Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

MỸ THUẬT 2011 TRÊN QUÊ HƯƠNG ĐẤT TỔ HÙNG VƯƠNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.65 KB, 6 trang )

MỸ THUẬT 2011 TRÊN QUÊ
HƯƠNG ĐẤT TỔ HÙNG
VƯƠNG
Tôi thật có duyên với mỹ thuật Phú Thọ.
Cả hai lần Phú Thọ đăng cai triển lãm mỹ
thuật khu vực Tây bắc – Việt bắc tôi đều
có mặt. Nhiều lần được mời lên cung cấp
thông tin nghệ thuật, được coi như nạp
thêm nhiên liệu cho sáng tác, đóng góp ý
kiến cho các phác thảo trong các trại sáng
tác của mỹ thuật tỉnh nhà, cám ơn Ch
ủ tịch
Hội và các họa sĩ đã dành cho tôi một sự
ưu ái. Nhờ đó tôi đã thuộc một số tác giả,
tác phẩm.
Đất Tổ Hùng Vương với biết bao huyền
thoại, giai thoại đã đi vào lịch sử của một
dân tộc con rồng cháu tiên. Phú Thọ với con người và cảnh vật quê
hương rừng cọ đồi chè thơ mộng tất cả, tất cả đã đi vào văn thơ nhạc
họa nhất là các thế hệ tác giả hội viên c
ủa Hội văn học nghệ thuật Phú
Thọ đã và đang viết tiếp những trang sử nghệ thuật Phú Thọ.

Về bản mới-sơn khắc-
TRẦN THỊ LỆ THÙY
Sự ưu ái của lịch sử đã và đang là một áp lực lớn cho các thế hệ văn
nghệ sĩ Phú Thọ hôm nay.
Trong kháng chiến chiến tranh chống Pháp, Phú Thọ là “cái nôi” của
văn hóa văn nghệ: Đại hội văn nghệ toàn quốc, Đại hội văn hóa toàn
quốc đều diễn ra trên đất tổ Hùng Vương. Phú Thọ còn hai địa danh đi
vào lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam:


- Tháng 8/1950 tại xã Nghĩa Quân, Đoan Hùng, Phú Thọ đã tuyển sinh
đợt II của Trường Mỹ thuật Kháng chiến do danh họa Tô Ngọc Vân
làm Hiệu trưởng. Cái nôi đào tạo cán bộ mỹ thuật đầu tiên dưới chính
quyền cách mạng.
- Tranh sơn mài Việt Nam trở thành Quốc họa của dân tộc không thể
không nói tới xưởng họa Xuân áng Phú Thọ do danh họa Tô Ngọc Vân
phụ trách trên quê hương của cây sơn Phú Thọ nổi tiếng và công trình
nghiên cứu tranh sơn mài của Tô Ngọc Vân được coi như một dự báo
tài tình về nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Trong tham luận tranh sơn
mài có được đọc tại Đại hội văn hóa năm 1948 tại Phú Thọ. Ông viết:
danh từ sơn mài (lacquer) là một danh từ mới đặt trong mươi năm nay
để chỉ một kỹ thuật trước đây gọi là sơn ta. Nhưng đã biến đổi hẳn do
nghệ thuật mài sơn trở thành tên gọi tranh sơn mài. “dư luận châu Âu
thắc mắc hội họa nên hướng về đâu? chúng tôi đáp? hướng về Việt
Nam hội họa thế giới theo ý chúng tôi sẽ thấy được cách cải sinh cho
mình trong sơn mài”, “Sơn mài có sắc phẩm, có chất phẩm đủ năng lực
để làm tan biến các mâu thuẫn giữa hình – sắc – chất, một mâu thuẫn
đã có từ non thế kỷ nay”. Có thể nói cây sơn Phú Thọ và công trình
nghiên cứu tranh sơn mài của họa sĩ Tô Ngọc Vân năm 1948 được coi
như một quan niệm làm biến đổi lớn về chất nghệ thuật sơn mài Việt
Nam. Đã đến lúc chúng ta cần xác định ranh giới giữa tranh sơn mài và
tranh sơn. Tranh sơn mài với kỹ thuật mài đã trở thành tên gọi tranh
sơn mài theo tiêu chí phẳng – bóng – trong và độ sâu thăm thẳm của
màu. Còn tranh sơn có thể là vẽ trên vóc, trên toan có thể gắn, đắp,
phủ như kỹ thuật sơn ta, có thể mài hoặc không mài. Trong một cuộc
hội thảo tôi còn gọi đó là một thể loại Painture Phú Thọ tổng hơp khác
về chất so với tranh sơn mài.
Đến với trại sáng tác mỹ thuật Phú Thọ 2011 được trực tiếp xem các
tác phẩm chuẩn bị tham dự triển lãm mỹ thuật khu vực Tây Bắc, Việt
Bắc, tôi và họa sĩ Lý Trực Sơn đã trực tiếp trao đổi thẳng thắn và cởi

