh nhuệ đặc biệt trực thuộc
Bộ tư lệnh Quân khu miền Đông chuyển quân tập kết ra Bắc trên
chuyến tàu cuối cùng của Ba Lan.
1955, ông được Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân điều từ đơn vị
đặc công về Hà Nội, tham gia tổ chức xây dựng triển lãm quân đội ở
phố Bích Câu. 1956-1959, lần lượt công tác tại báo “Quân đội Nhân
dân”, Phòng Văn nghệ Quân đội và Bảo tàng Quân đội. Hội viên sáng
lập Hội Mỹ thuật Việt Nam.
1960-1982, ông chuyển ngành sang Bộ Văn hóa: giảng viên Trường
Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam, cán bộ nghiên cứu Viện Mỹ thuật và
cuối cùng làm ủy viên ban biên tập tạp chí “Văn hóa Nghệ thuật”. Bởi
vậy, ông cũng là tác giả của một số bài tham luận hội nghị và một tập
bản thảo dưới dạng nhật ký tư liệu khoa học tương đối hoàn chỉnh về
mỹ thuật ứng dụng và nhất là về tạo dáng công nghiệp; bên cạnh đó là
mảng hoạt động báo chí của ông, chủ yếu đăng trên tạp chí “Cộng sản”
và báo “Nhân dân”.
Một thời kỳ dài, Dương Hướng Minh đã được xem như một trong
những “người lính gác về tư tưởng” của Đảng trong lĩnh vực mỹ thuật.
Là một họa sĩ kỳ cựu từng có một thời kỳ “huyền thoại - trữ tình”,
những tác phẩm như Vườn mộng, Trăng - Gió - Bướm - Hoa, với “một
vẻ ngớ ngẩn hay và một cách đặt màu lạ” (Nguyễn Đỗ Cung, “Ngày
nay”, 23/12/1939) - trên thực tế, ngay từ những năm 1943-1944,
Dương Hướng Minh (lúc ấy còn gọi là Nguyễn Văn Tiếp) - “ do phát
hiện thấy vạn vật chuyển động trong không gian ba chiều tạo nên
đường chân trời cong - ông viết - nên đã vẽ hàng loạt ký họa để thể
nghiệm và sáng tác các tác ph
ẩm đầu tay theo bút pháp nghệ thuật động
với nội dung hiện thực phê phán”, qua một số tranh sơn dầu: Đẩy đổ
cửa Ga Hàng Cỏ mà đi (khổ lớn 130x160cm), Công nhân đi tầm trong
sương mù, Xếp hàng chờ gạo và chết đói (vẽ trực tiếp tại Hải
Phòng),v.v.
Về bức tranh Đẩy đổ cửa Ga Hàng Cỏ mà đi, chính họa sĩ có lời chú
giải như sau: “Đây là bức tranh hiện thực phê phán được thể hiện theo
bút pháp nghệ thuật động. Bức tranh này bắt nguồn từ hiện thực nóng
bỏng diễn ra ngày ấy tại Ga Hàng Cỏ
Từ Hải Phòng lên Hà N
ội, tôi liền đến khu học xá thăm một số bạn sinh
viên, đúng vào thời điểm có nhiều sinh viên rủ nhau ra nhà ga đ
ể chứng
kiến cảnh nhân dân ta đã mấy ngày liền đấu tranh đòi bọn quân phiệt
Nhật mở cửa ga để họ đi tàu sau mấy ngày chờ đợi, nhất là do chúng
chiếm lĩnh tàu để chuyển quân và lương thực nên chúng rất ngoan cố.
Chúng còn dùng lính sen đầm của Pháp hỗ trợ, ngăn cản h
àng ngàn dân
luôn sẵn sàng phá đổ cửa ra sân ga.
Tìm được mấy bạn chí cốt, lại đã mang theo mình phương tiện ghi
chép, tôi theo ngay anh em ra ga đ
ể cảm nhận hiện thực ngang trái đang
diễn biến căng thẳng.
Khi vừa đến nơi, đúng lúc nhân dân đẩy đổ cửa ga chính, mở ra một
vòm trời bừng sáng, đầy ắp nắng quái chiều hôm. Lớp lớp nhân dân ùn
ùn ào ra cửa hất tên sen đầm Pháp ngã bổ ngửa xuống sân và giẫm đạp
vô tội vạ lên người tên hiến binh Nhật đã ngã sấp, không cựa được.
Hàng bao nhiêu nón của bà con giơ cao để dễ bề lao ra sân tiếp nhận
nguồn nắng quái cũng tạo nên tính chất kỳ vĩ của hiện trường mà nhân
dân như vùng lên làm chủ trong việc giành lấy tàu mà đi, được anh em
lái tàu ủng hộ”.