mở với 30 tác giả trong đó có 22 tranh sơn dầu, 3 tranh sơn khắc, 2
tranh sơn mài, 2 tranh lụa và 2 tượng đá. Nhìn chung các tác giả đã ý
thức được trách nhiệm một khi vẽ về con người và cảnh vật quê hương
“đem chuông đi đánh nước người” chân thực trong cảm xúc, cụ thể về
nội dung, giản dị và dễ hiểu về hình thức. Nằm trong dòng chảy nghệ
thuật chung từ hiện thực đến phi hiện thực, có khả năng đối thoại rộng
rãi. Trong 22 tác phẩm sơn dầu Nhớ rừng, Ký ức vùng cao của Đỗ
Ngọc Dũng, thuộc kênh tạo hình của chủ nghĩa hiện đại. Biết sử dụng
các yếu tố tạo hình: Hiện thực, Tả thực, Siêu thực, Lập thể, Biểu hiện
để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Sau cơn bão của Nguyễn Văn Lợi,
hình tượng nghệ thuật nổi trội hai yếu tố tạo hình: “ẩn và hi
ện” bổ xung
cho nhau, khắc họa được ý tưởng nghệ thuật. Làm vụ đông của Phạm
Văn Kiệm, Hiểm họa của Trần Minh Chuyên, Hoa núi của Đặng Việt
Linh, Quan họ ngày xưa của Nguyễn Văn Thắng; Xuân về của Nguyễn
Quang Hưng, Đi chợ của Đỗ Văn Chung, Ngày chủ nhật của Đặng
Phương Thảo, Dưới ánh trăng của Nguyễn Thị Khiêm, Thánh chiến ở
Bẽc lan - của Nguyễn Bá Đạo, Vết xước của Nguyễn Trung Thành, L
ắp
đặt hệ thống nén khí của Lương Công Tuyên, Chiến khu xưa của
Nguyễn Quốc An, Xây dựng của Đỗ Anh Quảng, Nhớ quê của Dương
Ngọc Hà, Tình ca của Hoàng Thị Chiến, Chung sức của Lê Thái Hưng,
Nguồn Nước của Vũ Văn Hiền, Đợi trong chiều của Đỗ Minh Quảng
Chất liệu sơn dầu được du nhập từ Châu Âu hội đủ khả năng nắm bắt
hình sắc vốn có của tự nhiên hiện thực. Song ngay từ đầu các thế hệ
họa sĩ chúng ta đã vẽ theo quan niệm tạo hình truyền thống phương
đông Việt Nam, sớm định hình định vị một phong cách nghệ thuật sơn
dầu đậm bản sắc dân tộc. Các thế hệ tác giả sơn dầu của Phú Thọ hôm
nay đã biết tiếp thu phong cách nghệ thuật sơn dầu của cha anh, ít hay
nhiều còn thiếu cảm quan của thế hệ mình, có điều vẽ sơn dầu ít màu

mà đa sắc mới khó, như Nhớ rừng, Sau cơn bão, Ngày ch
ủ nhật. Không
ít tác phẩm sơn dầu dùng nhiều màu như không có màu do ít sắc. Sắc
chính là cái nhị của màu như nhị của hoa mới tạo nên hương sắc hấp
dẫn. Tranh sơn khắc đẹp phải khoe cho được nền vóc đã trở thành tên
tranh, những khoảng trống, khoảng vóc còn lại như cầm trịch cho nhịp
điệu tạo hình: Đường ra mặt trận của Nguyễn Huy Tuyển, Tiếng
chuông chiều của Hoàng Gia Vinh, Xuân sơn ngày mới của Hà Bích
Liễu, ít hay nhiều đã biết khoe nền vóc. Song xử lý màu chưa làm nổi
được chủ đề và ý tưởng nghệ thuật của mình, cần diễn màu chứ không
phải bôi màu. Tranh sơn mài Trang điểm của Trần Lệ Thủy, Chiều trên
bản của Nguyễn Đỗ Long, thuộc dòng nghệ thuật sơn mài truyền thống
theo tiêu chí phẳng – bóng – trong và độ sâu thăm thẳm của màu. Song
còn chưa thể hiện được quan niệm của thế hệ mình, truyền thống nghệ
thuật luôn là một giá trị tiếp tục, không chỉ là cái còn lại mà quan trọng
hơn là còn tiếp như thế nào. Vẽ lụa phải khoe cho được nền lụa đã trở
thành tên tranh: Nét đẹp Hà Thành của Cao Thùy Vân, Mùa xuân của
Vũ Thị Hữu đều nằm trong phong cách phong cách nghệ thuật lụa
truyền thống làm chủ được chất liệu, khoe được nền lụa xong chưa
thực sự đổi mới về không gian, diễn hình, diễn màu trước một hiện
thực mới. Hai tác phẩm điêu khắc đá: Nỗi niềm của Quản Tri Hoan,
Phát lệnh của Triệu Hoàng Giang. Cần quan tâm đến tiếng nói đặc thù
của điêu khắc là khối, phải tạo cho được nhịp điệu của khối mới hấp
dẫn người xem.
Từ thực tế hai trại sáng tác Tuyên Quang và Phú Thọ. Tôi nhận thấy
chúng ta cần điều chỉnh mô hình vận động sáng tác triển lãm mỹ thuật
khu vực và giải thưởng hàng năm của Hội: phát hiện phải đi đôi với
xây dựng đội ngũ tác giả, đầu tư chiều sâu cho tác giả.
Điều tôi muốn nói với mỹ thuật Phú Thọ là 3/15 tỉnh thành trong khu
vực có chi hội mỹ thuật Việt Nam mạnh, đã có tác giả được giải thư

ởng
khu vực và giải thưởng của Hội. Song còn nhiều tác giả chưa vươn tới
tầm toàn quốc. Năm 2011 Phú Thọ đã tập hợp đư
ợc 40 tác giả cho triển
lãm này, không phải địa phương nào đều có được tác phẩm, tác giả
nhiều như thế. Tôi biết ngay các tỉnh trong khu vực của chúng ta mỗi
tỉnh cũng có tới vài chục, thậm chí 50, 60 cử nhân mỹ thuật, một vốn
quý của tỉnh nhà. Song các Hội văn học nghệ thuật địa phương chưa có
kế hoạch tập hợp lực lượng đông đảo này phục vụ cho nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Có như thế mới nâng cao được dân trí mỹ thuật cho
vùng sâu vùng xa. Tôi còn hy v
ọng Hội văn học nghệ thuật Phú Thọ do
Chủ tịch Hội là một họa sĩ luôn gương mẫu trong sáng tác đã tập hợp
được đông đảo anh chị em họa sĩ. Sớm thành lập câu lạc bộ mỹ thuật
trẻ đầu tiên trong khu vực mới mong làm thanh xuân nghệ thuật của
mình và có một đội ngũ kế cận đông đảo. Chúc mỹ thuật Phú Thọ có
nhiều tác phẩm vào giải mỹ thuật khu vực Tây bắc - Việt Bắc 2011 tr
ên
quê hương cách mạng Tân Trào.
BẢO HÂN

×