Điều đáng tiếc là những bức tranh hiện thực ở thời kỳ “tiền chiến” của
họa sĩ Dương Hướng Minh, cùng với cả m
ột kho tranh của ông cất giấu
tại một địa điểm trên núi Côn Sơn, đã bị mất trong một cuộc càn quét
lớn của quân Pháp năm 1947
Tuy nhiên, phải đến 1957, sau hơn 10 năm “gác bút để cầm súng”, qua
tác phẩm sơn mài Kéo pháo ở Điện Biên Phủ, nghệ thuật hiện thực của
Dương Hướng Minh quả tình mới tạo ra được một dấu ấn quan trọng
nhất, khi mà trong đó, những tư tưởng và phương pháp sáng tác của
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đương thời đã được ông tiếp thu
và thể hiện hoàn toàn thích hợp, thay vì một tính hiện thực vốn dĩ là “t
ự
phát” ở các thời kỳ nghệ thuật của chính ông trước đó.
Trong “thời kỳ 10 năm” đỉnh cao của hội họa sơn mài hiện thực Việt
Nam (1954-1964), có thể nói, bức tranh Kéo pháo ở Điện Biên Ph
ủ của
Dương Hướng Minh là một trong những tác phẩm thành công xuất sắc,
không chỉ bởi tính chất tuyên ngôn và tính chính luận cao cả của chủ
đề, mà còn bởi một tính sử thi chiến đấu oai hùng và sâu lắng, là hiện
thân của mục tiêu kiên định, ý chí đấu tranh, sức mạnh đoàn kết, khí
phách và chính nghĩa Việt Nam.
“ Kéo pháo, sơn mài, 1957 - tác giả Dương Hướng Minh viết chú giải
- dự Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1958, giải thưởng mỹ thuật toàn
quốc 1958. Tranh thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Kéo
pháo đã tham dự cuộc Triển lãm Mỹ thuật các nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên ở Thủ đô Moskva năm 1959, sau đó đưa triển lãm lần lượt đến
tám nước Đông Âu trong hai năm 1960-1961. Năm 1959, Bác Hồ giao
cho Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam và Bộ Ngoại thương phối hợp
hoàn thành trong một năm bức tranh thêu chuyển thể từ tác phẩm Kéo
pháo. Bác đã sang thăm Trung Quốc và mang bức tranh thêu tặng Mao
Chủ tịch.
Kéo pháo, được Bộ Quốc phòng yêu cầu tái dựng kịp để Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, thay mặt Bộ Quốc phòng và toàn dân, đem chúc thọ Bác
Hồ nhân dịp sinh nhật của Người 19/5/1959. Bức này đã được Bác đưa
đến lễ khai mạc Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng, sáng
ngày 5/9/1960, để chào mừng và tặng Đại hội. Tiếp đến, được chuyển
vào Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi Sài Gòn và miền Nam hoàn toàn
giải phóng”.
Trong mảng sáng tác về đề tài cách mạng kháng chiến, Dương Hướng
Minh còn được chú ý qua một số tác phẩm sơn mài khác: Chèn pháo
(1960, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), Giáp trận I (1990), Giáp trận II
(1999, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), Trường Sơn, mùa lá đỏ
(2000, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), Trường ca Việt Nam -
Điện Biên Phủ 1 và 2 (2005) Và hầu như ở tác phẩm nào ông c
ũng có
những lời chú giải hết sức cụ thể và xác th
ực về lai lịch của những nhân
vật - hình tượng, những sự kiện, những bối cảnh mà ông đã từng xúc
cảm và thể hiện bằng nghệ thuật.
Bình sinh là người giản dị, ngay thẳng, thuần phác; có bản lĩnh và lòng
dũng cảm, giàu ước mơ, niềm tin và khát vọng cống hiến; lại được hun
đúc trong ngọn lửa truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình -
con đường sớm đến với chủ nghĩa hiện thực của Dương Hướng Minh
âu cũng là một điều tự nhiên và dễ hiểu, và chính điều đó đã làm nên
giá tr
ị chủ yếu cho nghệ thuật ông. Trong nền nghệ thuật hiện thực Việt
Nam thế kỷ 20, đặc biệt là hiện thực cách mạng kháng chiến, mặc
nhiên, Dương Hướng Minh có một vị trí riêng biệt.
Nhân dịp năm đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội 2010,
một cuộc triển lãm có tính chất hồi cố các tác phẩm của họa sĩ Dương
Hướng Minh sẽ được tổ chức tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
(khai mạc ngày 1 tháng 4). Cuộc trưng bày lần này có thể sẽ cho công
chúng thêm một lần nữa hiểu rõ hơn về một họa sĩ cựu chiến binh lão
thành nổi tiếng, cùng một sự nghiệp hội họa không kém phần độc đáo
của ông.
Quang Việt